WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Bàn về cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức

500_thumb
Tôi mới đọc hết cuốn một, Giải Phóng, rất dầy trên internet. Tác giả viết công phu, sưu tầm được nhiều dữ kiện, phỏng vấn các nhà lãnh đạo Công sản Việt Nam, các tướng lãnh quân đội nhân dân, các nhà “cách mạng lão thành”. Về phía Việt Nam Cộng Hòa, tác giả phỏng vấn các ông cựu chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh, phó thủ tướng Nguyễn văn Hảo, dân biểu Hồ ngọc Nhuận, Ngô công Đức.. phần nhiều những người còn ở trong nước.

Nhìn tổng quát

Cuốn sách bắt đầu từ ngày 30/4/1975, một khúc quành bi thảm của lịch sử miền nam nước Việt. Đối với người miền nam tác giả đã làm sống lại một phần trang sử đen tối nhất của đất nước hiền hòa này mà họ đã trải qua gần bốn mươi năm trước. Trên thực tế người ta chỉ muốn quên đi, ít người muốn nhắc lại giai đoạn đầy máu và nước mắt này.

Cuốn đầu nói về tình hình Việt Nam từ sau ngày 30/4/1975 cho tới 1993 khi quân đội CS Việt nam rút hết khỏi Cam bốt. Bên Thắng Cuộc hiện được nhiều người nói tới, kẻ khen cũng nhiều người chê cũng lắm. Bề ngoài đồ sộ, hành văn nghiêm túc nhưng nói chung toàn bộ cuốn sách cũng không khám phá và thể hiện được những sự kiện mới lạ như nhiều người mong đợi, nhất là đối với người hải ngoại, có chăng là đối với ngưởi trong nước vì cuốn sách không được phổ biến tại Việt Nam.

Chúng ta đều biết những cuộc phỏng vấn các nhà lãnh đạo CS không thể lấy được những dữ kiện bí mật hoặc sự thật lịch sử, chính trị. CS Nga đã sụp đổ từ hai chục năm qua nhưng nhiều bí mật từ thời Lenine, Staline cho tới nay mới chỉ được bạch hóa một phần nào. Cuộc đại tàn sát lớn nhất trong lịch sử nhân loại do Staline ra tay trừng trị nước chư hầu Ukraine năm 1933 khiến cho bẩy triệu người chết đói thê thảm. Thế mà trang sử ghê tởm này đã được Staline dấu kín, che mắt cả thế giới suốt 70 năm mà người ta gọi là The forgotten Holocaust.

Nhiều người nói Bên Thắng Cuộc là một cuốn sách tuyên truyền, tôi không nghĩ vậy vì nay tuyên truyền coi như vứt đi, người ta đã biết tỏng ra rồi. Nó cũng không phải viết ra để phơi bầy những sự thật tại Việt Nam từ ngày 30/4/75 cho tới 1993 vì tại xứ không có tự do, con người dù là một ông đứng đầu nước không thể muốn nói gì thì nói.

Nhiều người nói đây là cuốn lịch sử Việt Nam từ 30/4/75 cho tới 1993, tôi nghĩ nó không phải là một cuốn sử vì nó ôm đồm quá nhiều lãnh vực. Cho tới nay có nhiều cách viết sử: Biên niên ký như Sử Ký của Tư Mã Thiên, thế kỷ I trước Tây Lịch hoặc Việt Nam sử lược của Trần trọng Kim, ngoài ra còn có tiểu thuyết Lịch sử như Tam Quốc Chí, Chiến Tranh Và Hòa Bình… Ngày nay người ta có thể diễn tả lịch sử bằng phim ảnh như Vietnam, a Television History hoặc viết sử bằng lối kể chuyện lịch sử nhưng nội dung chỉ để tả những biến cố chính trị mà thôi. Trở lại cuốn Bên Thắng Cuộc vì nó chứa đựng rất nhiều lãnh vực, bao gồm cả chính trị, kinh tế, xã hội, chiến tranh, tài chính, vượt biên, đổi tiền..… trăm thứ bà rằn nên khó có thể gọi là một cuốn sử.

Mặc dù có chia chương mục nhưng Bên Thắng Cuộc cũng không thể là một cuốn sách khảo cứu vì không hội đủ điều kiện, rườm rà thiếu phương pháp khoa học như phân tích, tổng hợp, diễn dịch, qui nạp, nguyên nhân hậu quả… Vả lại một cuốn sách khảo cứu chỉ bàn về một chủ đề không ôm đồm nhiều vấn đề như vậy, chính tác giả cũng không xác nhận nó là cuốn sử hay biên khảo. Nó cũng không phải là cuốn hồi ký, tự sự vì tác giả chỉ tham khảo tài liệu, dựa vào các cuộc phỏng vấn để viết ra.

Thật không biết xếp nó vào loại sách gì, nhưng ta cứ coi nó là một cuốn sách ghi chép nhiều lãnh vực của nước Việt nam từ ngày 30/4/1975 cho tới năm 1993.

Trước hết tôi xin nói tổng quát về cuốn sách: gồm hai phần, 11 chương, phần I Miền Nam , Phần II Thời Lê Duẫn. Về tên sách, tác giả dùng chữ “thắng cuộc” thay vì “thắng trận” như muốn nói đây là một cuộc chơi hơn là một cuộc chiến. Trong lời mở đầu tác giả nói cuốn sách bắt đầu từ ngày 30/4/1975 ngày mà nhiều người tin là miền Bắc giải phóng miền nam, nhưng cũng có nhiều người nhìn lại suốt hơn ba mươi năm giật mình cho là bên được giải phóng lại chính là miền Bắc và tác giả nói hãy để cho các nhà chính trị, xã hội học.. nghiên cứu, ông chỉ kể lại diễn tiến lịch sử.

Tại chương 9 Xé rào đề cập tới những thất bại kinh tế như bù giá vào lương, mậu dịch quốc doanh… và kết luận kế hoạch làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa thất bại và cuộc chiến “được coi là giải phóng miền nam” đã nối nền kinh tế bị nhốt kín suốt hai mươi năm của miền Bắc với nền kinh tế thị trường của miền nam.

“Cuộc “Bắc tiến” ngoạn mục của những chiếc quạt bàn, tủ lạnh, xe máy Honda đã phần nào giải phóng tư duy cho chính những người đã lãnh đạo chiến tranh”
(Trang 311)

Tác giả kết luận “ai thắng ai”. Khi mới vào sách tác giả cho thấy miền Bắc thắng về quân sự và gần cuối cho thấy miền Nam thắng về kinh tế, ai giải phóng ai? Như thế chẳng khác nào nói trong trận đấu, trong cuộc chơi này hai bên huề nhau theo tỷ số 1-1 chứ không phải 1-0 như người ta thường nghĩ. Tác giả tránh né không muốn mất lòng bên nào.

Hành văn cũng có chỗ ly kỳ như trong Tây Hán chí, Đông Chu Liệt Quốc nhưng nhiều chỗ dài dòng không cần thiết đoạn nói về tiểu sử Pol Pot, Sihanouk vì nó không liên quan tới Việt Nam. Tác giả có vẻ khách quan nhưng tựu chung nó chỉ là một sự khách quan nhiều thiếu sót, chỉ nói lên được phần nào sự thật nhất là khi nói về miền Nam VN có thể do thiếu thông tin tài liệu, hoặc vì tránh né.

Tuy nói là chỉ kể lại diễn tiến nhưng tôi thấy ông không nói hết sự thật, hoặc không thể nói được vì còn đang ở trong nước. Trang 350 Đại hội 6 Trung ương Đảng CSVN tháng 12/1986 ba ông Lê đức Thọ, Phạm văn Đồng, Trường Chinh xin rút tên không ra ứng cử kỳ này, tác giả chỉ nói sơ xài mà tránh né những chi tiết cần nói. Hơn một năm trước đó ông Gorbachev lên làm Tổng bí thư CS Liên xô từ 11/3/85 đã thực hiện đổi mới, chẳng lẽ đảng CSVN đổi mới mà không liên hệ gì tới biến cố lớn lao này của Nga hay sao?

Khoảng hai năm sau khi VN đổi mới (1988, 89), tôi làm nhân viên văn phòng cho một công ty tư doanh nhỏ, họ tuyển chuyên gia, một ông giám đốc đã về hưu đến nạp đơn. Hôm ấy ông cán bộ này có ngồi lại tâm sự với tôi về đổi mới và cho biết lý thuyết kinh tế Marx nay không còn hợp thời. Liên xô đã đổi mới, ông Gorbachev cử một ủy viên sang VN làm đảo chính nhưng “không cho đổ máu”(nguyên văn). Hẳn ai cũng biết nếu không có bàn tay lông lá của ông anh cả Liên xô thì Trường Chinh, Lê đức Thọ, Phạm văn Đồng dễ gì mà từ bỏ quyền lực như vậy.

Các chương mục

Tôi xin đi vào các chương mục, vì cuốn sách quá dài, bài viết chỉ có giới hạn nên chỉ bàn về một số điểm cần nói. Tôi cũng xin đóng góp thêm một số ý kiến với tác giả nhất là phần nói về miền Nam VN vì tôi đã là người dân miền nam trước đây.

Tác giả mở đầu bằng Phần 1 Miền Nam, Ba mươi tháng tư, tiến quân từ bưng biền về giải phóng Sài gòn, những dữ kiện quân sự ở đây dựa vào tài liệu “Cách mạng”, nói chung không có gì mới. Sau ngày 30/4/1975 báo Sài Gòn Giải Phóng đã đăng cả năm trời những diễn tiến này từ tháng 3 cho tới cuối tháng 4/1975 do các Tướng Tá cách mạng kể lại, Tướng Văn Tiến Dũng, Đại tá Dương đình Lập, Thượng tá Trần cao Minh, Trung tá Đinh văn Thiên.. cũng đã viết lại trong các cuốn Đại Thắng Mùa Xuân, Cuộc Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, Một Số Trận Đánh Trước Cửa Ngõ Sài Gòn…

Tác giả có viết sai vài chi tiết nhỏ như trang 22 nói sân bay Lộ Tẻ (Cần Thơ) thực ra là Trà Nóc, trang 21 nói ngày 21/4/1975 ông Thiệu triệu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm vào thông báo ông từ chức, thực ra ông Khiêm đã từ chức Thủ tướng trước đó một tuần (hôm 14/4)

Đó là cái nhìn cuộc chiến từ phía kẻ thắng, tôi xin vắn tắt kể thêm cái nhìn từ phía người thua cuộc để biết tại sao ai thắng ai: Cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ bắt đầu từ ngày 19/12/1946 tại Hà nội và chấm dứt ngày 30/4/75 tại Sài Gòn. Cách mạng đã theo đúng rập khuôn những lý thuyết quân sự Lenine như trong cuốn “Nguyên Lý Căn Bản Của Chủ Nghĩa Lénine” (do Staline viết, tôi đã đọc 1976)

Về quân sự Lenine đưa ra những nguyên tắc chính:

a- Con đường đã vạch ra là phải đi đến cùng.
b- Chủ động tấn công tiêu diệt địch.
c- Phòng ngự là con đường chết của vũ trang khởi nghĩa.
d- Đã đánh là phải thắng bằng được, địch một thì ta năm, địch hai thì ta mười

Cuộc chiến tránh Đông Dương lần thứ nhất hay tám năm khói lửa giữa Pháp-Mỹ và Việt minh -Trung Cộng tới 1954 chấm dứt. Trước đó hơn một năm, chính phủ Pháp chỉ muốn rút chân ra khỏi Đông Dương, (Henry Navarre, Agonie de l’Indochine trang 71), người ta quá chán cuộc chiến khi mà kẻ thù sẵn sàng lấy xác chết đổi chiến thắng. Từ 1955, 56 người Mỹ lại đi vào vết xe đổ của người Pháp trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-75) và rồi cũng phải tìm đường ra từ đầu thập niên 70, cả người Pháp và Mỹ phải chịu thua chiến lược “chén sành chơi chén kiểu” của “Cách mạng” trong khi Mỹ, Pháp quí trọng sinh mạng con người như vàng.

Trước khi ký Hiệp định Paris hai tháng Nixon viện trợ ồ ạt cho miền nam hơn 200 máy bay chiến đấu, 346 trực thăng đủ các loại , ba tiểu đoàn pháo binh 175 ly, hai tiểu đoàn thiết giáp (Nixon, No More Vietnam 170, 171) Miền Bắc bị thiệt hại nặng trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972 (mất 100 ngàn quân, 700 chiến xa) và các căn cứ quân sự tại BV bị B-52 đánh phá tan nát trong trận oanh tạc cuối năm 1972. Sau khi ký Hiệp định Paris miền nam mạnh hơn miền Bắc nhiều nhưng không được phép đánh ra Bắc, người Mỹ chỉ giúp miền nam tự vệ.

Từ 1973 miền Nam bị Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ mỗi năm 50% (Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471), từ tháng 4/1974 hỏa lực giảm 70%, tháng 2/1975 đạn trong kho chỉ chỉ còn đủ đánh 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh 2 tuần (Cao văn Viên Những ngày cuối VNCH trang 92).

Miền Bắc vẫn được CS quốc tế viện trợ dồi dào, hai giai đoạn 1969-72 và 1973-75 vẫn được viện trợ khoảng 660 ngàn tấn vũ khí, đạn dược (BBCvietnamese.com 10/5/2006), viện trợ của Nga cho BV từ tháng 12/1974 đã tăng gấp 4 lần (Years of Renewal trang 481) và cuối cùng cuộc chiến đã kết thúc ngày 30/4/1975.

