WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Về miền Nam

Thoa đưa các em xuống Hải Phòng rồi lại về làng để đón thầy mẹ đi, xong chuyến này là cả nhà sẽ đi thoát hết. Gần một tuần sau khi đưa các em, cô trở về nhà nói cho thầy mẹ biết mọi việc đã xong xuôi, nhà còn vợ chồng bác cả và Hoàng con trai lớn. Thoa và Hoàng bàn cả nhà đi vào lúc chiều tối, cậu đi trước để người ta khỏi nghi, còn thầy mẹ và Thoa sẽ đi làm hai đợt ra quê ngoại.

Chiều hôm ấy bác Cả sai con mời vợ chồng nhà Cả Khiêm hiện ở nhờ tại khu vườn nhà bác phía sau nhà. Trước đây mỗi khi nhà có giỗ hai vợ chồng Khiêm đều sang làm giúp, lần này họ cũng đoán là có việc quan trọng nên vội sang ngay, bác Cả đi ngay vào đề.

-Vợ chồng bác đối với chúng tôi cũng như chỗ người nhà, chẳng dấu gì hai bác gia, đình tôi đi Nam dần dần từ mấy tuần nay, chiều nay chúng tôi sẽ đi sau cùng. Tôi cũng chẳng còn gì chỉ có một ít quần áo, bát đĩa để lại cho hai bác và các cháu, không biết bao giờ mới trở về, nhờ bác trông nom hộ nhà cửa vườn tược được ngày nào hay ngày nấy, ai có hỏi gì cứ nói chắc nhà ông bà ấy đi ăn giỗ ngoài La Khê hay nói không biết thì cũng được.
Cả Khiêm tỏ vẻ cảm động đáp.

-Chúng cháu chịu ơn ông bà cũng nhiều, ông bà cho nhà cháu ở nhờ từ bao lâu nay chúng cháu không quên ơn, xin ông bà cứ yên tâm chúng cháu sẽ giữ kín mọi chuyện, chúng cháu sẽ làm theo y như nhời ông bà đã dặn.

-Ngày mai bác sang đây xem có thích cái gì thì cứ đem về, bác cũng biết chúng tôi bây giờ tiền bạc chẳng còn gì nữa, nếu có thì cũng chẳng tiếc bác.

-Không biết bao giờ chúng cháu mới gặp lại ông bà, chúng cháu xin chúc ông bà các cô các cậu đi cho may mắn.
Bác gái tiễn vợ chồng Cả Khiêm ra tận cửa hông bên hàng rào cây ổi rô, người nô bộc trung thành chắp tay cúi chào bà chủ một cách chân tình, nước mắt chảy vòng quanh, biết rằng hai bên chẳng có ngày gặp lại.

Hình chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ Lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư. Ảnh: flickr

Thoa đi trước một lúc lâu rồi hai vợ chồng bác Cả cũng nhẹ nhàng khép cửa đi ra ngoài vườn, băng qua hàng rào ổi rô ra con tiểu lộ để lần mò ra đồng, lúc ấy trời đã sâm sẩm tối. Bước chân đi, bác Cả cảm thấy một nỗi buồn tê tái nổi lên trong lòng, ruộng nương, vườn tược, nhà thờ, nhà gác của ông bà cha mẹ để lại bây giờ tự nhiên tuột khỏi tầm tay bác. Thời thế đổi thay nhanh như trong một cái chớp mắt, sự nghiệp ông cha để lại bây giờ tan biến đi như cơn gió thoảng, nay cả nhà ra đi với hai bàn tay trắng, bác đưa tay gạt mấy giọt nước mắt rồi nhanh chân bước cho chóng đến La Khê quê vợ.

Băng qua cánh đồng dưới ánh trăng lờ mờ, qua hai ba làng vợ chồng bác đến quê ngoại của các con. Tối ấy bác gái và bà cụ thủ thỉ tâm tình với nhau trong những giây phút cuối cùng mẹ con còn ở bên nhau.

