Có những đêm trăng vỡ
(Gửi Đ.Q.)
‘… Hãy về với biển. Có lẽ, ở đây, sẽ gợi hứng sáng tác nơi anh, đều nhịp hơn chăng? Thân.’
Anh đọc lại lá thư từ tay vợ đưa – của một bạn văn, từ miền biển gửi. Anh đắn đo:
- Hoài nghĩ thế nào. Có nên làm một cuộc viễn du về vùng biển?
- Đã từ lâu, chúng ta chưa nhìn được biển, từ khi rời khỏi nước. Những thành phố ở Bắc Âu và ở đây giống nhau quá. Sự lập lại bao giờ cũng nhàm, dù là cảnh sắc. Mỗi mùa đông đến, chỉ là những trận mưa tuyết xối xả, dơ bẩn và dài lê thê. Nên chăng, một thay đổi, mình nghĩ sao? – Chị Hoài, e dè hỏi lại anh.
Đã sáu năm qua, từ khi du học, anh và Hoài, cũng như bao thanh niên du học sinh khác, đã thoát mình và nhìn ra khung trời mới. Ở đó, con người có định nghĩa cao đẹp mà nhân loại hằng rao. Họ, như những ngư nhân, thoát rọ, lao vào vũ môn. Nhưng vũ môn nào, chẳng thử thách? Họ nghĩ thế.
Canada.
Một năm lại trôi qua. Ngoài mưu sinh, cả hai, thấy cuộc sống, vẫn còn điều gì đó đơn điệu, ngượng ngập, chưa rõ ra những gì họ muốn tìm kiếm, ở cuộc sống lưu vong này. Anh vẫn lao đầu vào nghiệp dĩ viết lách, chị góp vài bài thơ – như cầm chịch! Nhưng có một cái gì đó chưa gọi thành tên, đã làm anh khựng lại trong sáng tác. Họ miệt mài trong cuộc sống trước mắt.
Nhưng tuyết?
Tuyết lạnh ở Bắc Âu và Canada, gợi nơi họ – những nhức nhối của một thời đã qua. Từ Tiệp Khắc, họ, từng ẩn náu qua nhiều nước Bắc Âu…
Anh cần một sự đổi mới cách sống. Ít nhất – nơi ấy có biển, như quê hương anh, đã từng là biển.
Đêm ấy, họ quyết định sẽ di thêm một chặng đường nữa. Chỗ nào mà chẳng lưu vong, khi đã là người lưu xứ! Miễn sao, ở đó có biển.
Biển! – Là suốt một chiều dọc của lịch sử, đã trườn qua bao sự vùi dập -nhân sinh, văn hóa-, dã man, trơ trẽn đến tàn bạo trên quê hương anh một cách khốc liệt.
Biển, có cho họ, sự hứng gợi từ sáng tác, như người bạn văn đã nói?
Đây là một mỏm đảo, trong muôn đảo của Canada.
Một thành phố nhỏ, trên một mỏm đảo nhỏ ngoài khơi vịnh Thái Bình Dương to lớn. Khí hậu giao hòa, thi thoảng có tuyết rơi, có bốn mùa rõ rệt.
Có bao nhiêu đồng hương trên mỏm đảo này?
Điều ấy, vô nghĩa đối với vợ chồng anh, ngoài một người em họ, đã định cư tại đây mấy năm.
Anh vẫn mải miết sáng tác và cùng người em họ, đi hái lá, bắt sò, làm kế sinh nhai.
Rừng vàng, bạc biển, là đây!.
Rừng. Trên cao có lá – một loại lá đặc biệt, để trang trí những vòng điếu hoa, rất lâu héo úa – Anh tha hồ hái.
Biển.
Dưới đó, là những bãi cát rộng mênh mang. Sò, sẽ lộ dần, khi con triều rút nước, trả về đại dương xa thẳm. Anh cứ việc cào, nhặt. Như mọi người…
Mùa mưa.
Một mình, anh băng rừng tìm, vặt lá. Những ngày mưa tạnh, Anh dắt chị, cùng nhặt sò trên bãi vắng rộng mênh mang trời đất; vào những đêm trăng.
Cứ thế, họ, sống vô tư qua nhiều mùa trăng.
Những tháng đầu, biển cuồng nộ, hăm dọa xua đuổi một người khách lạ là anh…
Anh bảo:
- Ta, là nhà thơ, đi-tìm-chất-liệu-sống!
Thế rồi biển thua, đành rút dần, ra xa, nhường lại phần cát mềm xương máu cho anh.
Trăng lên.
Vầng trăng xám ngoét, lạnh lẽo, giữa đất trời vô tận một màu xanh đen của biển, trong đêm.
Hè tới.
Họ là những thi sĩ, đi tìm vầng thơ trên bãi cát vắng. Anh nhặt nhạnh. Chị lúi cúi. Đếm. Đo. Cứ thế, họ nhặt những vần thơ cuộc đời.
Có gì hạnh phúc hơn trong cuộc đời này?