Miền nam thua vì “hết đạn”, đơn giản vậy thôi.

Gọi là cuộc chiến tranh giải phóng cho vui thôi chứ kỳ thật chỉ là cuộc chiến tranh xâm lược, khó mà phủ nhận được.

Nay Huy Đức coi như Bùi văn Tùng là người tiếp thu dinh Độc lập, tin tức do “Cách mạng” đưa ra không thống nhất về việc này, sau 30/4/1975 báo Sài gòn Giải Phóng nói người tiếp thu là một Đạị tá Cách mạng, một năm sau tờ báo này còn đăng hình Đại tá đó. Chuyện xe tăng vào dinh Độc lập từ 1975 đến nay có nhiều thông tin hoàn toàn khác nhau. Năm 1976 có một bài trên báo Sài Gòn Giải Phóng nói đạo quân và chiến xa từ Long An vào chiếm dinh Độc lập trước nhất, họ đăng hình những xe lội nước PT-76 ở trong sân dinh, nay thì có nhiều tin khác nhau về chuyện này.

Năm 1981 Đại Tá Bùi Tín lúc còn tại chức đã trả lời phỏng vấn một ký giả Pháp ở Hà Nội, ông cho biết chính ông đã đại diện “cách mạng” tiêp thu dinh, sự kiện được xác nhận trong video clip (xin vào link http://www.youtube.com/watch?v=Ch0-w4GBuWY hay vào www.youtube.com đánh bằng tiếng việt Phong van Bui tin 1981). “Cách mạng” đã chính thức xác nhận như thế, từ đó các sách Mỹ về chiến tranh VN đều nói Bùi Tín tiếp thu dinh Độc lập nhưng từ đầu thập niên 90 khi Bùi Tín bỏ đảng (tức “bảng đỏ”) thì Cách mạng gạt bỏ Bùi Tín ra. Sau đó nhiều tin khác nhau về chuyện này, ký giả Nguyễn trần Thiết cho rằng Cao đăng Chiếm là đại diện Cách mạng tại dinh Độc lập trưa 30/4/1975, một ký giả khác nói Đại tá Nam Long. Năm 2005 một tờ báo tại Hà Nội (Thanh Niên?) mở cuộc phỏng vấn để tìm ra người tiếp thu dinh Độc Lập và đã công nhận ông Bùi văn Tùng trong vài trò này, những chuyện vừa kể người miền nam ít ai quan tâm.

Tác giả ghi lời kể của trung úy Bùi quang Thận, anh ta nhẩy từ xe tăng xuống cầm cờ giải phóng chạy vội vào cửa dinh Độc lập đâm sầm vào cửa kính lớn và ngã bò xuống đất, tác giả nói từ thuở bé anh này chưa hề biết có tấm kính lớn như vậy. Khi Đại tá Chánh văn phòng VNCH mời Thận vào thang máy để lên nóc dinh treo cờ thì anh không chịu vào, sợ bị nhốt luôn trong đó vì anh chưa bao giờ biết thang máy là cái gì. Đọc đến đây tôi không khỏi thấy xót xa trong lòng, một sĩ quan “quân đội nhân dân anh hùng” chưa hề thấy một tấm kính lớn và cái thang máy bao giờ trong khi tại Sài Gòn từ 1961(thời ông Diệm) rạp Rex đã có thang máy, từ giữa thập 60 nhiều building Sài Gòn đã có thang máy, như thế ta thử tưởng tượng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trước 1975 lạc hậu và khốn khổ như thế nào? Năm 1978 một người bạn tù nói với anh em: nếu được tha về tôi sẽ ra Bắc chơi, cứ nghe nói nó lạc hậu, mình ra xem nó lạc hậu đến cỡ nào!

Chương 2. Cải tạo. Tôi xin góp ý thêm về chuyện cải tạo, chẳng qua nó chỉ lả sự áp dụng rập khuôn theo lý thuyết Lenine từng chữ một. Khi CS chiếm xong Sài gòn, họ thành lập “Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn Gia định” (UBQQ) do Thượng tướng Trần văn Trà làm chủ tịch, Ủy ban QQ có nghĩa là quân đội tạm thời cai trị chờ khi có chính quyền dân sự. Khoảng hơn một tháng sau ngày 30/4 (chứ không phải ngày 5/5 như tác giả viết) UBQQ đăng thông cáo của Trân văn Trà yêu cầu những đối tượng sau đây đi trình diện cải tạo: Công chức trung ương từ Chánh sở, địa phương từ trưởng ty, phó quận cho tới Tổng thống; sĩ quan cảnh sát từ thiếu tá trở lên; các thành phần đảng phái, nhân viên tình báo ra trình diện học tập tại trường Gia Long và một vài trường khác (quên tên), mang theo quần áo, lương thực.. đủ dùng trong một tháng, đây chỉ là một sự đánh lừa xảo trá.

Sau đó các sĩ quan VNCH (thiếu úy trở lên) cũng có thông cáo ra trình diện, các địa phương cũng bắt sĩ quan, công chức có chức vụ chỉ huy, viên chức xã ấp đi học tập cải tạo. Toàn bộ số người trình diện hay bị bắt được ước lượng 100 ngàn dựa theo số sĩ quan VNCH (có khoảng 90 ngàn sĩ quan VNCH và sĩ quan cảnh sát).

Sau đó họ cho xe chở hàng ngàn người lên làng cô nhi Long thành, lập lên trường học tập cải tạo do Ban lãnh đạo nhà trường quản lý. Tại đây gồm 4 khối: công chức (trung cấp và cao cấp) đông nhất; sĩ quan cảnh sát, đảng phái, nhân viên tình báo, tổng cộng trên ba ngàn người (3,000). Thời gian từ tháng 6 cho tới gần Tết (khoảng tháng1/1976) đối xử dễ chịu, cho gửi quà, tiền, có cantin bán hàng, không phải lao động, chỉ nhổ cỏ làm việc nhẹ, họ bắt đầu thanh lọc, bắt học viên kê khai quá trình.. Gần Tết họ thả về rất đông khoảng trên 500 người, đa số có thân nhân làm cán bộ bảo lãnh, những người chuyên môn, và những người lo lót, hiến vàng cho nhà nước (thực ra vào túi riêng cán bộ). Ủy ban quân quản ăn hối lộ thả nhiều nên Bộ nội vụ tại trung ương vội vã gom tù lại, những ai được về coi như thoát, ai kẹt lại lãnh đủ. Nhiều người cấp lớn (phụ tá bộ trưởng, phó tổng thư ký, tổng giám đốc.. được về rất sớm, sau này mới biết, họ được người môi giới đút tiền, vàng cho cán bộ trong UBQQ.

Khoảng hơn một năm sau ngày nhập trại, bộ nội vụ bèn gom tù lại, ra Chính sách 12 điểm, tất cả học viên thành tù hết, án phạt ba năm… do Công an quản lý, đối xử hà khắc, bắt lao động cực nhọc, giai đoạn này cho ăn đói, mỗi bữa chỉ có vài củ khoai và một hai bát bo bo… chừng hơn một năm thì chuyển tù ra Bắc gần hết chỉ giữ lại hơn 200 người (từ giám đốc trở xuống) để lo nhà bếp, họ đưa hàng mấy nghìn tù hình sự ở Bùi Gia Mập về từ đó chỉ thả rất ít, sau ba năm lại tự động tăng án.

Những người bị giam ở trong nam thì còn đỡ khổ vì có gia đình thăm nuôi vả lại miền nam khá hơn miền Bắc, những người bị đưa ra Bắc vô cùng thê thảm, đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, làm việc quá sức.. nhiều người chết bỏ xác miền Bắc hoặc hóa ra thân tàn ma dại. Sĩ quan cấp thiếu úy, những người quá trình nhẹ hoặc có thân nhân là cán bộ bảo lãnh phần nhiều được về trong vòng ba năm, cấp trung úy hoặc ty sở trưởng, những người có liên hệ an ninh tình báo thường là được về sau 5 hay 6 năm. Năm 1980, 81 (khoảng 5, hay 6 năm sau 30/4/75) họ thả về rất nhiều, chỉ còn lại khoảng chưa tới 20%, những người kém may mắn có thể lên tới 10, 13, 15 năm

Việc tập trung cải tạo không phải do quyết định của ông Trần văn Trà, ông Võ văn Kiệt hay Cao đăng Chiếm… mà là sự áp dụng máy móc những nguyên lý căn bản của Lenine. Trong một số sách của Lenine mà tôi được đọc sau 1975 như bộ Lenine tuyển tập (in tại Nga khoảng 800 trang), Làm gì.. có viết rất rõ về chính sách tập trung giam giữ: Lenine nói chiếm được một tỉnh, giải phóng được một nước thì dễ nhưng giữ yên được đất nước, địa phương ấy mới là khó: muốn vậy sau khi chiếm được lãnh thổ, trước hết phải tập trung giam giữ lâu dài bọn phản động, thành phần làm việc cho chế độ cũ, chỉ khi nào ổn định được xã hội, nắm vững tình hình an ninh nội chính mới thả chúng về

Ngoài ra trong bộ Lenine tuyển tập và Bản tuyên ngôn đảng CS (manifeste du parti communiste) có nói về Vô sản lưu manh (proletaire en haillons) như sau: Bọn này gồm những tên đầu đường xó chợ, đói khát rách rưới, Vô sản lưu manh rất nguy hiểm, chúng là kẻ thù số một của chuyên chính vô sản vì dễ bị bọn phản động mua chuộc, chúng cần bị giam giữ, loại trừ.

Như đã nói trên, khoảng cuối 1976, họ đưa hơn ba nghìn (3,000) tù hình sự từ Bùi Gia Mập (Phước Long) về trại Long Thành, đa số từ 16 tuổi cho tới trên 20 gồm những tên có tiền án, trộm cắp, vô gia cư, hoặc gia đình gửi đi cải tạo. Tại Bùi Gia Mập bọn tù hình sự này bị đối xử dã man, đánh đập tàn nhẫn, cho ăn đói khát, không có thăm nuôi, số tù hình sự chết như rạ vì bệnh tật, đói khát nên họ mới chuyển về Long Thành, tuy nhiên tại đây ngày nào cũng có nhiều người chết vì bệnh cũ. Trước đây tại miền nam VN nhiều người nghèo đói tưởng mình là vô sản, là con ruột của Cách mạng, lầm chết, thực ra kẻ thù của chế độ. Vô sản chân chính được định nghĩa là những người công nhân sản xuất ra của cải vật chất chứ không phải là bọn khố rách áo ôm.

Việc giam giữ tù chính trị có hai mục đích chính: giữ an ninh và trả thù, nhiều nhà kiệt quệ vì nuôi tù, ngoài ra Sở công an Thành phố còn khuyến khích cán bộ tán tỉnh lấy vợ tù cải tạo để gia đình họ tan nát không còn ý chí chống phá cách mạng. Mục đích nữa là để lấy nhà của các phạm nhân. Các nhà lớn đều bị “Cách mạng” lấy ngay sau khi vào Sài Gòn không cần lý do, nhà của tù chính trị, sĩ quan cải tạo chỉ được để ở, khi chết hay đi nước ngoài sẽ phải trao lại cho cách mạng. Nhiều người muốn ở lâu dài phải mua lại chính căn nhà mình đang ở.

Trang 68 tác giả nói sai:

“Cuối thập niên 1970 ngay cả người Sài Gòn cũng không mấy khi có gạo trắng cá tươi, cơm tù không thể nào tránh được các thiu, gạo hẩm”

Thập niên 1970 chuyện cơm trắng cá tươi đối với người miền nam chỉ là chuyện nhỏ, nhà nào chẳng có. Làm gì có cơm tù? chỉ có vài củ khoai lang, củ sắn, nửa bát boo, cả tuần may ra có được một bát cơm trắng”

Chương 3. Đánh tư sản, đổi tiền, cải tạo công thương nghiệp tư doanh, kinh tế mới.. chương này liên quan đến kinh tế, trước hết tôi xin nói sơ về kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trên thế giới có hai nền kinh tế chính: kinh tế tự do (Anh, Pháp, Mỹ…) và kinh tế chỉ huy như (Liên Xô, Trung Cộng…) Lý thuyết kinh tế Mác xít cho rằng kinh tế tư bản đưa tới khủng hoảng vì sản xuất do tư nhân không có kế hoạch, không ước lượng nhu cầu thị trường nên sản xuất thặng dư quá nhiều. Marx chủ trương phải đưa vào kế hoạch, tập thể làm chủ. Nhà nước quản lý nền kinh tế và qui hoạch nhu cầu nên sản xuất sẽ không bị dư thừa đưa tới khủng hoảng, đó là cơ bản của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trên nguyên tắc chỉ những nước tư bản có sẵn nền công nghiệp mới tiến lên xã hội chủ nghĩa được. Sau khi Cách mạng đã làm chủ đất nước, sản xuất cá thể của chế độ cũ sẽ được thay bằng sản xuất tập thể để tiến lên “làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa”. Sản xuất tập thể sẽ không những tránh được khủng hoảng mà còn khiến cho của cải vật chất gia tăng thật nhanh, giai đoạn này gọi là xã hội chủ nghĩa, làm theo khả năng hưởng theo lao động, có bất công vì làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít.