Hôm sau lúc Thoa và thầy mẹ cô xách cái túi nhỏ lên vai ra sân gạch để lên Hà Đông cho kịp giờ tầu điện, bà ngoại và hai cậu đi theo ra tận cổng. Cậu Tùy than thở với anh chị.

-Chúng em chúc anh chị ra đi may mắn, thời thế xoay vần nghiệt ngã quá, chị em, cậu cháu mỗi người một phương không có ngày gặp lại.

Họ ngoại của Thoa chỉ có một mình gia đình cô đi Nam, tất cả đều ở lại, đường ai nấy đi, âu cũng là tại cái số trời, các dì các bác, cậu mỗi người giúp cho một ít tiền Đông dương, của ít lòng nhiều. Người đi kẻ ở chia tay bịn rịn một lúc lâu, anh chị em cùng một cha mẹ sinh ra nay bỗng kẻ bắc người nam, mỗi người một ngả, bèo hợp rồi tan . Bà ngoại khóc đỏ hoe cả mắt nhất định đưa con cháu ra tận đầu làng, bà đi theo mãi cho đến tận quãng đưỡng lên tỉnh mới chịu thôi. Con cháu chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, ai nấy ruột gan sót sa như muối đổ trong lòng, nay mới thấm thía cái ý nghĩa cao cả của giây phút sinh ly chia cách, cảnh bể dâu con tạo thật cay đắng tàn nhẫn thay.

Tại Hải Phòng, chiều nào cũng vậy, anh em Khoa Phúc lại rủ nhau ra ga xe lửa đón thầy mẹ từ quê nhà xuống đây, ba bốn hôm liên tiếp, chẳng thấy ai các cậu lại thở dài bảo.

-Hôm nay thầy mẹ, anh chị lại không đến rồi.

Cả hai lại lủi thủi về nhà, lòng dạ bồn chồn không yên. Hiện năm người con bác cả đã đến được Hải Phòng, chỉ còn hai bác và hai người con lớn là đủ cả để lên tầu vào Nam. Rồi một hôm đẹp trời, nắng vàng phủ xuống sân ga, Phúc Khoa lại ra ga đón thầy mẹ như mọi lần, Phúc thấy Hoàng mặc áo sơ mi xanh trên tầu, anh ngồi sát cửa, cậu vội kêu lên.

-Kìa anh Hoàng, cả thầy mẹ nữa.

Mấy anh em chen chân vào tận cửa toa mừng rỡ kêu ầm lên.

-Mẹ! mẹ, anh Hoàng. .

Bác gái ra vẻ bực bội nói.

-Yên nào, người ta đang mệt gần chết đây.

Thật ra bác mệt mỏi vì tinh thần hơn vì thể xác, cuộc viễn du đầy phiêu lưu gian khổ khiến cho vợ chồng bác xúc động lo âu mặc dù đó là con đường duy nhất, không còn đường nào khác. Hơn nửa năm trước đây bác Cả chấp nhận ở lại với kháng chiến thành công tưởng rằng nay đất nước đã giành được độc lập, đánh đuổi được giặc Tây ra khỏi giang sơn, nhưng sự thật phũ phàng đã làm bác và biết bao gia đình thất vọng, bây giờ mọi người đã thấy rõ bộ mặt thật ghê tởm của Việt Minh Kháng Chiến và cuộc phiêu lưu biệt xứ đã diễn ra bi thảm như thế này đây.

Khoa, Phúc dẫn thầy mẹ anh chị về ngõ Cô ba Chìa, leo lên gác ra phòng ngoài, cả nhà bác hai Chương đã đi Nam mấy hôm trước, bác dặn các cháu cứ ớ đây vì bác đã trả tiền nhà cho đến hết tháng ba. Phòng trong nay có một gia đình giầu mới ở Hà Nội dọn xuống, ông bà Lưu và năm sáu người con đã trốn thoát xuống đây để theo đoàn di cư lánh nạn.