Đông đến.
Là thời gian, họ thấy cô đơn nhất. Nhưng hề gì! Phải chăng, những nhà thơ, là những con người yếm thế và thích sự cô đơn lạc lõng từ muôn kiếp? Sự cô đơn, làm nên những vầng thơ.
Anh thường nói:
- Mỗi mùa đông. Cuộc đời nhai nhải!
‘Reng.. reng…’. Anh chộp ống nghe, trước chị và con bé Ty.
- Ông “mần thơ”? – Tiếng bên kia đảo.
- A! Thằng “nhà dzăng”. Khỏe không hè!
- Tôi thông báo, một việc quan trọng!
- Quan trọng!? Hừm! “Nhà dzăng” chúng mày, lúc nào, cũng quan trọng. Với ta, đời chả có gì quan trọng sất, ngoài thi ca, thơ phú!
- Vâng! Ông nghe đây. Đúng hai tiếng nữa, tôi sẽ lấy phà, sang đảo và có mặt tại nhà ông, ngay trước cửa! Nè. Nhớ mua vài chai rượu, đãi tôi.
- Ừm. Quan trọng thật! – Anh hét lên, tuyên bố:
- Thằng “nhà dzăng khùng” sắp qua đảo.
- Ông ấy bao giờ chả khùng và quan trọng. – Chị Hoài cười, tiếp – Cả ông nữa. Hắn đã khùng, lấy xe lên phà, băng qua đảo, băng qua bao con đường đất lầy lội đầy tuyết, mà ông không cản hắn. Hóa ra, ông còn khùng hơn. Mấy ông, coi cái tình văn nghệ, còn hơn mạng sống chính mình! Tôi trổ tài đây. – Chị Hoài, xông xáo vào bếp.
- Khàà! Khàà! – Anh cười, sảng khoái.
…
- Uống, bao chai mới gọi là say, thưa ông nhà thơ? – Một người bạn trẻ, anh vừa quen, trong những ngày đi hái lá trên rừng cao, đưa cao chai bia lạnh, lắc lắc, hỏi.
- Chí Phèo, – uống cả đời vẫn chưa say! Ta, bây giờ, già hơn Chí Phèo hồi đó vài tuổi, khi hắn về chầu Diêm vương. Ta khá hơn hắn. Ta chưa say! – Anh chỉ gã bạn, đang ngồi ngật ngừ – Mày viết truyện, có biết: đái ra rượu mới say?
- Vậy ông chưa say! – Thằng nhà văn phán.
Tiếp:
Hết béng nó rồi! Bà Hoài ơi, nhờ gọi “Ông Vua Napoléon” lại hầu ba thằng tui!
- Uống, bấy nhiêu là đủ! Rượu. Uống cho nặng cái tình. – Vợ thằng nhà văn nói.
- Mấy ông không là Chí Phèo, rõ nói tào lao! Ở đây, có đâu đồng hương, mà xách dao tìm rượt khi xỉn! – Chị Hoài đùa.
- Rượt mấy bà thì được. Rượt lạng quạng, nó chém thấy mẹ! – Anh hóm hỉnh ghẹo.
Chị Hoài, cười nghiêng mũi, xách tai kéo “Ông Vua Napoléon”. Lão Vua già nước Pháp, nhảy lên bàn rượu, lạy mỗi ông hai vái rõ to. Chị trở lại bàn, tiếp chuyện dang dở với vợ thằng nhà văn.
- Tai hai mụ, thính như tai ốc sên! – Anh nói khẽ.
- Ốc… Sêên!!! Anh lập lại.
Thằng nhà văn cười khùng khục trong cổ họng. Tợp thêm ngụm rượu.
Người bạn trẻ hỏi:
- Hình như có rượu, người đời thường làm chuyện khác thường?
- Quả là vậy! Nam Cao phải biết uống rượu, mới dựng nên nhân vật Chí Phèo hay như thế! Dường như, rượu, làm nhà văn, khơi lại nhiều chuyện dĩ vãng hơn. Cái đời thực trước mắt, nó ghê tởm, nó dung tục quá! Mà, dĩ vãng bao giờ chả hay, dù có đớn đau, xấu xí. Đem cái xấu xí, trộn tính nhân bản vào, sẽ làm nên một bản văn hay, một bài thơ đẹp.
- Cái đó đã hẳn! – Anh chen vào.
- Vậy, tại sao, mấy ông phải viết? Cả một đời sống, sờ sờ trước mắt, đã, chẳng là, những cuốn sách lớn của cuộc đời lắm sao? – Người bạn trẻ, lại hỏi.
- Cái đó… cũng đã hẳn. Đó là sự thao thức!
- Khó nhỉ?
- Chưa chắc!
- Sao?
- Diệt xong “thằng vua Napoléon” này, mới hẳn là khó! – Thằng nhà văn, nói.
…
Mùa hè lại đến.
Đêm.
Đã bao đêm. Anh vẫn dắt chị ra bãi.