Sản xuất tập thể khiến xã hội đạt được sản lượng lớn mà hàng hóa ê hề, tràn đầy, khi ấy không cần quyền tư hữu vì TV, quần áo, xe hơi, lúa gạo, thực phẩm đầy kho muốn xài bao nhiêu cũng được, muốn ăn bao nhiêu cũng có, làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu. Giai đoạn này gọi là Cộng sản văn minh, không còn bất công, khi ấy không những không cần quyền tư hữu mà sẽ không còn biên giới quốc gia, thế giới tiến tới Đại đồng đó gọi là Thiên đường Cộng Sản. Trên thực tế chỉ có những thằng điên mới tin được cái lý thuyết này.

Như đã nói ở trên muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa phải trải qua thời kỳ tư bản. Việt Nam Trung Hoa là những nước nông nghiệp, nông vi bản chưa đủ điều kiện để áp dụng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không đủ điều kiện để theo một cái lý thuyết kinh tế thổ tả thì có nhục hay không?

Trở lại miền nam VN, sau khi đã đổ bao nhiêu xương máu trong cuộc chiến này Cách mạng không chấp nhận đường lối “làm ăn cá thể” mà mà phải “tiến lên làm ăn lớn xã hội chủ nghĩa” do đó có đánh tư sản, cải tạo cộng thương nghiệp tư doanh. Kỳ thực nói nghe cho văn vẻ nhưng chỉ là để lấy nhà, cướp đoạt tài sản nhân dân, thực hiện bần cùng hóa nhân dân. Trí Dân hiện ở Tiệp Khắc, xưa là bộ đội đã tham gia chiến dịch Hồ chí Minh lịch sử, sau khi giải phóng miền nam ông hoàn toàn thất vọng vì đã bị Đảng lừa gạt, Sài Gòn quá văn minh. Dương thu Hương khi vào tới Sài gòn đã khóc và nói đây là một cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhât của lịch sử, xứ mọi rợ đánh chiếm một xứ văn minh.

Trí Dân góp ý trên diễn đàn cho biết sở dĩ Đảng phải thực hiện bần cùng hóa nhân dân làm cho miền nam tiêu điều như miền bắc để người miền bắc khỏi thất vọng khi thấy cảnh văn minh sung túc của miền nam được giải phóng. Ta thấy chính sách Cách mạng phản văn minh, phản tiến bộ là nhường nào. Những năm 1978, 79 đài BBC thường nói mặc dù bị đánh tư sản nhiều lần nhưng nay mức sống của miền Nam vẫn còn quá cao so với miền Bắc, Hà nội vẫn cố gắng hạ thấp đời sống của miền Nam xuống cho bằng miền Bắc.

Đổi tiền là cách cướp cạn hợp trắng trợn của Cách mạng đã được tác giả nhìn nhận :

“Người dân miền nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ lấy kìm rút móng những ai còn sơn móng, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai lường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như… đổi tiền”
(trang 85)

Cải tạo công thương nghiệp, ép buộc dân đi kinh tế mới trước hết là để chiếm nhà, sau 30/4 Cách mạng cũng giải phóng luôn nhiều căn hộ thành phố để lấy nhà cho những người có công với cách mạng. Cán bộ lớn ở nhà lớn, cán bộ nhỏ thì nhà nhỏ, hiện nay nhà cửa tại Sài gòn đã đổi chủ gần hết, người cũ nay còn đâu?

Chính sách kinh tế mới chỉ là sự lường gạt, đưa hàng trăm nghìn người lên những vùng đồi núi khô cằn như sỏi đá, không có một tí kế hoạch nào khác hẳn chính sách dinh điền dưới thời ông Diệm 1955, 56… đã biến đất hoang thành những khu trù mật. Mấy năm sau 30/4 hàng ngàn, vạn người đi kinh tế mới trở về thành phố trắng tay, mất hết cơ ngơi, tài sản, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ. Chính sách cải tạo công thương nghiệp, cải tạo kinh tế miền nam thất bại hoàn toàn vì không thể đem áp dụng một lý thuyết kinh tế bán khai, mọi rợ vào một xã hội văn minh sung túc.

Trong phần nói về đánh tư sản, trang 98, 102… tác giả kể lại một giai thoại hay về nhân vật huyền thoại Lý Mỹ, cô học sinh lớp 12 người việt gốc Hoa, gia đình tư sản. Lý Mỹ sớm giác ngộ cách mạng, được kết nạp vào đoàn thanh niên CS năm 1978 , quá nhiệt tình với Cách mạng cô đã dẫn các đoàn viên về nhà chỉ chỗ cha mẹ mình cất dấu tài sản và được báo chí ca ngợi “Lý Mỹ đã hòa mình trong ngọn lửa triều thời đại ấy”. Khi nhà nước cho người Hoa đi bán chính thưc, Lý Mỹ đã tình nguyện ở lại với Cách mạng, cô được Thành ủy ca ngợi như một thần tượng của đoàn thanh niên CS. Cha mẹ cô vượt biên bị bắt, người ta tịch thu nhà mặc dù cô là nhân vật “điển hình”, thần tượng của đoàn thanh niên CS

“Nó xẩy ra trắng trợn và quá mau lẹ, Lý Mỹ cắn răng đi tìm đồ đạc thì hầu như trong nhà không còn gì quí giá”
(trang 130)

Người ta đã lột sạch…căn nhà cô trước là một cửa hàng bách hóa lớn và sang trọng giờ đây tan hoang… Giai thoại thật hay, chua chát, có lẽ nó là giai thoại ly kỳ nhất của cuốn sách.

Chương 4 Nạn Kiều. Tôi xin góp ý thêm về chính sách cho đi bán chính thức. Sau 1975 chính quyền CSVN và CS Trung Hoa bắt đầu rạn nứt dần đi tới chỗ thù nghịch. Hà nội bắt đầu tìm cách tống cố người Việt gốc Hoa đi để trừ hậu họa và cũng là để cướp nhà, lấy vàng, lấy tài sản của họ. Tại miền nam các tỉnh và Sài Gòn cho tổ chức đi bán chính thức bằng tầu vượt biên. Họ lập danh sách những người Việt gốc Hoa xin đi bán chính thức, mỗi người phải đóng 8 lượng vàng (tức 8 cây), đó là một số tiền rất lớn. Sau 1975 vàng trị giá cao, một lượng có thể nuôi một nhà ba người trong một năm, chỉ những nhà giầu mới đi được, cũng có một số người Việt tham gia nhưng phải khai tên giả (tên Tầu).

Các tỉnh miền Nam Rạch giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng .. là nơi người Hoa đi nhiều, họ đóng nhiều tầu lớn đậu trên các sông để chở khách, tầu có thể chứa hàng trăm người. Vì số người ra đi quá đông, tầu đóng vội vã, gỗ không đủ bảo đảm nên nhiều tầu ra khơi bị lủng, bể chìm chết rất nhiều. Theo lời dân địa phương ở Bạc Liêu kể lại những năm 1977, 78, thời kỳ cho đi bán chính thức dân vượt biên chết như rạ. Thí dụ tại cửa Đại Ngãi, một chiếc tầu bị mắc cồn cát, khi nước lên khiến hàng trăm người chết, xác trôi vào đầy trong bờ, chỉ có một số ít sống sót. Những tầu này bị hải tặc Thái lan bị cướp bóc hãm hiếp dữ dội, hải tặc thích săn tầu vượt biên vì cướp được nhiều vàng.

Một thời gian sau, chính sách cho đi bán chính thức bị bãi bỏ, những tầu đóng sẵn vẫn còn nằm chình ình trên những con sông tại các thành phố Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ. Các tỉnh lấy vàng để tự túc nhưng phần nhiều vào túi cán bộ, đảng viên bất kể sinh mạng của người dân. Có người trước ở Rạch Giá cho biết Nguyễn Tấn Dũng hồi đó là cán bộ cấp lớn tại địa phương này là người đứng ra tổ chức việc cho đi bán chính thức để lấy vàng.

Tác giả nói tổng số nạn nhân lên tới 902 ngươi, có 9 tầu bị nạn tại Đồng Nai, Bến Tre, Sông Bé, Tiền Giang, Long an, Sài Gòn.. nhưng con số người chết trong đợt này cao hơn nhiều, chắc phải hàng mấy nghìn người hoặc hơn thế.

Chương 5. Chiến tranh. Trong trận chiến biên giới Việt Hoa (trang 170), tác giả nói bắt đầu sáng 17/2/79 Tầu đỏ tập trung 450 ngàn quân, chín quân đoàn chủ lực, xử dụng 200 ngàn quân trong ngày tấn công đầu tiên 17/2 . CSVN bị đánh bất ngờ. Không thấy nói lực lượng VN tham chiến là bao nhiêu sư đoàn, bao nhiêu người mà chỉ thấy nói một vài tiểu đoàn. Trận đánh kéo dài khoảng hai tuần lễ cho tới đâu tháng 3, Trung Cộng thiệt hại khoảng 25 ngàn, bị thương 37 ngàn, phí tổn 5,5 tỷ nhân dân tệ, bằng một phần tư ngân sách (22,3 tỷ). VN đánh thắng Trung Cộng với một lực lượng địa phương nhỏ hơn nhiều (không thấy nói ta thiệt hại bao nhiêu). Mấy năm trước tôi có được đọc một số bài của phía Trung Cộng viết, họ nói phía VN bị thiệt hại nặng, xác chết đầy cả ra trên chiến địa trong cuộc chiến này.

Tác giả mô tả trận chiến không mạch lạc và khó hiểu. CSVN với một lực lượng nhỏ có thể đánh bại một đạo quân quá đông lại tinh nhuệ nhưng đánh bại như thê nào? Một trận đánh có hai tuần lễ mà Trung cộng phải tốn một phần tư ngân sách thì thật quá đáng. Tác giả nói VN bị bất ngờ, nhưng tôi nhớ năm 1978, 79 báo Sài Gòn Giải phóng hàng ngày đều đã loan tin Trung quốc tăng cường khiêu khích biên giới như thế không thể nói là không biết trước.

Trong tất cả các cuộc chiến tranh với Thực dân, Mỹ Ngụy, Trung Cộng, trận nào “Cách mạng” cũng thắng lớn cả, từ Mậu Thân, Hạ Lào, Mùa hè đỏ lửa, trận Điện biên phủ trên không Giáng sinh 1972 … cứ thấy toàn là thắng lợi cả. Thắng trận chẳng hay ho gì, thắng trận mà khiến miền Bắc tan tành, miền Nam tiêu điều, hàng triệu thanh niên miền Bắc mất mạng. Từ ngày CSVN cướp chính quyền 1945 đến 1992 không lúc nào là ngớt chiến tranh, hết chống Thực dân, Đế quốc cuối cùng là cuộc chiến giữa các chế độ CS, nó đã khiến người dân chán ngấy đến tận cổ.

Chương 6 Vượt biên. Xin bổ túc thêm với tác giả vì tôi là người trong cuộc. Sau 1975 miền Bắc thất vọng vì thấy miền nam quá văn minh sung túc so với họ, người miền nam thì tuyệt vọng, không thấy một tia ánh sáng nào. Làm công nhân viên lương chết đói không đủ sống nhưng để khỏi phải đi kinh tế mới. Năm 1980, chúng tôi ở tù về gặp họ hàng, bạn bè chỉ thấy toàn là chuyện thúi ruột, một cô em họ nói: đi thì may ra còn sống được, ở lại rồi cũng chết đói. Một bà mẹ có con vượt biên bị giam mấy năm nay than: Sống thế này thì cũng như chết rồi.

Sở dĩ tôi nói miền nam tuyệt vọng vì không còn đường sống, hoặc chỉ trông vào tiền, quà ở ngoại quốc gửi về hay bán đồ đạc, quí kim ăn dần. Buốn bán thường lỗ vốn, bán một, hai lượng vàng để mở quán, sập ngoài chợ nhưng khi thu lại không mua nổi số vàng đã bán ra vì vàng lên giá nhanh, bởi vậy chẳng thà để vàng bán ăn dần hơn là làm vốn kinh doanh.

Những gia đình liên hệ chính trị, ngụy quân, ngụy quyền bị kỳ thị, con cái rất khó xin việc hoặc vào các trường cao đẳng. Những gia đình liên hệ chế độ cũ bị trả thù, theo dõi nhất là tại các tỉnh địa phương. Những người tìm đường đi vừa vì kinh tế và vì cả chính trị, vả lại người dân đã quen sống tự do, không thích hợp với môi trường của chế độ độc tài. Làm ăn đã khó lại hay bị địa phương nhũng nhiễu, làm tiền. Hối lộ tràn lan, cái gì cũng phải mất tiền.

Tuy nhiên đi vượt biên không phải là chuyện dễ mà vô cùng gian nan, trầy da tróc vẩy. Trước hết phải có vàng , có tiền, chỉ những nhà khá giả giầu có mới đủ điều kiện đi vượt biên, tiền đóng cho tổ chức rẻ nhất một lượng vàng (cây), một số tiền rất lớn. Những chỗ rẻ không bảo đảm, hay bị lừa, thường những chỗ ba hay bốn cây bảo đảm hơn. Có nhiều người xuống vùng ven biển đóng ghe tự tổ chức lấy, có tổ chức mua bãi tức lo lót cho công an địa phương tốn kém hơn nhưng khi lên ghe, tầu dễ hơn, những tổ chức nghèo phải trốn tránh khó khăn.