Bây giờ là gần cuối tháng hai, chỉ con vài tháng nữa là hết hạn ba trăm ngày di cư, Việt Minh sẽ về tiếp thu Hải Phòng. Anh em Hoàng, Khoa bèn vội lên Hội Đồng Di Cư Bắc Việt để xin vé đi Nam vì cả nhà đã tề tựu đông đủ rồi, đi tầu bay phải chờ lâu nên nhà muốn đi tầu thủy cho nhanh. Ngay hôm sau Hoàng, Khoa ghi tên cho gia đình đi tầu thủy, họ phát vé đi vào giữa tháng ba, khoảng hai tháng trước ngày hết hạn di cư, chuyến này do tầu Mỹ Marine Adder chuyên chở . Đây là một chiếc tầu chở quân khổng lồ của Hạm Đội Thứ Bẩy, mỗi chuyến trọng tải năm nghìn người, ngoài ra mỗi ngày cũng có mấy chục chuyến máy bay vận tải Dakota chở người vào Nam cho kịp thời hạn di cư.

Khoa, Phúc và mấy cậu con ông Lưu hàng ngày rủ nhau lên nhà hát lớn, phòng thông tin, Hội đồng di cư xem triển lãm tranh ảnh, buổi chiều hoặc tối đi nghe đội lính kèn hoà nhạc, diễn kịch tố Cộng. Các cậu rong chơi vui vẻ trong những ngày còn còn ở lại Hải Phòng. Tại phòng thông tin người ta trưng bày những hình ảnh đấu tố man rợ bên Trung Hoa đỏ, cảnh những người địa chủ bị trói giật cánh khuỷu hai tay ra sau trước họng súng của đội hành quyết để cho người dân thấy bộ mặt thật của Thiên Đường Cộng Sản.

Buổi tối nọ, ban quân nhạc trình tấu xong bản nhạc hùng, một sĩ quan quân đội Quốc Gia lên trước loa nói lớn.

-Tôi nghĩ trong đám khán giả này có nhiều anh Việt Minh, các anh hãy vểnh tai lên mà nghe tôi nói đây. .

Khán giả cũng thừa biết như vậy, Việt Minh đã cho hàng nghìn người xuống Hải Phòng giả làm nhà buôn, đạp xích lô, bán hàng quà bánh. . để nghe ngóng tin tức, làm gián điệp và nhất là để tuyên truyền xúi dục đồng bào di cư bỏ cuộc trở về. Có người đã lên tầu há mồm rồi bị mắc tuyên truyền còn nhảy xuống nước bơi vào bờ.

Họ hàng vào Nam đã viết thư ra liên lạc, nào chú Hai, chú Khang con ông Năm, Kính con bác Ba Thu…  Ngoài ra Chú cả Hiên, bác Năm Tuấn vợ con còn ở Đông Lao đã viết thư ra nhờ nhà bác Cả nhắn tin và đưa hộ xuống Hải Phòng , cô Thoa lại đi Hà Nội để nhắn giúp cho họ hàng và mấy người bạn bè quen biết.

Thấm thoát đã gần đến ngày lên tầu đi Nam, còn hai hôm nữa làgia đình bác Cả sẽ rời Hải Phòng mà vẫn chưa thấy Thoa về, chị ta trở lại Hà Nội để nhắn hộ mấy người thân thuộc, trước khi ấy thầy mẹ đã dặn nhớ phải về trước ngày mười lăm tây tháng ba như đã ghi trong vé đi tầu Mỹ, Thoa vâng vâng dạ dạ mà nay ngày đi đã gần kề vẫn chưa thấy tăm hơi cô đâu cả.

