Hành trình về phía Dân chủ Đa nguyên [2]
Tiếp theo kỳ trước
Những biểu hiện của thể chế dân chủ đa nguyên
Những biểu hiện bề ngoài của một thể chế xã hội đa nguyên là những gì bộc lộ ra bề mặt của những vận động nội tại, từ sự hình thành và những tương tác từ bên trong giữa các thành tố xã hội, thể hiện ra bề mặt thành những đặc điểm nhận dạng. Có những biểu hiện mang tính chất chung tồn tại ở mọi loại thể chế, nhưng có những biểu hiện chỉ có thể có, nếu tính chất đa nguyên của thể chế được đảm bảo. Qua những biểu hiện bên ngoài có thể nhận dạng một thể chế thực sự là đa nguyên hay chỉ là sự biến dạng dưới tác động cuả ý chí.
- Sở hữu tư nhân
Trong thể chế chính trị Đa nguyên, sỡ hữu tư nhân là nền tảng cơ sở của chế độ sở hữu.
Một trong những ý thức đầu tiên khi thoát khỏi thế giới động vật của loài người là ý thức về sở hữu. Những ký hiệu ngôn ngữ đầu tiên của loài người là dấu hiệu xác định quyền sở hữu. Theo các nhà nghiên cứu cổ sinh ngữ, từ “cuả tôi”nằm trong nhóm từ vựng đầu tiên cuả ngôn ngữ con người. Như vậy, cơ sở của các tương tác xã hội có xuất sứ từ các quan hệ sở hữu. Quyền sở hữu cá thể là một quyền thuộc các quyền tự nhiên, quyền của Tạo hoá, thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Mọi xung đột trong các tương tác xã hội từ sơ khai cho đến hiện đại, đều có nguồn gốc từ quyền sỡ hữu. Trong cuộc sống hàng ngày, những cố gắng sáng tạo đầu tiên của con người chính là cố gắng chuyển những của cải chưa có chủ sở hữu thành sở hữu của mình. Những va chạm, giành giật và những xung đột đầu tiên trong cộng đồng người là tranh giành quyền sở hữu.
Trong lịch sử, mọi cuộc chiến tranh đều có nguồn gốc từ khát vọng chiếm đọat, chiếm đoạt đất đai, rừng biển, chiếm đoạt tài nguyên, của cải, chiếm đoạt phụ nữ v.v…
Sở hữu tư nhân là nền tảng, là cơ sở tồn tại không thể chối bỏ của xã hội. Các tương tác giữa các chủ sở hữu cụ thể của từng tài sản tạo ra các tương tác xã hội, hình thành nên các hình thái kết cấu khác nhau của xã hội, có mục đích gia tăng tài sản thuộc sỡ hữu của từng cá thể thành phần.
Trong một xã hội đa nguyên, vì vậy, tồn tại tất cả mọi loại hình sỡ hữu khác nhau, xuất phát từ tính đa dạng của sự hình thành tài sản và sản phẩm lao động. Mọi hình thức sở hữu khác, sở hữu gia đình, sỡ hữu nhóm, sở hữu tập thể, sở hữu hội đoàn, sở hữu công xã, sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân v.v..đều có nguồn gốc xuất phát từ sở hữu tư nhân, thúc đẩy bởi mục đích cá thể, có mục đích thoả mãn nhu cầu sở hữu tư nhân, chỉ tồn tại và có giá trị khi trong các loại sở hữu đó, sở hữu tư nhân không bị phá hoại.
Trong mọi hình thái xã hội, nền tảng của ổn định trật tự là sự rõ ràng, minh bạch của sở hữu. Nếu tất cả mọi thứ tài sản trong xã hội đều có chủ sở hữu được xác định rành mạch, hợp lý, xác đáng, được bảo vệ bằng luật pháp độc lập, xung đột chiếm đoạt, một loại xung đột có màu sắc bạo lực sẽ không có môi trường phát triển. Tài sản công, tài sản toàn dân hay tài sản thuộc sở hữu nhà nước là loại tài sản mà chủ sở hữu cuả nó chỉ là một khái niệm, một chủ thể vô hình, trên thực tế là những tài sản vô chủ, là nguồn gốc của sự phát sinh tư tưởng chiếm đoạt, tư hữu hoá, trước hết cuả các cá nhân có cơ hội, tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với các loại tài sản vô chủ, có quyền lực chi phối đối với các tài sản đó, tạo ra các xung đột giành giật, dẫn đến sự tan vỡ tính nhất quán của tinh thần xã hội, tha hoá nền đạo đức cuả hệ thống, phát sinh nguy cơ dẫn đến sự tan rã, sụp đổ của chế độ. Còn có tài sản chưa được định rõ chủ sỡ hữu, còn tài sản chưa được gắn với một điều luật cụ thể, còn có nguy cơ kích thích thèm khát chiếm đoạt, gây ra sự phân hoá, tiềm ẩn rối loạn, bất ổn định.