Công an vừa ăn tiền của tổ chức lại hay gửi người của họ xuống tầu. Chỉ có một số rất ít những người đi một lần đầu thoát ngay, thường là năm ba lần trở lên, có người đi mười lần, mười lăm lần, thậm chí hai mươi lần mới thoát. Có người đi hàng chục lần không thoát, tan gia bại sản vì vượt biên, nhà bị chính quyền tịch thu, lang thang đâu đường xó chợ. Có trường hơp ra khơi bị bắt, bị gió bảo dạt vào bờ. Có nhiều trường hợp bị lừa, lường gạt quá nhiều, tới 70%, cuộc sống gian khổ người ta lại đạp lên đầu nhau mà sống. Số người chết do Liên hiệp quốc ước lượng khoảng từ một trăm ngàn tới vài trăm ngàn nhưng không hoàn toàn chính xác. Nhiều tầu bị gặp bão, hoặc bị hải tặc cướp rồi đâm chìm tầu để phi tang, có khi bị chính quyền các nước kéo ra khơi dã man. Trong số các nước láng giềng thì Thái Lan và Mã lai đối xử với thuyền nhân tồi tệ dã man nhất, Phi luật Tân, Nam Dương nhân đạo hơn.

Ngoài ra phải kể thêm những người chết trong bờ hay ngoài cửa biển vì lằn đạn của du kích, công an biên phòng. Giữa năm 1981, trong một lần vượt biên tại Bạc liêu, vào lúc khuya trời tối mù mịt, chúng tôi ngồi trên chiếc ghe nhỏ chờ tầu thì một chiếc tầu lớn thuộc tổ chức khác chạy ào ào ra cửa biển Đại ngãi. Khi ấy du kích mai phục trên bờ, hàng mấy chục tay súng bắn như mưa vào chiếc tầu gỗ. Sáng hôm sau, chúng tôi bị bắt được biết nhiều người bị bắn chết tối qua, một ghe chở đầy xác chết đi về huyện.

Một ông trưởng ấp tử tế cho chúng tôi biết đi vượt biên rất nguy hiểm, nếu xui gặp tầu công an biên phòng nó cướp vàng và còn bắn chìm tầu bằng đại liên 12 ly 7 để phi tang. Người mình đối với nhau còn dã man như vậy thì còn trách gì Thái Lan, Mã Lai. Nhiều tầu gặp tầu các nước ở hải phận quốc tế nhưng không được vớt vì họ tránh trách nhiệm.

Vượt biên khởi đầu từ 1977, 78 những năm79, 80.. 81, 82 là thời kỳ cao điểm, số người vượt biên bị bắt giam trên toàn quốc có tới hàng mấy chục ngàn, có trại chỉ giam năm bẩy tháng, có trại giam mấy năm như các trại ngoài trung. Trưởng trại ăn hối lộ công khai, ai lo tiền, vàng được về ngay trước mặt mọi người. Các trại vượt biên đa số trấn lột thuyền nhân bị bắt, cướp vàng bạc, tư trang, có khi đánh đập họ tàn nhẫn. Các tỉnh miền nam có vượt biên nhiều nhất là Rạch giá, Cà Mâu, Sóc Trăng, Bặc Liệu.. họ đi sang phía Thái Lan , Nam Dương. Ngoài trung Nha Trang, Đà Nẵng thường sang Phi luật Tân hay Hồng Kông. Thuyền nhân vừa là nạn nhân của hải tặc, chính quyền Thái Lan, Mã Lai và của cả công an, chính quyền địa phương CSVN.

Sau khi CSVN chiếm Cam bốt, có nhiều tổ chức dẫn người đi bằng đường bộ qua biên giới Thái Lan. Những tổ chức này của bộ đội, giá cả tương đương đường biển nhưng có phần gian nguy ghê sợ hơn nhiều. Qua biên giới Thái Miên gặp bộ đội CSVN cũng chết, mà gặp lính Miên lính Thái cũng nguy, số người thoát cũng có, bị bắn chết, cướp bóc hãm hiếp cũng nhiều, con đường đi vượt biên chẳng qua chỉ là địa ngục.

Sau ngày 30/4/1975 người ta tưởng hòa bình rồi, sẽ không còn cảnh chết chóc nhưng ai dè đâu, mấy năm sau biết bao gia đình mất người, mất của tại biển đông. Chính quyền CSVN dửng dưng trước cảnh đồng bào chết chìm, chết bắn giữa biển cả mênh mông, họ mong cho nhân dân chết bớt đi cho đỡ phải nuôi hàng triệu miệng ăn.

Chương 8 Thống nhất. Trang 244 tác giả nói ngày 20/12/1960 Đảng thành lập Mặt trận giải phóng miền nam.

“Ảnh hưởng của Mặt trận có vẻ như tăng hơn khi lôi kéo được nhiều trí thức có uy tín bỏ Sài Gòn ra chiến khu”

Hoàn toàn sai, số người theo Mặt trận chỉ có một số rât ít gồm những người bất mãn, những người có thân nhân VC móc nối, ngoài ra những người trong bưng thì hầu hết theo vì sợ, vì áp lực. Từ 1945 đến nay, những người theo CS phải nói 90% là vì sợ, sợ bị cho đi mò tôm.

Trang 250 tác giả nói Hội nghi hiệp thương thống nhất hai miền được tổ chức từ 15 đến 21/11/75 tại dinh Độc Lập, trưởng đoàn CSBV là Trường Chinh, trưởng đoàn miền nam Phạm Hùng, ông này ủy viên trung ương đảng cũng là CSBV. Đúng12 giờ ngày 21/11/75 hội nghị kêt thúc, hai miền là một

“Cuộc lánh nạn của của những người di cư, vì thế, chỉ có giá trị hai mươi năm. Những gì mà họ lo sợ bỏ chạy hồi năm 1954, sau ngày 30/4 lại ở ngay trước mặt”

Câu này thì tác giả nói đúng quá, năm 1954 dân Bắc Kỳ di cư chạy trốn “Bác và đảng” nay lại gặp thấy “Bác và đảng”, rầu thúi ruột thúi gan.

Đảng đưa 300 ngàn quân chính qui nuốt trọn miền Nam rồi dựng lên cái chính phủ bù nhìn Cộng Hòa miền nam VN. Sau đó hiệp thương thống nhất hai miền theo lời Bác, diễu hết chỗ nói, trò hề rẻ tiền nhất thế giới.

Trên thế giới sau thế chiến thứ hai có hai nước bị chia đôi là Đức và Triều tiên, năm 1954 Việt Nam cũng bị chia đôi. Năm 1990 Đông Đức sáp nhập vào Tây Đức, thống nhất trong hòa bình. Hơn mười năm sau, tôi có đọc một bài báo viết về thống nhất nước Đức, nó cho thấy trên thực tế vẫn là hai nước, một bên văn minh, một bên vẫn lạc hậu. Người Tây Đức than thở phải gánh cái của nợ Đông Đức, đúng là cái của nợ, họ than nó vừa ngu vừa lười, đủ thứ thói hư tật xấu, thế mà trước đây thế giới đỏ khen lấy khen để Đông Đức văn minh nhất.

Nay Nam Hàn không muốn thống nhất với Bắc Hàn dù là trong hòa bình vì họ trông cái gương nước Đức, người Nam Hàn không muốn sống chung với anh nghèo đói miền Bắc vì họ sẽ phải nai lưng nuôi cái của nợ này. Miền nam VN trước 1975 có mức sống cao hơn miền Bắc cũng không muốn thống nhất với miền Bắc dù là trong hòa bình y như thực trạng của Nam Hàn với Bắc Hàn bây giờ, huống hồ là thống nhất trong sự áp bức của miền Bắc.

Chương 10. Đổi mới, sự thực nói là đổi mới cho đỡ nhục, đỡ xấu hổ, đổi mới nói trắng ra là bỏ xã hội chủ nghĩa theo tư bản chủ nghĩa. Làm đổ bao nhiêu xương máu của cả hai miên Nam Bắc để tiến lên xã hội chủ nghĩa, nay thấy xã hội chủ nghĩa sai và chuyển sang tư bản thì biết ăn nói sao với nhân dân bây giờ.

Từ trang 339 tới trang 353 tác giả nói ông Trường Chinh là người đầu tiên khởi xướng đổi mới kinh tế, tháng 11/1986 ông đại diện cho đảng sang Moscow trình diện ông anh cả Gorbachev để xin cho VN đổi mới và được chấp thuận. Gorbachev còn khen VN đi xa hơn Nga trong tinh thần này.

Ngày 15/12/1986 trong kỳ Đại hội 6 này ba ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ xin rút tên không ra ứng cử, trên TV ông Trường Chinh tuyên bố cho cả nước biết ông và Phạm văn Đồng, Lê Đức Thọ xin rút tên ra ứng cử chức Tổng bí thư. Ngày 15/12/1986 Nguyễn văn Linh được bầu làm Tổng bí Thư gọi là TBT đổi mới.

Như đã nói trên, năm 1989 tôi có được tiếp xúc với một ông cán bộ, giám đốc về hưu cho biết năm 1986, Gorbachev cử người sang Hà nội làm đảo chính “nhưng không cho đổ máu”, hư thực không rõ nhưng người dân đều nghĩ Liên Sô buộc CSVN phải đổi mới. Chuyện đổi mới hay nói khác đi là theo kinh tế tư bản là chuyện tất nhiên, muốn chết đói thi cứ tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa.

Kết luận

Nhìn chung tác giả có khuynh hướng đánh giá thấp kinh tế xã hội chủ nghĩa, Bên Thắng Cuộc nghiêng về kinh tế hơn là chính trị. Cuốn sách hiện được phổ biến ở hải ngoại nhưng không được phổ biến tại VN, nhiều người trong nước muốn được đọc nhất là thế hệ trẻ, đối với hải ngoại thì cũng không lấy gì làm lạ cho lắm. Theo ý kiến của một số người trong nước, cuốn sách cho thấy sự sai lầm của giới lãnh đạo CS sau ngày 30/4, họ đã bỏ lỡ cơ hội áp dụng kinh tế thị trường để cứu vãn tình hình suy sụp của đất nước.

Trước thế chiến thứ hai chỉ có một mình nước Nga theo Cộng sản từ 1917 tới 1945, Staline chủ trương chỉ áp dụng xã hội chủ nghĩa tại Nga trước đã, trái với Trosky, đối thủ Staline chủ trương tiến lên vô sản toàn thế giới. Trosky trốn sang Mễ Tây Cơ bị Staline cho người theo giết năm 1940. Năm 1945 Sô viết đánh Đức quốc xã rồi tràn qua Đông Âu lập nên một lô các nước CS tại đây. Bên Á châu, Sô viết đánh Nhật chiếm Mãn châu, Mông Cổ, Bắc Hàn dựng thêm vài nước CS và giúp Mao nhuộm đỏ Trung hoa. Tính tới 1975 trên thế giới có 17 nước xã hội chủ nghĩa nhưng nay rơi, rớt, rụng dần chỉ còn vài nước đếm trên đầu ngón tay. Nếu không có Thế chiến thứ hai thì chỉ có một mình nước Nga theo CS và bây giờ chế độ CS đã bị xoá tên

Từ đổi mới năm 1986 dẫn tới một cuộc cách mạng lớn tại Đông Âu đầu thập niên 90, trái ngược với cuộc cách mạng vô sản “nong trời nở đất” 1917. Các nước CS Đông Âu, Liên xô lần lượt bỏ chế độ Cộng sản trở lại chế độ tư bản của họ trước đây từ những năm 1945, 1917.

Nay le que còn sót vài nước CS đang ráng sức quay ngược bánh xe lịch sử được tí nào hay tí nấy

Ngạn ngữ ca dao bình dân thường nói:
“Khôn tới mấy cũng không ai khôn hơn được ông Trời”

Viết xong đêm giao thừa 2012
Chúc Mừng Năm Mới

© Trọng Đạt

© Đàn Chim Việt

95 Phản hồi cho “Bàn về cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức”

  1. Trong Dat says:

    Trả lời Lã mạnh Cường
    Ông nói
     “Trang 350 Đại hội 6 Trung ương Đảng CSVN tháng 12/1986 ba ông Lê đức Thọ, Phạm văn Đồng, Trường Chinh xin rút tên không ra ứng cử kỳ này, tác giả chỉ nói sơ xài mà tránh né những chi tiết cần nói.” (nguyên văn)
    Tác gải sách Bên Thắng Cuộc là Huy Đức nói sai, nhưng tác giả bài điểm sách là Trọng Đạt cũng không vạch được cái sai ra sao ?
    Riêng tôi rất ngạc nhiên, bởi làm gì có chuyện Lê Duẫn xin rút tên kô ra ứng cử trong bất kỳ đại hội đảng nào !”