Thế rồi ngày mai sẽ phải lên đường mà Thoa vẫn chưa về, ai nấy đã chuẩn bị khăn gói xong xuôi cả chỉ còn thiếu cô ấy thôi. Suốt từ sáng đến chiều hôm ấy, hai vợ chồng bác Cả nóng lòng nóng ruột cứ như lửa đốt, các em cô cũng sốt cả ruột gan mà chẳng thấy tăm hơi chị đâu cả, thầy mẹ cô lại sợ có chuyện chẳng lành, ông bố than thở.

-Giời ơi chắc nó về làng nhắn tin hộ chú Cả, bác Năm đấy, nó mật sứ gan lim mà, ối giời ơi.

Chiều tối hôm ấy cả nhà ngồi phòng ngoài chờ đợi người về từng giây từng phút, bên phòng trong nhà ông Lưu cũng sốt ruột hộ, họ cũng ra cửa ngóng xem có thấy tăm hơi gì không. Ngày mai dù Thoa không về cả nhà cũng vẫn phải đi Nam không thể chần chờ được vì thời hạn di cư chỉ còn chừng một tháng rưỡi nữa là cùng.  Ai nấy ngồi than vắn thở dài.

Trời đã tối mù mịt, ai nấy rối bời cả ruột gan thì bỗng bà Lưu ở phòng ngoài cười lớn tiếng bảo.

-Ơ cô ấy về đây rồi!

Nhà ông Lưu cũng cười rộ lên vì mừng, Thoa chào ông bà rồi bước mau ra phòng ngoài, thầy mẹ Thoa mừng quá quên cả mắng nhiếc con, ai nấy thở phào nhẹ nhõm như qua được một thử thách cam go.

Tờ mờ sáng hôm sau cả gia đình khăn gói xuống trước nhà thuê xe xích lô đến địa điểm tập trung trước Hội đồng di cư , ông Lưu cũng xuống tiễn đưa, hai bên hẹn sẽ gặp nhau ở miền đất hứa. Mấy người phu xe kỳ kèo đòi thêm tiền một lúc mới chịu đi.

Tới nơi trời vẫn còn tối mịt, hàng mấy chục xe cam nhông đã đợi sẵn để chở đồng bào ra bến tầu. Hoàng trình vé làm thủ tục cho cả nhà xong mọi người vội leo lên xe, dưới ánh đèn điện lờ mờ mấy chiếc xe cam nhông đầy những người đã nổ máy sẵn sàng chuyển bánh, một ông cha mặc áo dài đen, cầm mi crô nói đôi lời tiễn biệt.

-Thưa đồng bào, đã đến giờ khởi hành, tôi xin có mấy lời cùng đồng bào, vào trong Nam đồng bào sẽ được chính phủ tiếp đón giúp đỡ nơi cư ngụ tạm và trợ cấp bước đầu, trước giờ phút chia tay xin chúc đồng bào may mắn thượng lộ bình yên.

Chiếc xe bên cạnh đã bắt đầu chuyển bánh, bác gái bảo con.

-Kìa! nhìn kìa.

Mọi người đứng nhìn chiếc xe từ từ chạy, đằng sau vài người đàn bà chạy bộ theo tay cầm nón lá vẫy, miệng khóc mếu máo.

-Thôi đi nhá, khi nào đến nơi viết thư về nhá. .

Thân nhân họ trên xe cũng mếu máo nói đôi lời vĩnh biệt, người đi kẻ ở, bịn rịn chia tay, nhà bác cả trông theo mà thấy se sắt cõi lòng. Bãi xe ngày càng trở nên ồn ào hơn trước, tiếng động cơ, tiếng người tiễn đưa, tiếng khóc như hòa thành một bản nhạc não nùng bi thảm.