Các thể chế chính trị, trong đó quy định các chế độ sở hữu không dựa trên nền tảng sở hữu cá thể, huỷ bỏ và không thưà nhận sở hữu tư nhân, là những thể chế duy ý chí, trái quy luật. Trong mọi hình thái xã hội, mọi cấp độ văn hoá, khi sinh hoạt vật chất và tinh thần cuả con người còn tồn tại, xu thế chiếm hữu tư nhân hoá là xu thế tự phát, tự nhiên, không một thứ lý tưởng nào, không một áp lực nhân tạo nào ngăn cản được. Mọi hình thức sở hữu nếu không đáp ứng nhu cầu tư nhân hoá, cá thể hoá, nó sẽ tự tạo ra những rào cản ngay trong cơ chế hoạt động, cản trở phát triển, tiêu hao năng lượng chung cuả xã hội.
Chủ nghĩa cộng sản với chủ trương xoá bỏ mọi loại sở hữu là một chủ nghĩa không tưởng, phản khoa học. Còn con người, thì còn sở hữu. Nhu cầu sở hữu là thuộc tính của con người, và quyền sở hữu là quyền tự nhiên cuả loài người. Không thể có xã hội loài người mà không có sở hữu. Không còn sở hữu sẽ không còn các hoạt động tương tác giữa các cá thể, xã hội trở nên bất động và chết cứng. Chủ nghĩa cộng sản khi chủ trương hướng tới mộ̣t xã hội không còn sở hữu là tự đào mồ chôn mình. Xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn quá độ tiến tới xã hội cộng sản, chỉ thưà nhận các hình thức sở hữu khác nhau với tư cách là các hình thức sở hữu quá độ, trong một chu trình lần lượt biến mất, đầu tiên và trước hết là sở hữu tư nhân, sau đó là sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước và cuối cùng là sở hữu toàn dân. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội khi hoàn thành giai đoạn tạo dựng cơ sở vật chất, sẽ huỷ bỏ sở hữu cá thể. Các chủ doanh nghiệp tư nhân, các chủ sở hữu cá thể của các phương tiện sản xuất sẽ là những đối tượng đầu tiên bị thanh lọc khỏi hệ thống kinh tế xã hội.
Xã hội đa nguyên là sự thống nhất hài hoà lợi ích của toàn bộ cộng đồng trên cơ sở thoả mãn cao nhất quyền sở hữu cuả từng cá thể riêng biệt. Mỗi cá thể riêng biệt có quyền sở hữu hoàn toàn tài sản của mình trên nguyên tắc không xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Khát vọng sở hữu trong thể chế đa nguyên là một loại động lực của phát triển. Quyền sở hữu hoàn toàn và tuyệt đối với sản phẩm lao động của mình chính là nguồn kích thích sự sáng tạo không mệt mỏi của mỗi cá thể, nguồn năng lượng đổi mới không ngừng của tiến bộ xã hội.
- Tự do cá nhân
Nếu nguyên tử là thành phần cơ sở tạo ra vật chất, thì cá nhân con người là cơ sở hình thành nên xã hội. Cá nhân là nguyên tử của xã hội. Xã hội không thể tồn tại và phát triển dựa trên nguyên tắc phủ nhận cá nhân.
Tương tác đầu tiên của loài người là tương tác giưã các cá thể khác giới, tạo ra tế bào đầu tiên của xã hội loài người là gia đình. Công xã nguyên thuỷ là sự kết hợp đầu tiên giữa các cá thể có chung lợi ích và nhu cầu liên kết. Loài người tiến hoá, các kết cấu đơn giản từ bộ tộc, bộ lạc tiến dần tới các hình thức xã hội đa tầng, đa dạng, đa diện, các mối liên kết, các hoạt động tương tác giữa các cá thể trở nên đan xen, chồng chéo, các va chạm lợi ích phát triển phức tạp dần, tạo ra các xung đột có tính chất và quy mô vượt khả năng tự giải quyết, xuất hiện nhu cầu trung gian của lực lượng hoà giải, độc lập về lợi ích và cùng có thoả thuận uỷ nhiệm cuả các phía xung đột. Đó là vai trò trọng tài, khởi thuỷ là cá nhân, hoặc một nhóm cá nhân có uy tín, dần trở thành một bộ phận xã hội, thoát ly khỏi sản xuất, chuyên nghiệp và quan liêu hoá. Đây chính là nguồn gốc và là chu trình rút gọn của lịch sử hình thành cuả Nhà nước.