    Ông có kỹ lại tôi không hề nói Lê Duẫn rút tên, LD chết từ 7/1986
    Tôi không nói là tác giả HĐ nói sai, ông HĐ nói ba ông T Chinh PV Đồng, LD Thọ.. xin rút lui mà không nói đến việc ông Gorbachov áp lực ba người phải rút lui vì tác giả tránh né. Một ông giám đốc (cán bộ) về hưu có nói với tôi 1989 rằng Gorbachov ép các ông già như T Chinh, PV Đồng LĐThọ rút lui, tôi tin ông giám này nói có lý hơn

    Trích bài của tôi dưới đây

    Tuy nói là chỉ kể lại diễn tiến nhưng tôi thấy ông không nói hết sự thật, hoặc không thể nói được vì còn đang ở trong nước. Trang 350 Đại hội 6 Trung ương Đảng CSVN tháng 12/1986 ba ông Lê đức Thọ, Phạm văn Đồng, Trường Chinh xin rút tên không ra ứng cử kỳ này, tác giả chỉ nói sơ xài mà tránh né những chi tiết cần nói. Hơn một năm trước đó ông Gorbachev lên làm Tổng bí thư CS Liên xô từ 11/3/85 đã thực hiện đổi mới, chẳng lẽ đảng CSVN đổi mới mà không liên hệ gì tới biến cố lớn lao này của Nga hay sao?
    Khoảng hai năm sau khi VN đổi mới (1988, 89), tôi làm nhân viên văn phòng cho một công ty tư doanh nhỏ, họ tuyển chuyên gia, một ông giám đốc đã về hưu đến nạp đơn. Hôm ấy ông cán bộ này có ngồi lại tâm sự với tôi về đổi mới và cho biết lý thuyết kinh tế Marx nay không còn hợp thời. Liên xô đã đổi mới, ông Gorbachev cử một ủy viên sang VN làm đảo chính nhưng “không cho đổ máu”(nguyên văn). Hẳn ai cũng biết nếu không có bàn tay lông lá của ông anh cả Liên xô thì Trường Chinh, Lê đức Thọ, Phạm văn Đồng dễ gì mà từ bỏ quyền lực như vậy.
    (ngung trich)

    Từ trang 339 tới trang 353 tác giả nói ông Trường Chinh là người đầu tiên khởi xướng đổi mới kinh tế, tháng 11/1986 ông đại diện cho đảng sang Moscow trình diện ông anh cả Gorbachev để xin cho VN đổi mới và được chấp thuận. Gorbachev còn khen VN đi xa hơn Nga trong tinh thần này.
    Ngày 15/12/1986 trong kỳ Đại hội 6 này ba ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ xin rút tên không ra ứng cử, trên TV ông Trường Chinh tuyên bố cho cả nước biết ông và Phạm văn Đồng, Lê Đức Thọ xin rút tên ra ứng cử chức Tổng bí thư. Ngày 15/12/1986 Nguyễn văn Linh được bầu làm Tổng bí Thư gọi là TBT đổi mới.
    Như đã nói trên, năm 1989 tôi có được tiếp xúc với một ông cán bộ, giám đốc về hưu cho biết năm 1986, Gorbachev cử người sang Hà nội làm đảo chính “nhưng không cho đổ máu”, hư thực không rõ nhưng người dân đều nghĩ Liên Sô buộc CSVN phải đổi mới. Chuyện đổi mới hay nói khác đi là theo kinh tế tư bản là chuyện tất nhiên, muốn chết đói thi cứ tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa.
    TD

    • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

      Thanks a lot Trọng Đạt

      Xin để độc giả phán xét .

      Thân ái,
      LMC

      • Trung Kiên says:

        Xin để độc giả phán xét?

        Lão Ngoan (LẠI MẠNH CƯỜNG) đã chữa lợn lành ra lợn què mất rồi!!!

        Lão Ngoan viết:…”Tác gải sách Bên Thắng Cuộc là Huy Đức nói sai, nhưng tác giả bài điểm sách là Trọng Đạt cũng không vạch được cái sai ra sao ?”…

        Vì không nắm vững sự kiện, nên TK tôi không biết tác giả HĐ viết sai chỗ nào, Lão Ngoan cũng không chỉ ra được điểm sai đó, mà lại “phê phán” t/g Trọng Đạt là không vạch ra cái sai (?)…, thế là thế nào???

        Đã vậy, lại chêm vào;…”Riêng tôi rất ngạc nhiên, bởi làm gì có chuyện Lê Duẫn xin rút tên kô ra ứng cử trong bất kỳ đại hội đảng nào

        Lão Ngoan ngạc nhiên cũng phải, vì cả HĐ lẫn Trọng Đạt, đâu có ai nói là “Lê Duẫn xin rút tên kô ra ứng cử”…!!!

        Cùng một sự việc nhưng có tài liệu viết thế này, kẻ viết thế nọ, biết ai đúng, ai sai mà dám phê bình chỉ trích, chỉ khi mình là người trong cuộc, mắt thấy tai nghe (trực tiếp) thì mới nên khẳng định!

        Hãy đọc bài Phạm Tuân hay Xuân Thiều hạ B52 Mỹ đầu tiên? …thì sẽ rõ!

        Mong rằng lời thật không mất lòng…

  2. Trong Dat says:

    Trả lời Lại Mạnh Cường
    Ông làm ơn đọc trang 341 trong BênThắng Cuộc (trên internet)
    Trang 341 trong BTC nói Lê Duẫn chết ngày 10/7/1986, Trường Chinh được bầu lên thay 14/7/1986
    Trang 350 trong BTC nói Đại Hội đảng 12/1986 ba ông Trường Chinh, Lê đức Thọ, Phạm van Đồng xin rút tên không ra ứng cử chức Tổng bí thư, tôi nhớ hôm đó trên TV ông Trường chinh ho sù sụ và tuyên bố “Tôi và hai đồng chí Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ xin rút lui”…kỳ này Ng van Linh được bầu, được gọi là TBT đổi mới
    Tôi muốn nói không phải ba ông nay` tự ý xin rút lui mà vì có áp lực của ông Gorbachov, theo lời một ông cán bộ (giám đốc hồi hưu) nói với tôi như vậy.
    Ông đọc kỹ phần bài tôi viết về chuyện này và làm ơn đọc Bên Thắng Cuộc về điểm này (trang 341, 350), xin đừng đưa Wikipedia vào vì chỉ thêm phức tạp, rất khó hiểu
    Cám ơn

    • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

      Dear Trọng Đạt,

      Xin cám ơn phản hồi cùng một số chi tiết thật hay (về Trường Chinh hồi đó)

      Tôi nghĩ dù có áp lực của Gorbachov đi nữa cũng không ăn thua gì đâu !
      CSVN vốn dĩ rất bảo thủ và ta thấy rõ căn bản vẫn đi theo đường hướng của Tàu cộng !

      Hồi tưởng quá khứ, ta thấy rõ hơn nhé:

      1/
      Thời kháng chiến đánh Tây, chịu sự chi phối toàn bộ theo Tàu, từ trong tư tưởng là chính trị (bởi lý thuyết gia của đảng CS lúc đó là tổng bí thư Trường Chinh ), sang đến tổ chức bộ máy hành chính, cũng như áp dụng thật nhuẫn nhuyễn những lối đánh trận theo Tàu cộng (du kích chiến, trì cửu chiến, tiền pháo hậu sung, lấy nông thôn bao vây thành thị …).

      [Xin mở ngoặc đơn nói thêm về Trường Chinh, một lý thuyết gia gạo cội của CSVN , cho nên tử đệ của TC nhiều vô kể, và ở mọi cấp, cho nên cánh Lê Duẫn và Lê Đức Thọ không ám hại nổi ông ta, mặc dù chúng đã chơi sát ván các đối thủ nặng ký khác, điển hình là Võ Nguyên Giáp. Trường Chinh là nhân vật duy nhất, dù đã bị hạ bệ từ lâu, nhưng lúc cuối đời đã trở lại vai tổng bí thư trong một thời gian ngắn để chuyển quyền, khi Duẫn và Thọ ko còn tại vị nữa. TC đúng là "ANH CẢ ĐỎ" của đảng CSVN. Trong đảng CSVN, theo tôi uy tín ông ta có lẽ còn hơn cả họ Hồ, bởi chả thấy mấy ai kể xấu về ông ta cả. Đó là một tay sắt máu nhất, cương quyết áp dụng cải cách ruộng đất theo Tàu, cũng như là kẻ chống lại các canh cải lại về chế độ nộng nghiệp, chẳng hạn khoán sản phẩm mà bí thư Vĩnh Phú là Kim Ngọc đề ra; cũng như cho áp dụng trở lại khoán sản phẩm vào thời kỳ khốn đốn nhất là những năm sau 1975 bởi tệ nạn "ngăn sông cấm chợ" ...]

      2/
      Sắp thành công qua trận Điện Biên Phủ là gấp gáp cho áp dụng trò “RÈN CÁN CHỈNH CƠ” (thường bị viết sai thành “rèn quân chỉnh cán”) để loại những thành phần “tạch tạch sè” trong bộ máy nhà nước kháng chiến, cũng như bày trò đại hội văn nghệ sĩ trong chiến khu Việt Bắc, mà vợ chồng Phạm Duy đã trèo đèo lăn suối cố về tham dự, để rồi ngay sau đó đã sợ toé phở, bàn nhau cả đai gia đình họ Phạm dinh tê, tức bỏ chạy luôn về thành (do thấy đấu tố tư tưởng tạch tạch sè dữ quá), cũng như cho phát động ngay trò cải cách ruộng đất ở một số nơi họ đã kiểm soát kỹ !

      Chính cụ Hoàng Văn Chí trong tác phẩm “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” cho hay, Rèn Cán Chỉnh Cơ nên được xem như là một bộ phận không thể thiếu được trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất! Ai cũng rõ quân đội lúc đó là lực lượng quân sự nòng cốt để bảo vệ thành quả của đảng và nhà nước kháng chíên Việt Minh (lực lượng công an còn quá sơ sài, nên phía quân đội nắm hết). Cho nên phải thanh lọc kỹ hàng ngũ quân đội kháng chiến, hay nói rõ hơn phải buộc những phần tử “trí thức tiểu tư sản” (chiếm đa phần trong hàng ngũ quân đội và hành chánh kháng chiến) phải ĐẦU HÀNG GIAI CẤP VÔ SẢN ! Có thế mới dám cho phát động đấu tố ở nông thôn khi cho ban hành quốc sách CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT long trời lở đất ! Nếu lòng quân, nhất là cán bộ xôn xao không vững thì nguy cơ nội loạn sẽ rất lớn, và những thành quả đạt được trong thời kỳ chín năm kháng chiến chống Tây đổ hết xuống sông xuống biển !
      Cụ Chí kể lại đã có những sĩ quan không chịu đựng nổi trò chơi trên, hoặc là bỏ trốn về thành, hay là tự tử, còn đa phần, tay đã nhúng chàm vì theo phe Việt Minh, nên đã im thin thít. Theo cảm nhận riêng tôi thì thực ra họ đã bị thôi miên bởi hình ảnh ông Hồ cùng với các lãnh đạo kháng chiến Việt Minh trong thời theo kháng chiến, nên trở nên các chú cừu non trước bày dã thứ như sói, hổ, báo, sư tử …
      Chính bộ máy tuyên truyền cộng sản đã ra sức đánh bóng tô màu các lãnh tụ CS như thần như thánh, để tạo ra những huyền thoại chẳng những trong mặt trận Việt Minh, mà cả trong dân gian nữa. Tôi thấy thế hệ già như ông bà cha mẹ tôi, dù có ghét CS, vẫn coi trọng họ Hồ và thường gọi là cụ Hồ, chứ chả mấy ai gọi là thằng Hồ, cáo già Hồ v.v…
      Ta cứ xem hiện nay ai ai cũng rõ ông Hồ là chánh phạm, nhưng không ít người lại than vãn: Giá như còn bác Hồ thì đâu như thế này ! (chính tôi đã từng nghe ông Nguyên Ngọc than thở như rứa cách nay khoảng 10 năm, khi ông ghé chơi Amsterdam cùng với một anh trí thức thuộc nhóm Diễn Đàn Paris. Tôi và anh này đã nhao hao lên phản đối, kết tội ông Hồ; ông Nguyên Ngọc ngồi lặng im không rõ ổng nghĩ sao trong đầu nữa ! Nhưng khi về thăm VN lần đầu vào năm 2003 tôi liên lạc với ổng để xin địa chỉ ông Nguyễn Khải thì ổng từ chối không cho và cũng không gửi tặng sách như đã hứa ! Tôi đã được cô Hải Anh nhờ đưa ông ta đi chơi ở HL đó đây, và tỏ dấu thông cảm ông bằng những câu thơ của Xuân Sách tả về ổng, khiến ổng cảm động và có cảm tình ngay.)

      3/
      Cụ Chí còn giải thích thật kỹ hơn và cũng cho rằng SỬA SAI là một bộ phận không thể thiếu được trong Cải cách Ruộng đất. Bởi Mao đã nói : KHI MUỐN UỐN MỘT CHIẾC ĐŨA CONG TA PHẢI BÉ NÓ NHIỀU HƠN VỀ PHÍA NGƯỢC LẠI ! Coi như là Mao dặn hờ, đừng yếu tay, sợ gẫy đũa, nên bẻ sơ sơ, sẽ kô thành công
      Ý Mao bảo rằng, muốn cải cách cái xã hội nông nghiệp lạc hậu thời phong kiến theo cách thức nói trên của người CS, họ phải thi hành thật triệt để, nhằm phá tan hoang tất cả, nghĩa là phải nhỏ cỏ tận gốc rễ không nương tay, cho dù có động chạm thật nhiều đến cây cỏ hữu ích chung quanh đi nữa !