Xe chạy đến bến tầu thì trời đã sáng rõ, một người lính Pháp tay cầm dùi cui điều khiển các xe đậu theo thứ tự. Đồng bào bắt đầu xuống xe đi bộ một quãng rồi lên tầu há mồm của Tây, nhà bác Cả bước vào miệng tầu rồi lên boong. Tầu há mồm là loại tầu nhỏ chở đồng bào ra tầu Mỹ đậu ngoài khơi. Trên boong tầu Phúc ngước nhìn mấy người thủy thủ Pháp ăn bánh vui đùa nhau, cậu bé lần đầu được thấy những cảnh khác lạ trong đời. Gia đình kẻ đứng người ngồi quây quần trên sàn tầu, bên cạnh đấy mấy người thanh niên ăn mặc com lê lịch sự, mấy cô mặc áo dài đang cắt bánh chưng ăn, họ nói cười vui vẻ chắc là sinh viên đại học.

Tầu há mồm bắt đầu chạy qua vịnh Hạ Long, nhà bác Cả lấy bánh chưng cắt ra chia nhau ăn, Phúc thấy chị Thoa vừa ăn vừa thầm lặng khóc, bác gái cũng ứa hai hàng lệ, trên sân boong có nhiều người tự nhiên ứa lệ khóc cho thân phận hẩm hiu đen bạc của mình. Thật vậy, suốt đời họ chưa bao giờ gặp cảnh gian truân thảm thiết đến thế, ngay cả những ngày trong thời tao loạn quân Pháp tấn công đốt phá khắp nơi, họ cũng bám chặt không rời quê cha đất tổ, nhưng nay thời thế quá phũ phàng đã sô đẩy họ vào bước đường cùng, chẳng ai mà ngờ gặp phải cái thời kỳ tàn nhẫn đến thế. Một cơn gió nhẹ thổi qua khe núi lên sàn tầu không đủ lau khô những giọt lệ xót xa  của đám người biệt xứ.

Tầu đã vào địa phận Vịnh Hạ Long, hàng nghìn hàng vạn ngọn núi như  những hòn non bộ chọc thủng mắt nước nhô lên, mỗi ngọn đều có cây cỏ xanh tươi đứng soi mình trên mặt nước trong xanh,  tầu chạy gần một ngọn cao , Phúc lấy tay chỉ hỏi anh.

-Nó có đường đi lên ngọn, chắc trên ấy có người ở.

Thật vậy, bên hông núi có một đường đất mòn nho nhỏ uốn quanh sườn núi trông thật thi vị nên thơ, nó chạy dài từ chân lên gần ngọn. Tầu há mồm yên lặng chạy trên mặt nước phẳng lặng như tờ, tịnh không một tiếng sóng vỗ hay tiếng cá quẫy, chim kêu, chỉ thỉnh thoảng có tiếng còi tầu bin bin não nuột. Các ngọn núi như dạt ra hai bên tránh lối cho tầu đi qua, thoáng trông người ta có cảm tưởng nó như bức tranh thủy mạc của Tầu, một bức tranh vĩ đại, vô cùng mỹ lệ của thiên nhiên trải rộng ra trước mặt đoàn người biệt xứ. Nhưng dù cảnh trí xinh đẹp, núi non hữu tình đến đâu cũng không thể nào khuây khoả được nỗi chua xót của đoàn hành khách bất hạnh trên tầu, những kẻ ra đi với tấm vé một chiều trên tay.

Khoa nhìn những ngọn núi hai bên hỏi anh.

-Núi nhiều thế mà sao nó biết cũng đường đi nhỉ, sao nó không lạc mới tài?

Hoàng đáp.

-Nó có bản đồ chứ, nó cứ theo đó mà chạy.

Phúc nhìn một chiếc thuyền bên cạnh, hai đứa trẻ con bị buộc chân trên mũi thuyền, bác thuyền chài ngơ ngác nhìn tầu đi qua, làn nước xanh biếc y như nước hồ lơ quần áo hiện rõ trên mái chèo, thỉnh thoảng tầu lại gặp một hai chiếc thuyền gỗ của dân chài, Phúc nhìn theo, cậu ra liên tưởng đến cuộc đời vô định, những kiếp người lênh đênh trên sóng nước. Tầu vẫn lặng lẽ trôi đi giữa những ngọn núi đá dàn thành hình chữ nhất phía trước, nhưng khi tầu tiến lên thì những núi đá thiên nhiên lại tự động tránh lối cho tầu di qua.