Đêm, cuối tuần bãi vắng. Anh cùng chị, dạo mát, ngắm biển. Dù họ, đã là bạn của biển qua mấy mùa trăng. Sóng vẫn vỗ ầm ì, như muôn thuở, đưa lên những bài ca của biển. Trăng nửa vành xám ngoét, nhìn xuống. Gió mơn man da thịt mời gọi, thích thú.
Đêm.
Hưng phấn.
Anh dắt chị chạy miên man trên bãi biển. Họ đùa, họ vật nhau, lăn kềnh trên bãi cát mềm, đã cho họ niềm hạnh phúc bấy lâu.
Chợt nhiên anh đứng dậy, đưa tay chỉ ra vùng biển đêm đen:
- Bên kia bờ Thái Bình Dương, là quê hương ta!
Những ngọn sóng bạc đầu, vỗ ầm ì, hung dữ, phủ nhận.
Biển nói:
- Ngươi, ở bên này, sao vẫn ngóng bên kia? Ngươi là kẻ bạc bẽo, bội ơn!
Anh thảng thốt. Anh rú lên, tiếng rú đau thương của một loài thú, của kẻ – lìa xa cội nguồn.
Anh dắt tay Hoài, chạy. Chạy, chạy mải miết, dọc những lọn sóng vẫn vỗ ầm ì. Chợt nhiên, anh dừng lại, nhìn ra biển sâu hun hút, ngâm lên một bài thơ. Chị Hoài ngẩn ngơ, nhìn chồng. Một thoáng. Chị, chợt hiểu. Chị nhặt hai hòn đá cuội của biển làm phách, gõ nhịp lách cách, hài hòa…
‘Xuống gành cào bãi hoang sơ
thấy con sò ngậm một bờ trăng non
biển khuya rít gió oan hờn
ngọn đèn lung ảo chập chờn bóng cây?
đâu đây mọc giữa chốn này
hái đầy một vốc lá ngây ngất về
đường vòng dạng cánh lê thê
hằng sa trút tuổi bộn bề âm dương.’ (*)
Chị Hoài ứng khẩu. Ngâm:
“Biển. Biển ơi! Biển hời!
Cũng là biển mênh mông
Cũng trăng. Nửa vầng trăng tái
Sóng. Muôn thuở bạc đầu
Sao lại khác nhau?
Đã quyết ra đi
Sao lại để mối lòng sầu
Hề! Tiếc nối chi?
Ai hiểu nguồn cơn?
Ôi! Nỗi nhớ hai đầu…” (**)
Anh ngâm tiếp:
‘Xuống gành cào bãi hoang sơ
Thấy con sò ngậm một bờ trăng non…’
- Sao lại là một bờ trăng non? – Chị Hoài, ngừng đập phách, hỏi.
- Trăng! Thủy chung tiền kiếp, là người. Bờ trăng non, là vành trăng khuyết. Hoài đã từng đọc ‘Chém treo ngành’ của Nguyễn Tuân, Hoài đã biết chém treo ngành là thế nào! Nửa vầng trăng ấy, bị thượng đế chém treo ngành, treo lơ lửng, những đầu mùa trăng.
Họ lại ngâm nga, gõ nhịp, dưới ánh trăng non chém treo ngành, giữa biển cả muôn trùng. Tiếng phách gõ, tiếng ngâm, càng lúc càng rõ mồn một, át cả tiếng sóng vỗ ầm ì.
Biển thua! Gọi nước triều rút xuống.
Anh nắm tay chị, chạy man man, loang loáng, xua nước triều ra xa.
Anh cởi áo chị. Hoài cũng nóng hổi, nhiệt tình, cởi áo anh.
Cả hai rượt đuổi, rồi ùa xuống mặt nước xanh đen, thăm thẳm.
Thời cổ tích lừng lững, xuất hiện…
Cả hai, đang sống trong thời hồng hoang, xa xôi. Anh ôm chị, cắn chị ngấu nghiến, như chưa từng.
Cả hai yêu nhau, trong ngụp lặn của tiềm thức cổ thi đam mê.
Anh ôm xiết Hoài. Anh địu chị trước ngực, như địu một em bé, chạy lên bãi cát mịn màng, hoang vắng, của thuở ban sơ trời đất chưa sinh ra loài người.
Anh đặt chị xuống.
Trần truồng.
Cả hai trần truồng giữa trời đêm hoang dã. Anh hét vang:
- Cuộc đời! A ha, cuộc đời! Cuộc đời này, có ai mà không bị chém treo ngành nhỉ!? Nào… chúng ta vô cuộc, trước sau, rồi cũng bị chém treo ngành. A ha!!!
Trăng, trên cao, chìm khuất trong bóng mây, ló nửa vành, gãy gọn, hoang sơ.
Có, những đêm trăng vỡ.
01/12/1999 –Vancouver
© Vũ Đình Kh.
————————————————————————————–
Ghi chú:
(*) Thơ Sử Mặc
(**Thơ Vũ Đình Kh.)