      Trên thực tế có những nơi không đủ tiêu chuẩn để qui kết là cường hào ác bá, địa chủ, phú nông … bởi xứ ta đất hẹp người đông như ở vùng đồng bằng sông Hồng (cụ thể như ở quê tôi là tỉnh Thái Bình chẳng hạn), thì đám cán bộ cải cách đã cho nâng đám trung nông và phú nông thành địa chủ, thậm chí cường hào ác bá, để có đủ túc số mà tố khổ cho đúng chỉ tiêu cấp trên đề ra !

      Nói tóm lại, biết là sai nhưng vẫn làm sai, để rồi sẽ … SỬA SAI !

      Nếu ta theo dõi cuộc phỏng vấn của phóng viên BBC là Xuân Hồng với bà vợ Lê Duẫn ta sẽ thấy bà này tiết lộ thật động trời mà tỉnh tuồng như kô, bởi họ cho thế là đúng. Đại khái là, đám lãnh đạo CS đã VỪA HỌC VỪA LÀM ! Có sai sót thì sửa lại !!!
      Bởi thế có lần tôi và ông Vũ Thư Hiên trong lúc chuyện phiếm khi mới quen nhau, đã cả cười mà cùng nhau đồng ca (trong lúc tôi chở ông và người bạn từ Amsterdam về lại Paris): SAI ĐÂU SỬA ĐÓ/ SAI ĐÓ SỬA ĐÂY/ CÀNG SỬA CÀNG SAI / CÀNG SAI CÀNG SỬA ….

      Kết, CS kết tôi chế độ củ có nhiều cái SAI (căn bản), nên họ có nhiệm vụ cao cả là SỬA lại. Rất đáng buồn là, họ CÀNG SỬA CÀNG SAI và làm sai bét ra khiến XUỐNG HỐ CẢ NƯỚC !

      (xin lỗi bận việc sẽ tiếp nối khi rảnh rỗi)

      • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

        Xin phép đính chính lại câu nói của Mao cho rõ nghĩa hơn:
        Khi muốn uốn một chĩa đũa cong THẲNG LẠI, ta phải bẻ nó nhiều hơn về phía ngược lại !

        4/
        Theo Tàu ngấm ngầm chống lại chủ nghĩa xét lai do Liên Xô thời Cút-Xếp đưa ra trong Đại hội đảng CS Liên Xô lần thứ 20 vào năm 1956 với hai điểm chính yếu: một là, chống bệnh sùng bái cá nhân; hai là, sống chung hòa bình với tư bản !

        Lý do đơn giản là Cút-Xếp muốn hạ bệ Stalin (đang được coi như một vị anh hùng lãnh đạo LX trong thế chiến hai mà họ gọi là cuộc chiến tranh vệ quốc vi đại), để tiêu diệt hết phe đảng của Stalin còn sót lại, nhằm tạo uy thế cho mình. Trong khi Mao và Hồ lại đang muốn được thần thánh hóa thêm nữa để trở thành cha già dân tộc. Cũng như sẽ tiếp tục lãnh đao cuộc xâm lăng bằng vũ lực (Taiwan và miền Nam VN) để thống nhất đất nước !

        Từ đó mới nổ ra những vụ án tù mù gọi là xét lại chống đảng trong đảng CSVN vào thập niên 60, do đám Lê Duẫn và Lê Đức Thọ dàn dựng để thanh toán nhau !
        Vũ Thư Hiên đã cất công vạch trần trong tác phẩm đồ sộ để đời ĐÊM GIỮA BAN NGÀY ở Âu Châu; cũng như trước đó vài năm, Trần Thư ra cho ra mắt TỬ TỪ TỰ XỬ LÝ NỘI BỘ ở Mỹ…

        Theo tin đưa trên internet hồi năm 2006:
        “Trần Thư, một trong những nạn nhân chính của vụ án gọi là “xét lại chống đảng” liên quan đến nhiều nhân vật chính yếu của chế độ CSVN xẩy ra vào hồi thập niên 1960, đã từ trần tại Hà Nội hồi 10 giờ 40 sáng ngày 29-4- 2006.

        Ông tham gia vào đảng cộng sản Việt Nam vào khoảng đầu thập niên 1940, chiến đấu tại Hà Nội trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau khi CSVN chiếm dóng miền Bắc, ông phục vụ cho tờ Quân Đội Nhân Dân, và sau đó trở thành thư ký toà soạn của tờ báo này. Trong vụ ruồng bố những người bị coi là “xét lại chống đảng”, ông bị tước hết mọi chức vụ, và bị giam giữ nhiều năm. Ông đã tường thuật những sự việc này trong tác phẩm “Tử tù tự xử lý” phát hành năm 1996 tại hải ngoại.

        Hiện linh cữu ông được quàn tại nhà tang lễ Phùng Hưng, Hà Nội.”

        LMC ghi chú:

        Tưa đề tác phẩm trên là một tranh cãi, bởi do nhà xuất bản ở Mỹ thêm chữ vào cho thêm phần hâp dẫn. nhưng rất tiếc lại khiến cho độc giả cứ tưởng rằng sẽ được đọc một truyện về xã hội đen (mafia), kiểu như của nhà văn Mỹ Mario Puzo !

        Tên thực là TỬ TÙ XỬ LÝ NỘI BỘ, nghĩa là những nạn nhân trong đảng CS bị kết án tử hình mà không được đưa ra tòa xét xử, bởi đó là một vụ thanh lý nội bộ !

        5/
        Còn rất nhiều vụ khác nữa, nhưng xin đi qua ngay đến thời gọi là ĐỔI MỚI nhé.

        Gorbachev cho tiến hành ĐỔI MỚI với hai điểm chính yếu : PERESTROIKA, tức tái cấu trúc và GLASNOT, tức minh bạch hoá !

        wikipedia:
        * Perestroika (Russian: перестро́йка) was a political movement for reformation within the Communist Party of the Soviet Union during the 1980s (1986), widely associated with Soviet leader Mikhail Gorbachev and his glasnost (meaning “openness”) policy reform. The literal meaning of perestroika is “restructuring”, referring to the restructuring of the Soviet political and economic system.

        * Perestrojka (Russisch: перестройка; “herstructurering”, letterlijk “verbouwing”; uitspraak: pʲɪrʲɪˈstrojkə) is de term voor de hervormingspolitiek van Gorbatsjov, die plaatsvond tijdens het twaalfde vijfjarenplan van de Sovjet-Unie. Gorbatsjov (de eerste in generatie leiders van de USSR zonder de terreur van Stalin) hoopte in 1985 de vastlopende Sovjet-Unie weer op gang te kunnen krijgen door Glasnost (openheid) en Perestrojka (staatkundige en economische hervormingen).

        Het werd door Gorbatsjov beschreven in zijn boek Perestrojka (Oorspronkelijke titel: Перестройка и новое мышление (perestrojke i novoi mysjlenii) – “Over de herstructurering en het nieuwe denken”) uit 1987. Het perestrojka-concept koppelde Gorbatsjov aan het concept glasnost (openheid). De glasnost en perestrojka konden het ineenstorten van het communisme in de Sovjet-Unie echter niet voorkomen.

        Gorbachev đã đi công du qua Bắc Kinh để cổ võ tuyên truyền, tạo nên nhiều hứng khới cho đám sinh viên biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn, cũng như trong nội bộ của Cộng đảng Tàu (phe cấp tiến muốn đổi mới là Triệu Tử Dương), nhưng rồi kết quả trở thành một vụ thảm sát kinh hoàng, cũng như Triệu Tử Dương thân bại danh liệt bởi đám bảo thủ, trong đó có cả vị đại lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, được xem là tổng công trình sư mọi canh tân ở Tàu cộng thời hậu Mao.

        Wikipedia:
        Tháng 4 năm 1989, khi Hồ Diệu Bang qua đời, dân chúng Trung Quốc đã nhân tang lễ ông, tổ chức nhiều vụ xuống đường biểu tình. Chính thức là để tỏ lòng thương tiếc một người thuộc xu hướng cải cách, song các cuộc biểu tình này thực ra là để phản đối lạm phát và nạn tham nhũng. Vào thời điểm ấy, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô là Mikhail Gorbachyov đến thăm Bắc Kinh sau nhiều năm gián đoạn quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc.

        Đây là biến cố quốc tế nên đông đảo truyền thông thế giới có mặt để tường thuật. Các cuộc biểu tình kéo dài khiến lãnh đạo Bắc Kinh lúng túng. Vì muốn thách thức Gorbachyov tiến hành cải cách nên họ không dám ngăn chặn biểu tình, trong khi nhiều đảng viên cao cấp lại tỏ vẻ ủng hộ, thậm chí yểm trợ dân biểu tình.

        Đến khi sự việc xảy ra quá tầm kiểm soát của chính quyền thì họ chỉ còn giải pháp là “tắt đèn nổ súng”. Triệu Tử Dương muốn can cả hai, chính quyền và dân biểu tình, mà không nổi. Ông xuất hiện lần cuối, giữa đám biểu tình vào ngày 19 tháng 5 năm 1989, với nước mắt lưng tròng và tay cầm loa để nói là mình đến quá trễ.

        Hơn 10 ngày sau, quân đội tiến vào thủ đô Bắc Kinh, yêu cầu báo chí rút lui và rạng ngày 4 tháng 6, đám biểu tình bị giải tán, hàng ngàn người bị tàn sát ngay tại Quảng trường Thiên An Môn. Con số chính thức là bao nhiêu thì Bắc Kinh không nói và không ai biết được. Con số bán chính thức từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là 2.600 người.
        [hết dẫn]

        Ở thiên triều thì thế còn ở ta thì sao ?

        Cũng bày trò đổi mới từ năm 1986 với tổng bí “Vẫn Như Cũ” đăng đàn kêu gào: ĐỒI MỚI HAY LÀ CHẾT !
        Nhà thơ Nguyễn Duy đã nhận xét dí dỏm nhưng rất thâm: Cánh cửa đổi mới mới mở ra được vài năm thì sập lại làm cho nhiều người bị kẹp tay đau điếng !
        Trong số đó phải kề có những văn nghệ sĩ đi hàng đầu trong cái phong trào mà hải ngoại đặt tên cho nó là PHẢN TÌNH – PHẢN KHÁNG, chẳng hạn như Nguyên Ngọc, đại tá nhà văn Nguyễn Minh Châu … Chính nhờ vậy mà hiện tượng văn chương Nguyễn Huy Thiệp nở sáng trong nước qua những truyện mang tính dã sử có pha lần chút yêu ma qủi quái, nhưng hay nhất vẫn là Tướng Về Hưu; hay Phùng Gia Lộc với truyện ngắn “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, tả lại thời đấu tố trong CCRĐ … ! Trong âm nhạc có ca nhạc sĩ Trần Tiến với những bài hát rất mô-đẹc để châm chọc chế độ, such as Rock Đồng Hồ, Rock Trắng Đen … nhà thơ Nguyễn Duy với những bài thơ chính sự dài thòng nổi tiếng như Nhìn Từ Xa Tổ Quốc, Đánh Thức Tiềm Lực, Kim Mộc Thủy Hoả Thổ…
        Phong trào trên chỉ kéo dài đến cuối thập niên 80 là trở lại như xưa, cho mãi đến giữa thập niên 90 mới nhúc nhích !

        6/
        Phải thẳng thắn mà kết luận rằng, đổi mới ở ta theo kiểu của Tàu (Chinese version). Nghĩa là cứ dóng hướng theo thiên triều Bắc Kinh mà thôi.
        Đó là cái trò treo đầu dê bán thịt chó “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” như ai ai cũng rõ.

        Sau đó ít lâu lại theo đuôi Tàu trong thời Giang Trạch Dân với thuyết Ba Đại Diện, trước hết cho phép đảng viên làm giầu (thực chất là để hợp thức hóa những gì mà chúng đã chiếm đoạt được), kế đến cho những doanh nhân vào trong guồng máy đảng và nhà nước CS (bởi giờ đây bọn đảng viên đều là những ông nọ bà kia, tai to mặt lớn trong xã hội, bằng cấp dán đầy người, đâu còn là những kẻ khố rách áo ôm như xưa).
        Bọn này đã hình thành một giai cấp mới mà dân gọi là Mafia Đỏ, tập hợp và liên mình với nhau thành các NHÓM LỢI ÍCH độc quyền khai thác về mọi mặt, từ tài nguyên thiên nhiên, kỹ nghệ cho đến trong lãnh vực kinh tế tài chính …

        Kết luận,
        CS TA LÀ MỘT BẢN SAO (Blueprint) CỦA CS TÀU !
        Cho nên phải nói rõ rằng, Liên Xô hay Nga chả có ảnh hưởng mấy với CS Ta !

        Ghi chú:
        Tôi còn muốn nói thêm là một bản sao mờ nhạt (fade blueprint), bởi dù gì bọn Tàu cộng cũng đạt được một số thành tích đáng kể về nhiều mặt, như thể dục thể thao, khoa học không gian, quân sự (như vũ khí tối tân loại high tech, như tàu bè, máy bay, tàu hỏa , ngành xây dựng tiến vượt bực …)

  3. VietAmer says:

    Bây giờ mà còn thắng cuộc thua cuộc gì nữa? 5 năm đầu giải phóng thì còn mơ hồ, gần 40 năm sau rồi còn gì nữa mà thua thắng!

    Tôi xin hỏi ông HĐ nhé, ai hiện nay thắng cuộc trên đất nước VN hiện tại, VC? Dân VN? hay Tàu cộng? Ai đang thua cuộc, chế độ cũ VNCH? Dân VN? hay Tàu cộng thua cuộc?