Như vậy, quá trình tiến hoá của loài người, khởi đầu và cuối cùng đều do và bằng các hoạt động cá nhân. Chất lượng của tiến hoá hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng và năng lực từng cá thể. Tất cả các thể chế chính trị trong đó tồn tại những chính sách khống chế và kiểm soát tự do cá nhân, kiềm chế phát triển năng lực cá nhân là những chính thể phản khoa học, chống lại tiến hoá của nhân loại.
Tự do cá nhân bao gồm toàn bộ các quyền gắn kết với sự ra đời của con người như một thực thể của thiên nhiên vũ trụ, một sản phẩm của Tạo hoá. Đó là quyền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do kiếm kế sinh nhai, tự do tìm kiếm và tổ chức lao động, tự do mưu cầu tương lai, tự do tìm kiếm cứu cánh và phương tiện tự vệ, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, tự do thờ tự, tự do tư tưởng, tự do ý kiến, tự do truyền bá và phổ biến thông tin, tự do báo chí, ngôn luận, tự do hội họp, tự do tìm kiếm thông tin và bảo vệ bí mật thông tin cá nhân, tự do phát triển cá nhân, là quyền gắn với sinh mệnh của cá nhân như một thực thể của Tự nhiên. Vì vậy, về nguyên tắc, không có một thế lực nhân tạo nào có quyền quy định các quy tắc khống chế, kiểm soát và điều chỉnh quyền tự do cá nhân của con người. Mọi điều luật hạn chế và kiểm soát quyền tự do cá nhân dựa vào quyền lực, không có sự tự nguyện của các cá thể, là những điều luật trên thực tế không có hiệu lực, tự bị vô hiệu hoá và là nguồn gốc của phản kháng xã hội.
Nhà nước cộng sản chủ trương xây dựng một xã hội không giai cấp, không sở hữu, không tiền tệ, không hàng hoá, không trao đổi. Xã hội là một cộng đồng nhất thể hoá, đơn nguyên, trong đó không có gì là thuộc về cá nhân. Vai trò cá nhân bị xoá bỏ, tính cách cá nhân bị hoà tan.
Chế độ cộng sản là chế độ chuyên chế độc đảng. Xã hội được quản trị bằng quyền lực chuyên chính cuả đảng cầm quyền. Bằng chính sách “trăm năm trồng người”, đảng cộng sản chủ trương thông qua hệ thống giáo dục từ mẫu giáo tới đại học, bằng hệ thống các phương tiện thông tin tuyên truyền, tạo ra thế hệ những cá thể không còn tư tưởng riêng, nhân sinh quan và quan niệm đạo đức đồng nhất, ước vọng và ý chí trùng khớp với lý tưởng của đảng cầm quyền. Giá trị cá nhân được đánh giá bằng lòng trung thành với lý tưởng của đảng, với ý thức hệ cộng sản. Lợi ích cá nhân được gắn với sự tận tụy và phục tùng vô điều kiện trật tự kỷ cương do hệ thống đảng thiết lập. Xã hội không còn những cá thể có tính cách riêng biệt, trở thành một cộng đồng thụ động, sơ cứng. Điều này giải thích một thực tiễn tại Việt Nam từ nhiều năm dưới quyền cai trị của đảng cộng sản, là hiện tượng Việt Nam có rất nhiều thần đồng, nhiều tài năng khi nhỏ tuổi, nhưng không có nhân tài, không có tên tuổi khi trưởng thành.Tất cả các nhân tài khi bị ghép thành bộ phận của guồng máy chế độ đã hoàn toàn bị tan biến.Tài năng vượt cấp trên và tư duy độc lập là mầm mống của phản loạn. Xã hội chỉ được quyền phục tùng, không được phép nghĩ, quyền nghĩ là độc quyền duy nhất của bộ chính trị, trung ương của bộ máy cầm quyền. Mọi tài năng phải thoát được ra khỏi Việt Nam, thoát khỏi chế độ cộng sản chuyên chế mới có thể thành đạt.