Nước non vẫn vắng lặng và êm tĩnh lạ thường, một sự yên lặng thê lương bi đát y như tâm trạng của bọn người lìa xứ, những ngọn núi xinh đẹp như hòn non bộ vẫn yên lặng đứng soi mình trên mặt bể, tầu vẫn từ từ tiến lên như không bao giờ vượt qua khỏi cánh rừng non bộ nên thơ, thỉnh thoảng một ngọn gió nhẹ của vịnh lướt qua boong tầu như một cánh tay vuốt ve an ủi những kẻ ly hương bất hạnh.

Tầu Pháp chạy giữa rừng non bộ đến xế trưa thì tới tầu Mỹ Marine.Adder, một tầu khổng lồ đứng sừng sững ngay trên mặt bể. Tầu Pháp ghé sát tầu Mỹ, một cái thang sắt từ boong tầu Mỹ bắc xuống tầu há mồm để đồng bào leo lên. Mọi người bắt đầu lên thang, một lúc sau nhà bác Cả cũng theo đoàn người lên tầu Mỹ. Phúc vịn tay anh bước theo, khi đến bậc trên cùng sắp bước vào tầu thì một người thủy thủ Mỹ đứng ngay đấy dúi vào tay cậu một túi giấy trong có một quả cam, cái trứng luộc và gói cơm trắng, ai cũng được một túi như thế. Đứng trên tầu Mỹ nhìn xuống người ta thấy tầu Pháp bé tí như chiếc thuyền con.

Nhà bác Cả được người ta hướng dẫn xuống tầu đi qua hai ba cầu thang, qua hai ba phòng đến một phòng rộng đầy những giường vải cái nọ chồng lên trên cái kia. Các phòng đều có bắc loa, độ một lúc lại có người gọi loa tiếng Việt để thông báo đồng bào cử đại diện đi lãnh cơm, hay những hòm xiểng của đồng bào trên boong cần phải buộc lại cho chặt. Chiều tối hôm ấy họ phát cơm và đậu hộp xào cho mọi người, cơm nát và nhão nhẹt ăn chẳng được.

Chiều hôm sau Phúc theo chị Thoa lên boong để mua mực của thuyền chài, dân di cư xúm xít phía mũi tầu, phía dưới một chiếc thuyền  lại gần tầu Mỹ, người dân chài ngước lên nói thật to.

-Bỏ tiền vào hòn đá ném xuống trước, tôi ném mực luộc lên sau.

Nói rồi anh ta ném hòn đá có buộc dây lên, người trên boong buộc tiền vào ném xuống, Thoa chờ lâu mãi không mua được may có người không thích mực bán lại, một người thủy thủ Mỹ vội lấy vòi rồng phun nước xuống thuyền ào ào, anh thuyền chài tối tăm mặt mũi. Có người nói.

-Nó không cho mua bán qua lại.

Anh lính Mỹ vẫn phun nước ào ạt xuống, thuyền vội quay đầu chạy, anh lính thủy vẫn phun theo, Phúc thấy vậy than.

-Nó ác thế, chìm thuyền người ta thì sao.

Hai chị em vẫn chưa xuống phòng, Phúc nhìn người lính thủy Mỹ đổ thùng cam xuống biển, có người nói.

-Nó mở thùng ra thấy một quả bị thối là nó đổ luôn cả thùng.

Những quả cam đỏ ối nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Khi ấy người thuyền chài lại mon men đến gần để vớt, anh ta cầm cái vợt lén lén múc từng quả một, Phúc theo dõi  diễn tiến không dời mắt, anh lính Mỹ lại lấy vòi rồng phun xuống ào ào như thác lên đầu lên cổ anh thuyền chài, một ông đứng gần đấy bảo.

-Nó không cho vớt, cam đổ đi không được vớt.

Thoa bảo.