    Tôi sinh ra và lớn lên dưới chính thể miền Nam, VNCH. Tôi chưa bao giờ tự coi mình thua cuộc. Nhưng bây giờ đã 40 năm, mọi việc đối với tôi, gia đình tôi, con cái tôi, đã hoàn toàn khác.
    Tôi không tự xem tôi thua cuộc, nhưng đồng thời tôi cũng không thể ảo tưởng xem chúng tôi có thể làm được gì to lớn cho đất nước VN cả. 90 triệu dân VN hảy đoàn kết và chống lại bạo lực VC và Trung cộng đang dần dần thôn tính nước VN.

    Gì thì gì, 90 triệu người dân VN hảy quyết định vận mệnh đất nước của mình. Đó là nội lực chính. Nội lực quyết định.

  4. LẠI MẠNH CƯỜNG says:

    Thưa anh Trọng Đạt và bà con,

    Thú thực tình hình hiện nay dầu sôi lửa bỏng, nên không cho phép tôi bỏ thì giờ đọc sách của ông Huy Đức, cũng như nghiền ngẫm thật kỹ bài phê bình điểm sách của Trọng Đạt bên trên, mà chỉ đọc thoáng lấy ý chính thôi.
    Tình cờ phát hiện ra một vài điểm mà tôi xin phép bổ túc đại khái thôi như sau:

    1/
    TÙ CẢI TẠO BINH LÍNH CHẾ ĐỘ CŨ.

    Chuyện này không có gì lạ cả ở ta, bởi khi tiếp thu nửa nước sau Hiệp định Đình chiến Genève 1954 thì lính tráng của phía quốc gia còn sót lại ở ngoài Bắc cũng bị tù đầy, và nhất là khi có những biến động lớn thì các binh lính quốc gia phải khăn gói quả mướp vào tù trở lại.
    Muốn bíêt rõ chuyện này hơn xin tìm trong Internet những bài viết của dissident quá cố KIỀU DUY VĨNH. Ông vốn là cựu đại úy quân đội quốc giam nhưng tự nguyện ở lại miền Bắc, không di cư vào Nam ! Và ông dã trờ thành bạn tù với nhiều nhân vật chống Cộng nổi tiếng, trong đó có nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, nhà văn Vũ Thư Hiên (đọc Đêm Giữa Ban Ngày sẽ thấy có ông Vĩnh trong đó)
    Đó là sai lầm vĩ đại nhất đời của ông Vĩnh, cho nên khi ông gõ cửa viên tướng hồi hưu Pháp coi về cựu chiến binh, để nhờ giúp đỡ được tị nạn ở lại Pháp, đã bị ông tướng hồi hưu này khéo léo chối từ, nên sau cùng ông Vĩnh phải trở lại Hà Nội từ Pháp (mặc dù ông nhờ tôi mời qua du lịch Hòa Lan và lẽ ra phải trở về từ Hòa Lan, nhưng đến nơi ông nhờ phía Việt Tân đưa ngay từ phi trường Schiphol Hòa Lan qua Paris, với ý đồ xin tị nạn chính trị như đã nói, qua lý do cựu sĩ quan quân đội quốc gia trong khối Liên Hiệp Pháp thời đó)

    Miền Nam thua trận quá mau, phải nói là bị phá sản toàn bộ, vào những tháng đầu năm 1975, cho nên ở miền Trung rút lui lộn xộn, chưa đánh đã chạy. Cái lỗi tày đình là ở Nguyễn Văn Thiệu, đã một mình tự ý cho ban hành lệnh gọi là “rút lui chiến thuật” ở Tây nguyên ! Đổ vỡ này nối tiếp đổ vỡ khác, như hiệu ứng của các quân bài Domino là chuyện đương nhiên.
    Khi tiếp xúc với vị chỉ huy trưởng cũ của tôi là y sĩ đại tá Hoàng Cơ Lân vào giữa tháng 12 vừa qua, ông Lân cũng nhấn mạnh ở điểm này. Bởi một cuộc triệt thoái ở cao nguyên phải được chuẩn bị thật kỹ lưỡng, ít ra hàng tháng trước, chứ đừng nói hàng tuần hay cấp kỳ trong vài ngày.
    Tôi cũng không lấy làm lạ gì điều này, bởi chính vị đàn anh và hiện nay là hàng xóm của tôi (nha sĩ đại úy hiện dịch Nguyễn Văn Ba, phục vụ ở quân y viện Ban Mê Thuột từ 1968 đến lúc tan hàng), cũng cho tôi hay những lộn xộn mà anh quan sát thấy được, do lệnh lạc tầm bậy từ trung ương đưa ra ! Và đến nay anh còn oán trách bọn cầm đầu ngu xuẩn “đem con bỏ chợ” !

    Nói tóm lại, CS rất sợ phía thua trận lúc đó, do quân lực VNCH hầu như còn nguyên vẹn, chỉ hơi bị sứt mẻ chút ít, bởi rõ ràng chưa đánh đã chạy, do đám tướng tá cầm đầu chạy trước thuộc cấp là lính và sĩ quan dưới trướng, nên cả lũ rủ nhau chạy như vịt !
    Mãi khi Cộng quân tiến đến cận hàng rào phòng thủ Sài Gòn, mới diễn ra một trận đánh tạm gọi là có chút tầm cỡ ở Xuân Lộc, Long Khánh và một chút kháng cự lẻ tẻ ở vùng Biên Hoà và Thủ Đức ! Về phần các kho tàng, như các kho quân nhu quân cụ, kho súng đạn săng dầu … cũng còn nguyên, không bị hủy diệt lúc rút lui.
    Chính tôi khi đì tù cải tạo tập trung ở căn cứ Trảng Lớn, Tây Ninh và một tháng sau ở Xuân Lộc, Long Khánh, nơi đặt bộ chỉ huy của sư đoàn bộ binh 18 (?) thấy rõ điều này. Chúng tôi đã lục lọi ở phi trường lẫn kho đạn ở cả hai căn cứ trên, để lấy những thùng đạn đại liên làm thùng chứa đồ, những tấm PSP lót phi trường làm sàn nằm … (Sau này đã có vụ nổ kho đạn Long Khánh mà tôi chứng kiến từ đầu đến đuôi, chứng tỏ trong kho còn nhiều đạn dược và theo như có người bảo là ít nhất cũng có thể cầm cự được trong ba tháng, nhưng chẳng hiểu tại sao lại thiếu trầm trọng đạn dược nơi chiến trường. Trước khi tôi đi tù CS , tổng kho Long Bình cũng nổ kho đạn ba ngày đêm liên tục mà nhà tôi ở trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài Phát thanh Sài Gòn và Sở Thú nghe rõ mồn một).

    Vì thế người CS phải tìm cách giam cái khối quân nhân quốc gia miền Nam lại bằng cách chế ra chuyện, đầu tiên là học cải tạp tập trung trong ba ngày dành cho binh lính và hạ sĩ quan. Thành công rồi, họ bèn ra lệnh cho đợt hai là các sĩ quan từ cấp đại úy lên đến tướng đi trinh diện học cải tạo tập trung và phải nhớ mang theo lương thực trong một tháng ! Chừng khoảng hai tuần sau là đợt ba, các sĩ quan từ thíêu đến trung úy đi cải tạo tập trung và mang theo lương thực trong 10 ngày !

    Cứ tuần tự nhi tiến mọi người như cá ngoan ngoãn theo dòng nước chui vào rọ, tức cái bẫy sập khổng lồ do CS dàn dựng !

    Tình thực, sau khi chiến tranh chấm dứt, tuyệt đạI đa số dân hai miền Nam Bắc đều mừng rỡ, bởi đã quá sức chiu đựng con người. Trong tâm thức người dân củng lờ mờ nhận ra chân lý là “cầm cặc cho nó đái” một lũ như nhau và nó tha hồ đái lên đầu lên cổ mình ! Nhưng do tự ái, nên anh nào anh nấy cũng nhận phần phải về mình, cho mình là chân lý bla bla bla.
    Bởi thực tế như Nguyễn Chí Thiện cực tả tình hình ở ngoài Bắc như sau: GIẤY BÁO TỬ BAY ĐẦY MÁI RA / CHỈ CÓ CÁI LOA LÀ VUI !
    Trong Nam thì tự do hơn nhiều, nên không thiếu những bài hát phản chiến. Nào là Phạm Duy với nhạc phổ thơ qua các câu Anh trở về có thể là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về trên chiếc băng ca … hay Ngày mai đi nhận xác chồng … hay Nguyễn Tất Nhiên với bài thơ có các câu Chiều nghĩa trang quân đội, người yêu tôi khóc ngất, cho hương quyện áo bay ….
    Bản thân tôi cũng bao nhiêu chiến hữu muốn trở về đời sống dân sự, do bởi mình bị cuốn hút vào guồng máy chiến tranh khổng lồ, chứ thực tình nào ai muốn làm lính với cuộc sống bấp bênh rày đây mai đó, mạng sống luôn đe doạ … Vâng không dám làm anh hèn trốn lính (bởi trốn cũng khó sống lắm), nhưng cũng chả thích là anh hùng ! Anh hùng mà cụt tay cụt chân …, nói xin lỗi chỉ có nước đi bán vé số dạo và sống cô đơn tới chết thôi ạ !
    Đó là cái lý do người lính “Ngụy” đã ngoan ngoãn trình diện để được đi tù tập trung, mong rồi ra mọi sự sẽ được xí xoá hết, tất cả sẽ là anh em, kiểu như nhà thơ Cao Tần rất ngây thơ vô số tội mà rằng trong phần cuối bài thơ MAI MỐT ANH VỀ :

    Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
    Ông anh hùng ông cứu được quê hương
    Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
    Lùa cả nước vào học tập yêu thương

    Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
    Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
    Bồ bịch hết không đứa nào là Ngụy
    Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng.
    (tháng 3, 77)

    Vâng, phía quốc gia rất ư là ngây thơ đến mức kô tưởng như thế đó ạ ! CS làm gì coi chuyện coi đối phương là bạn bao giờ !

    • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

      2/
      Người CSVN bất thần làm chủ toàn nước qua chiến thắng dễ dàng mà họ thường gọi là ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 ! Cụm từ này quả thực không lố bịch mà ta thường gặp ở các cụm mỹ từ CS hay dùng, bởi họ thắng quá lớn, thật bất ngờ, trong một thời gian cực ngắn ! Hệ quả về phía đối phương quả đúng là MỸ CÚT NGỤY NHÀO !

      Mỹ ra đi khỏi VN trong ê chề và chịu dài dài cái gọi là MẶC CẢM VIỆT NAM (The Vietnam Syndrome) làm phân hoá xã hội Mỹ thành hai phe trong nhiều thập niên sau đó. Những chiến binh Mỹ hồi hương mà bị đồng hương ghẻ lạnh coi như những tên tội phạm chiến tranh, trong khi trên thực tế họ là những đứa con yêu của tổ quốc, đã xả thân bảo vệ nước từ xa không cho nạn hồng thủy lan rộng tới Mỹ !

      Phía thua trận VN, CS gọi là Ngụy, đã PHÁ SẢN TOÀN BỘ, NHẤT LÀ VỀ MẶT TINH THẦN. Bởi thua trận lần đầu năm 1954 còn lại nửa nước; thua lần hai chỉ còn đường duy nhất là ra biển đào thoát, bởi hai lân bang là Miên và Lèo cũng thành CS trước đó ít lâu.
      CS đánh thắng Mỹ là chuyện không tưởng, nhưng nay đã thành sự thật ! Vậy còn biết trông cậy vào nơi đâu để chống lại qủi đỏ bao vây quanh mình !
      Chưa kể nỗi đau thấu tâm can là bị cấp trên bỏ rơi thật vô lương. Vâng bọn tướng tá cầm đầu bỏ chạy trước khi quân CS tiến đến, khiến quân đội như rắn không đầu, rùng rùng rủ nhau chạy như vịt một đàn. Và cứ nhắm hướng nam mà chạy, nhưng chạy tới đâu thì thấy đổ vỡ tới đó, do cái hiệu ứng quân bài Domino !

      Lẽ ra đám chóp bu CS phải thấy rõ điều tâm lý trên nơi người thua trận hơn ai hết ! Đáng tíêc là chiến thắng đã làm chúng trở nên KIÊU CĂNG PHÁCH LỐI và MÙ QUÁNG cả lũ !
      Tôi bảo là, chúng CHƯA TIÊU HOÁ KỊP CÁI CHIẾN THẮNG VĨ ĐẠI VÀ QUÁ BẤT NGỜ ĐÓ NÊN BỊ BỘI THỰC !

      Bằng chứng thay vì hoà giải hoà hợp với phía thua trận là quân dân VNCH, thì lại gây hấn bằng trò cải tạo tập trung, rồi cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cải tạo nông nghiệp … sao cho giống mô hình ngoài Bắc. Rồi nhổ cỏ tận gốc bằng sự bày trò kháng chiến giả dưới danh nghĩa phục quốc quân v.v… Tóm tắt, CS miền Bắc nuôi tham vọng cầm tù rồi cải tạo miền Nam !