Vì vậy, trong xã hội đa nguyên, mọi quy định liên quan tới quyền tự do cá nhân được bắt buộc thông qua bằng nguyên tắc trực tiếp, cá nhân người chịu sự chi phối của quy định phải là người có tiếng nói cuối cùng. Đó là nguyên tắc đồng thuận và trực tiếp. Các cơ chế đại diện hay đa số không có giá trị đối với các quyền tự nhiên cuả con người.
Trong xã hội hiện đại, tự do cá nhân được hiểu là quyền tự do hành động theo những gì người đó quan niệm là đúng. Như vậy, hành vi cá nhân chỉ có nguy cơ bị phán xét khi cố tình làm trái ngay với chính quan niệm đúng của mình.
Tuy nhiên, xã hội là một tổng thể thống nhất của các cá thể. Xã hội đa nguyên bảo vệ và bảo đảm cao nhất quyền tự do cá nhân trên nguyên tắc không vi phạm quyền tự do cá nhân của các cá thể khác. Lợi ích xã hội là lợi ích bao trùm, trong đó lợi ích cá nhân được bảo đảm. Sự dung hoà giữa các lợi ích cá thể được vận hành theo nguyên tắc đảm bảo tăng trưởng cho lợi ích bao trùm, trong đó mọi lợi ích thành phần đều tăng trưởng. Mọi sự dàn xếp xung đột không dẫn đến tăng trưởng chung, trong đó tăng bên này tạo ra giảm của bên kia sẽ không được luật pháp thừa nhận.
- Luân phiên cầm quyền.
Một biểu hiện khác về bản chất so với các thể chế chính trị khác, vừa có tính tự nhiên vưà là điều kiện cần có của một thể chế dân chủ đa nguyên, là sự luân phiên cầm quyền một cách hoà bình của các lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội.
Khái niệm cầm quyền của tổ chức đảng cộng sản vẫn còn là khái niệm cai trị, một khái niệm phong kiến lạc hậu gắn cầm quyền với tên tuổi triều đại, trong đó dân chúng là đối tượng cai trị của chế độ, là số đông dân chúng bị trị, có lợi ích đối nghịch và tình cảm đối kháng với thế lực cầm quyền.Trong tư duy chính trị hiện tại cuả các lãnh đạo cộng sản Việt Nam, chính quyền và chế độ không phải là hai thiết chế khác nhau, có tính độc lập tương đối với nhau, mà chính quyền chỉ là công cụ của chế độ, có chức năng cai trị dân, trấn áp đối kháng và bảo vệ sự tồn tại của chế độ. Thay đổi chính quyền là thay đổi chế độ, cuộc chiến thay đổi chính quyền là cuộc chiến lật đổ cuả lực lượng thù địch với chế độ. Lật đổ gắn liền với đổ máu và thù hận. Lịch sử cách mạng đẫm máu dưới sự lãnh đạo của chính đảng cộng sản đã trở thành nỗi sợ bị cướp quyền, nỗi sợ thanh toán nợ trong não trạng các lãnh đạo cộng sản.
Đa nguyên chính trị là tự do chính trị. Tự do chính trị là quyền tự do tư tưởng và quyền tự do lập hội kết hợp với nhau, chính là tự do đảng phái. Quyền tự do tư tưởng và tự do chính trị được bảo đảm trong xã hội dân chủ đa nguyên là nguồn gốc cuả tính đa đảng phái trong sinh hoạt chính trị xã hội. Tất cả mọi đảng phái, bất kể nội dung, hình thức, bất kể quy mô lớn nhỏ, đều được tôn trọng như nhau, có tư cách pháp nhân bình đẳng.
Hoạt động chính trị là những hoạt động thực tiễn của các đảng chính trị nhằm biến các triết lý tư tưởng cuả đảng phái mình thành các chính sách giải pháp được áp dụng vào đời sống xã hội của cộng đồng, trong đó có các hoạt động cổ động khuếch trương ảnh hưởng của triết lý tư tưởng mà mình tôn vinh.
Giành quyền được áp dụng các chính sách của mình vào thực tế cuộc sống trở thành một nhu cầu chính đáng của mọi tổ chức chính trị.
Quyền cầm quyền là quyền bình đẳng của mọi tổ chức chính trị. Quyền cầm quyền không phải quyền cai trị cuả một thiểu số đối với đám đông dân chúng, mà ngược lại là quyền được cống hiến sản phẩm trí tuệ của mình, quyền được dùng cố gắng cuả mình phục vụ cho lợi ích cộng đồng, coi sự thắng lợi của triết lý là sự vinh quang cuả tổ chức.