-Sao nó ác thế, đổ đi rồi mà cũng không cho người ta lấy.

Người thủy thủ hình như đùa cợt trên sự khổ sở của anh thuyền chài chứ không có ý cảnh cáo hay ngăn cấm, anh ta nhe răng ra, tay cầm vòi tiếp tục sối nước lên đầu anh thuyền chài.

Hôm sau lúc mọi người mới ăn cơm xong thì tầu chuyển động mạnh, giường nằm bỗng nhiên lắc lư như đưa võng, một ông bên cạïnh bảo.

-Tầu bắt đầu chạy đấy, ba ngày nữa thì đến Sài Gòn.

Khi ấy loa ở các góc phòng vang lên, người ta nhắn đồng bào hãy buộc lại những hòm xiểng trên boong cho chặt vì tầu bị sóng đánh ngả nghiêng có thể rơi xuống bể, tối ấy lúc con tầu bồng bềnh trên làn sóng nước, đồng bào ai nấy đều yên giấc cả.

Ngày hôm sau tầu đã chạy một đoạn đường xa nhưng vẫn đi dọc theo duyên hải, anh em Khoa, Phúc rủ nhau lên boong xem cảnh bể cả mênh mông, hai cậïu đi qua các phòng, một phòng đồng bào bên giáo đang đọc kinh nghe buồn bã, tầu rộng rãi to lớn như một tòa lâu đài, đi qua hai ba cái cầu thang mới lên tới boong.

Trên boong vắng người, hai cậu bé đi vòng vòng từ hông tầu bên phải sang bên kia, từ đằng mũi xuống đằng đuôi tầu, Khoa bảo.

-Bây giờ chỉ có trời với nước thôi!

Thật vậy, bầu trời u ám như cái vung vĩ đại úp lên trên mặt bể mênh mông bát ngát không còn biết đâu là bến bờ, trong khoảnh khắc hai cậu thiếu niên tự thấy mình bé nhỏ li ti như con kiến trước cảnh vĩ đại mênh mông của tạo hóa. Từng đàn cá bay vọt lên mặt bể là đà trên không rồi lại chui xuống nước. Tầu vẫn lặng lẽ xé nước chạy xuôi về phương Nam mang theo những người đi tìm Tự Do, Đất Hứa.

Hàng nghìn hàng vạn người mỗi ngày theo đường hàng không, hàng hải tiến về phương Nam đi tìm một cuộc đời mới, nơi mà con người được quyền nói điều mình muốn nói, được ở những nơi mình muốn ở, được làm những công việc mình muốn làm. Đó là cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà đánh dấu sự thắng lợi to lớn của Thế Giới Tự Do, một trong những biến cố lớn nhất trên thế giới trong năm.

Khoa đứng nhìn những chiếc ca nô treo bên hông tầu gần sát boong ra vẻ hiểu biết nói với cậu em.

-Đó là những ca nô cấp cứu phòng khi tầu bị đắm, hồi xưa cách đây bốn chục năm tầu Titanic đụng phải tảng đá băng lớn chìm ngay, chỉ có một ít người được cứu sống.

Nói rồi cậu miên man nghĩ tới gia đình mình, tới nghìn vạn những người di cư khác, số phận của gia đình cậu, của muôn vạn người khác đã gắn liền vào số phận của đất nước y như những chiếc ca nô treo trên thành tầu.

Gió vi vút thổi từ ngàn khơi, Phúc nhìn đại dương mênh mông bát ngát nhớ lại những ngày chạy loạn xa xưa, những ngày rong chơi của tuổi thơ bên đồng lúa chín, dưới bóng cây đa cây bàng trường học, bên dòng sông Đáy êm đềm phẳng lặng …  cậu thấy đời người cũng  y như trong một giấc mơ. Trước mắt bây giờ chỉ có trời với nước.

Sóng bể vẫn rì rầm vỗ nhẹ vào thân tầu.

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

Pages: 1 2

Phản hồi