Chế độ chính trị của một quốc gia trong quan niệm cuả chủ nghĩa đa nguyên là hệ thống các giá trị được toàn thể công dân quốc gia, trong đó có các tổ chức chính trị, thừa nhận bằng cơ chế trưng cầu trực tiếp, là hệ thống những giá trị nền tảng, bất khả xâm phạm. Chế độ chính trị có nghĩa vụ trung thành với hệ thống giá trị đó và có chức năng bảo vệ tính bất khả xâm phạm của các giá trị đó. Vì vậy chế độ chính trị, một khi đã được quyết định lựa chọn trên nền tảng hệ thống giá trị, là một chế độ ổn định với mọi tổ chức chính trị cầm quyền. Chế độ không thay đổi theo chính phủ cầm quyền, mà chỉ thay đổi khi thay đổi hệ thống giá trị. Thời gian cầm quyền của chính phủ có thể dài ngắn tuỳ theo năng lực và uy tín, các tổ chức chính trị có tư tưởng và triết lý khác nhau có thể luân phiên cầm quyền, nhưng chế độ thì liên tục. Chế độ dân chủ đa nguyên là lựa chọn cuả chúng ta.
Luân phiên cầm quyền là một cơ chế đáp ứng nhu cầu cạnh tranh chính trị của các lực lượng chính trị, các đảng phái khác nhau. Nhưng luân phiên cầm quyền cũng là một đảm bảo cần thiết cho ổn định chính trị và thúc đẩy tiến bộ. Trong khi ở các thể chế phi dân chủ, sự khác biệt về tư tưởng triết lý, sự đối đầu về đường lối chính sách thường tạo ra bất ổn định xã hội, thì cơ chế luân phiên cầm quyền tạo không gian cạnh tranh lành mạnh và minh bạch, giải toả các mâu thuẫn đối kháng, biến chúng thành các xung lực thúc đẩy tiến bộ. Trong cố gắng nỗ lực phục vụ chệ thống giá trị chung, các đảng chính trị dần trở thành đồng minh, các khác biệt chỉ còn là biện pháp và cấp độ sáng tạo.
Trên một phương diện khác, cơ chế luân phiên cầm quyền luôn tạo ra lực lượng chính trị đối lập, trên thực tế là tổ chức chính trị không chiếm được đa số phiếu để lập ra chính phủ cầm quyền. Bị thúc ép bởi cạnh tranh uy tín, đảng đối lập tự trở thành tổ chức phản biện các chính sách cuả đảng cầm quyền, lực lượng gíám sát không bỏ sót một hành vi có tính chất tham nhũng hay lạm dụng quyền lực cuả đảng cầm quyền. Cuối cùng thì xã hội là người hưởng lợi. Vì vậy, tồn tại đảng đối lập là một cơ chế mang tính nguyên tắc được thưà nhận trong một thể chế dân chủ đa nguyên, được luật pháp bảo vệ và đạo đức xã hội khuyến khích.
(bài tiếp theo có các nội dung: Nhà nước trung tính, dân chủ trực tiếp, xã hội dân sự… )
16/09/2016
© Đàn Chim Việt
NHỮNG NGUYÊN TẮC KHOA HỌC CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI
Xã hội là một thực thể, lại là một thực thể sống thực, như vậy xã hội chỉ thật sự tốt nếu vận động theo đúng quy luật khách quan và xa lánh được tính cách chủ quan khác nhau. Như cái máy cơ khí chẳng hạn, nó phải vận động đúng các nguyên lý cơ học và vật lý khách quan thì máy mới có thể chạy tốt và hiệu quả. Một sinh vật cũng thế, nếu không phát triển theo đúng nguyên lý sinh học khách quan, sẽ bị thoái hóa và tiêu diệt. Thế thì xã hội loài người cũng thế, nó luôn có những nguyên lý khách quan cần phải theo, như nguyên lý tâm lý học, nguyên lý xã hội học, nguyên lý chính trị học, nguyên lý lịch sử học. Đi đúng những nguyên lý đó, xã hội mới phát triển, cá nhân mới hạnh phúc, con người mới văn minh, văn hóa. Ngược lại những nguyên lý khách quan đó, tức hoạt động theo kiểu độc tài, chủ quan của những cá nhân hay lý thuyết chủ quan nào đó, xã hội chỉ có thể bế tắt, con người mất hạnh phúc, xã hội luôn không tiến tới đâu mà chỉ toàn là những hi sinh, phí phạm vô ích.
Đơn cử vài nguyên tắc khoa học khách quan cơ bản của xã hội như nguyên tắc tư hữu, nguyên tắc tự do dân chủ, nguyên tắc tài năng và trí thức, nguyên tắc cộng hợp hay cộng đồng phát triển, nguyên tắc ý thức và nhận thức, tức nguyên tắc tự giác và nguyên tắc hòa hợp hiểu biết chẳng hạn. Nguyên tắc tư hữu có nghĩa tư hữu luôn luôn là điều kiện của tồn tại và phát triển cá nhân cũng như xã hội, nó không bao giờ là mục đích, vì vô sản thì con người mất hết mọi tự do, còn dầu tư hữu khi chết đi cũng không ai đem theo của cải cả. Tất cả đều của chung của xã hội, nhưng theo ý nghĩa tự nhiên, không phải theo kiểu ngụy biện cộng sản để chỉ nhằm có lợi riêng cho mình.
Nguyên tắc tự do dân chủ, vì cơ bản của xã hội là cá nhân và gia đình đều là những đơn vị độc lập. Thế thì nguyên tắc tự do dân chủ, bình đẳng, mọi người có khả năng kiểm soát nhau, dung hòa nhau, theo cách bầu cử dân chủ tự do, tam quyền phân lập hoàn toàn khách quan, khoa học, thực tế, đó là điều kiện để tránh mọi độc tài độc đoán và bất công áp bức. Trong khi đó Mác lại chủ trương độc tài giai cấp, trong khi giai cấp chỉ là khái niệm trừu tượng hóa, đó là tính cách phản con người, phản xã hội, phản nhân văn và ngu xuẩn nhất của Mác. Bởi khi độc tài thì chỉ có một số lợi dụng hoặc ma mánh nào đó có lợi, xã hội chung không bao giờ có lợi. Một quan điểm phản khoa học, phản nhân văn như vậy của Mác thực chất là tội lỗi và tội ác về mặt khoa học và về mặt thực tế xã hội mà Mác đã mắc phải trong suốt thời gian dài gần cả một thế kỷ trong qua khứ đối với nhân loại.
Cuối cùng, con người không phải tự trời rơi xuống, nhưng mỗi cá nhân đều có hoàn cảnh lịch sử và điều kiện bản thân riêng. Do vậy yếu tố giáo dục, yếu tố tài năng, yếu tố thiện chí, như nguyên tắc đạo đức, phẩm chất, nguyên tắc tài năng, nguyên tắc hiểu biết, học thức, chính là những yếu tố phát triển chung cho toàn xã hội. Chính trị chẳng qua là phương tiện, là công cụ phục vụ xã hội, không bao giờ tự nó là mục đích. Mác lại nếu ra nguyên tắc giai cấp vô sản một cách máy móc và ngu dốt, lấy chính trị làm mục đích, khuôn khổ cho xã hội, thật là quan điểm phản động có một không ai trong lịch sử nhân loại. Nói chung Mác chỉ như một tay dốt nát, điên loạn làm hại xã hội do chính các quan điểm học thuyết phi khoa học và không tưởng của minh mà chẳng phải thiên thần hay ân nhân gì của xã hội cả.
Nói chung lại, xã hội là một thực thể sống, cho nên phải hoạt động theo đúng các nguyên lý khách quan, xác đáng của nó. Bởi nguyên tắc xã hội luôn là nguyên tắc cộng hợp, mọi khía cạnh đều bổ sung cho nhau, tác động hỗ trợ nhau, kết quả cuối cùng bao quát mới là kết quả chung nhất. Sự vận hành của xã hội là sự vận hành vĩ mô, không phải chỉ là sự vận hành vi mô riêng lẻ hay chủ quan của mỗi cá nhân. Nguyên lý xã hội là nguyên lý kết hợp khách quan tự nhiên, không phải nguyên lý tổ chức theo kiểu hình thức và máy móc. Cho nên cái gọi là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản do Mác đưa ra thực chất chỉ là sự ngu dốt, sự mê tín, tự đánh lừa bản thân mình theo cách vô tình hay cố ý nhằm lừa gạt nhân loại mà chẳng mang ý nghĩa gì thực tế, khách quan, đúng đắn hoặc khoa học xác đáng cả.
THƯỢNG NGÀN
(18/9/16)