      Tương tự phải khéo léo hòa giải với Mỹ, thì Hà Nội lại huyên hoang chửi Mỹ không tiếc lời, trong khi đòi Mỹ bối thường chiến tranh hàng triệu triệu Mỹ kim !
      Mỹ bực mình và bị mất mặt, nên phản ứng lại bằng sự cấm vận (embargo); sau này nhân vụ Vixi xâm lăng Kampuchia bèn kêu gọi cả thế giới cấm vận, trong khi thực ra Vixi đã giúp cho dân Kampuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng tàn bạo nhất lịch sử loài người là Khmer Đỏ cầm đầu bởi bè lũ Pol Pot …

      Vài năm sau lại “bội ơn” Tàu cộng, tạo ra vu đuổi người Việt gốc Hoa khỏi VN, mà gọi là Nạn Kiều, khiến nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc với Tàu, xảy ra ít lâu sau vụ chiến tranh biên giới phía tây nam với Kampuchia, mà các sử gia gộp chung gọi là CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG LẦN BA (xem tác phẩm cùng tên của nhà văn bác sĩ Hoàng Dung sẽ rõ chi tiết. Riêng vu “nạn kiều” xem tác phẩm của nhà văn bác sĩ Lâm Hoàng Mạnh là nhân chứng sống của vụ này ở ngoài Bắc và anh Mạnh đang sống cùng gia đình con cháu an lành ở Luân Đôn).

      • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

        3/
        “Trang 350 Đại hội 6 Trung ương Đảng CSVN tháng 12/1986 ba ông Lê đức Thọ, Phạm văn Đồng, Trường Chinh xin rút tên không ra ứng cử kỳ này, tác giả chỉ nói sơ xài mà tránh né những chi tiết cần nói.” (nguyên văn)

        Tác gải sách Bên Thắng Cuộc là Huy Đức nói sai, nhưng tác giả bài điểm sách là Trọng Đạt cũng không vạch được cái sai ra sao ?

        Riêng tôi rất ngạc nhiên, bởi làm gì có chuyện Lê Duẫn xin rút tên kô ra ứng cử trong bất kỳ đại hội đảng nào !

        Tra cứu ngay trong internet về đại hội trên thì tên đầy đủ của nó là HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ 1O KHOÁ 5 (tức thuộc thời gian sau Đại hội đảng lần thứ năm) vào năm 1986.

        Tìm hiểu thêm, trong blog Cầu Nhật Tân dưới tựa đề “LỊCH SỬ NỘI CHÍNH ĐẢNG CSVN – HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG: VÕ ĐÀI HẠ GỤC NHAU MỘT CÁCH TÀN ÁC (*)”, đăng ngày thứ hai, ngày 10 tháng chín năm 2012, đã tả rõ như sau:

        [trích]
        Hội nghị TƯ 10 khóa 5 tháng 6/1986:
        Dấu ấn lớn nhất là tham vọng tiếm quyền của ông Lê Đức Thọ. Tổng Bí thư Lê Duẩn ốm nặng và phải nằm liệt trên khu nghỉ dưỡng Trung ương tại Quảng Bá. Ông Thọ đã đấu ông Duẩn ngay tại giường bệnh của ông Duẩn.
        Đấu đá trong hội nghị không ngã ngũ, kết cục Hội nghị buộc phải chọn thành phần trung lập. Ông Nguyễn Văn Linh được chọn cơ cấu vào Bộ Chính trị và vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, giữ trọng trách Thường trực Ban Bí thư.
        Lê Duẩn chết 10/7/1986 trước khi tổ chức đại hội Đảng 6 vào 12/1986..
        [hết trích]

        Để chắc chắn hơn nữa, tôi tra cứu về Lê Duẫn trong wikipedia tiếng Việt

        [trích]
        Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam.
        Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng.
        Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
        Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.
        Từ Đại hội V do sức khỏe yếu, Trung ương Đảng giao bớt một số quyền của ông cho Trường Chinh.
        [hết trích]

        Kết, trước những sự kiện quan trọng mà kô tìm hiểu và kiểm chứng kỹ càng, sẽ gây hiểu lầm tai hại và dĩ nhiên làm giảm giá trị tác phẩm.

        Nên nhớ cho kỹ trước khi viết: BÚT SA GÀ CHẾT !

  5. Trúc Bạch says:

    Chủ Nghĩa CS hình thành và sống được bằng “đấu tranh” .. Cho nên đảng CS không ngừng tự tạo ra các “kẻ thù”, tự tạo ra các “thế lực thù địch” để luôn luôn có chiến…trường mà thi thố tài “bách chiến, bách thắng”

    Chiến tranh chính là môi trường tốt để CS sinh sôi, nẩy nở và sống còn .Nên bằng mọi cách, CS phải tạo nên chiến tranh .

    Ban đầu, kẻ thù của CS là những người Quốc Gia mà chúng gọi là “ngụy quyền”; Với “Ngụy Quyền” thì CS dưng nên cuộc chiến gọi là chiến tranh Nhân Dân, “giải phóng dân tộc” để Cướp Chính Quyền .

    Khi những người Quốc Gia có đồng minh giúp đỡ thì CS gọi cuộc chiến là “chống xâm lược”

    Khi đã “cướp được chính quyền” thì CS tạo nên cuộc chiến “giai cấp” để người dân trong nước giết lẫn nhau .

    Khi đã “bần cùng hóa” được tất cả người dân, nghĩa là không còn “chiến tranh Giai Cấp” nữa, thì CS tạo nên cuộc chiến với các nước láng giềng bằng cách dựng nên các đảng cs bản xứ, rồi sau đó với danh xưng giải phóng giai cấp Vô Sản Anh Em…mà đem quân đi “hoàn thành nghĩa vụ quốc tế”

    Khi đã không còn kẻ thù là “đế quốc”, không còn kẻ thù là “Ngụy” để đánh nữa thì các nước CS quay sang “dạy cho nhau một bài học” hay thẳng thừng “đòi” chủ quyền lãnh thồ và hình thành cuộc chiến “tự vệ giữa các nước CS với nhau .v.v….

    Ngày nay, đảng CSVN hoàn toàn thần phục Bắc Kinh, chấp nhận mất biển, mất đảo, mất đất, mất dân để có “hòa bình, ổn định”… nên không phải “lo” đối phó với “kẻ thù truyền kiếp phương bắc” nữa, thì chính những người CS trong nước lại bắt đầu một cuộc chiến tranh mới để tranh dành quyền lực và tài sản (trong nội bộ) với một danh xưng rất chính nghĩa là : “đấu tranh chống…tiêu cực”…

    Cứ thế, cứ thế, người CS phải tạo ra “chiến tranh” để sống còn .

    Nhờ tạo được “nguy cơ” chiến tranh Biển Đông mà Trung Cộng tiếp tục sinh tồn, và CSVN cũng nhờ chui đầu vào Hán(g) Tàu mà vẫn “vững như bàn thạch” (chữ của “đình cao chí tuệ” lòi người).

    Sở dĩ CS Liên Sô và Đông Âu chết là vì họ không thể tạo được một cuộc chiến mới trên lục địa Châu Âu , và sở dĩ CS LiênSô và Đông Âu không tạo được cuộc chiến tranh ở Âu Châu là vì người dân tại các xứ CS này không còn ngu xuẩn để bị tuyên truyền, lừa gạt mà lao đầu vào cuộc chiến “chống đế quốc tư bản” nữa .

    CS là thế đấy !

  6. Hồng Lĩnh says:

    Theo tôi, quyển BTC, do khả năng, tuổi tác, môi trường, thông tin hạn chế (các cuộc phỏng vấn, liên hệ hầu hết là đảng viên, hoặc thân cộng) nên tác giả Huy Đức không tránh khỏi nhận xét chủ quan, sai hoặc sót .

    Tuy nhiên, quyển sách có lẽ sẽ tạo ảnh hưởng mạnh vào giới trẻ VN trong nước.

    Ông Trọng Đạt có lẽ không biết Huy Đức (tên thật là Trương San) hiện đang học ở Boston (He is the 2013 Atsuko Chiba Nieman Fellow. The Chiba fellowship honors the memory of Atsuko Chiba, a 1968 Nieman Fellow.)

    http://www.nieman.harvard.edu/NiemanFoundation/NiemanFellowships/MeetTheFellows/CurrentFellows.aspx

  7. tudo says:

    Tôi chưa có dịp đọc được cuốn sách này. Nhưng cứ như những chuyện kể về thời chế độ CS được thiết lập cưỡng ép ở miền nam thì có lẽ không có gì mới mẻ đối với ai đã trải nghiệm ít nhiều với chề độ CS. Điều quan trọng là cuốn sách này muốn mọi người VN rút ra được điều gì từ tác giả. “Bên thắng cuộc” tự cái đầu đề này đã nói lên được đây là một cuộc chiến xâm lăng của CS miền bắc đối với miền nam Cộng Hòa.

  8. vinh says:

    Trich:
    {Trang 68 tác giả nói sai:

    “Cuối thập niên 1970 ngay cả người Sài Gòn cũng không mấy khi có gạo trắng cá tươi, cơm tù không thể nào tránh được các thiu, gạo hẩm”

    Thập niên 1970 chuyện cơm trắng cá tươi đối với người miền nam chỉ là chuyện nhỏ, nhà nào chẳng có. Làm gì có cơm tù? chỉ có vài củ khoai lang, củ sắn, nửa bát boo, cả tuần may ra có được một bát cơm trắng” }

    Huy Duc noi cuoi thap nien 1970 co nghia la tu 1975 den 1980. Ong Trong Dat co le hieu sai y tac gia?!

    • Hồng Lĩnh says:

      Tôi cũng nghĩ là Trọng Đạt đọc vội ra “1970″ mà không đê ý là “cuối thập niên 1970″.
      Thời điểm đó thì chỉ có bo-bo, khoai mì. Trong nước thỉnh thoảng có bài báo nhắc lại “thời kỳ bao cấp” – chính là thời gian này.

    • Củ Lẫn says:

      Đã trích lại một câu mà lại không chịu đọc kỹ câu mình trích, thì thật khó mà hiểu được.

      Nhiều nhận xét trong bài cũng rất lạc đề, như chuyện tác giả thấy thương hại người miền Bắc đến 1975 chưa biết cái thang máy là gì. Liên hệ gì đến nội dung cuốn sách?

      Tác giả TĐ cũng không hiểu – có lẽ vì không đặt đó thành vấn đề – tại sao nhà báo Huy Đức lại bỏ nhiều năm để thu thập tài liệu viết cuốn sách…

      Tóm lại, tôi không nghĩ tác giả TĐ có đủ tấm lòng để làm công việc phê bình cuốn sách bề thế và phức tạp này…

      • hànhânnguyển says:

        TrọngĐạt không phê bình mà bàn về nhửng thiếu sót hoặc sai lầm trong cuốn sách “bề thế và phức tạp này” của Huy Đức. Đọc mà tháy tác giả viết sai thì “bàn lại ” hay chỉ rỏ cho tác giả thấy .đó là “đọc sách” chớ không phải thấy sách’ bề thế” mà né,nhất là cuốn sách “phức tạp” thì càng có nhiều sai sót,hơn nửa tác giả ở phía bên “kẻ thắng cuộc” dù sao củng còn nhiều hạn chế khi viết “xấu ” về mình ,và tài liệu phần lớn chỉ là nhửng điều thấy (chưa đủ), sách (VC) và nhửng người VNCH như NCĐức thì càng không đáng tin …
        Nhửng góp ý của nhửng ngươi sau 75 được “ưuđải ” (không bị đì,được cho làm việc lại)như ….thì “chê” cả hai phía cho công bình ,tuy nhiên củng không khỏa lấp được tội ác rành rành của cs sau 75,nên củng phải nói ra.Như góp ý đầu tiên của bài chủ này.
        Trọng Đạt “bàn ” về nhửng chuyện xảy ra, mọi người chứng kiến ,mọi sách vở có ghi (kể cả bên thua cuộc là vnch và Mỷ) và tôi nghỉ là còn quá nhẹ nhàng. Có lẻ TĐ ,với một cuốn sách “phức tạp” và “bềthế’ ,cho nên khen chê chẳng biết làm sao ,lầm lẩn câu trích để bàn một việc không đáng bàn vì người đọc tự đính chánh được.Nghỉa là TĐ củng “đọc” buồn ngủ vì nhàm chán vìnhửng gì viết trongsáchkhông có gì mới. Nó rải rác đây đó ,cà thắng cà thua đều đả biết.Cáí mà bên thắng cuộc thắng thật không ?Và bên thua cuộc có thua thật không ? Hay thắng cuôc ở trong nước lại thua cuôc ở bên ngoài (CS sụp đổ,chư hầu TC,dân tình đói khổ,đảng viên là nhửng ông “địa chủ’ bóc lột lớn hơn TD.ĐQ ?).
        Cho nên phải nói là Ai Thắng Ai mới đúng.
        Nếu coi cuôc chiến vn là nội chiến (mà có người coi như NB phân tranh thời trinhnguyển )
        thì đúng là VC thắng. Nhưng nều nói đây là cuôc chiến ý thức hệ CS/TB thì tư bản thắng .Mà dù nội chiến thi phía SG vẩn coi như thắng vì SG pháttrỉền văn minh hơn miền Bắc (ngoài cái gương,thang máy (cả thang cuốn),còn nhiều nửa mà Hànội như tên mán trên rừng mới về thành..ngơ ngẩn)) nên mới có câu hỏi của nhạc sỉ miến Nam .(anh giảiphóng tôi hay tôi giải phóng anh?)
        Cho nên cuốn sách để cho người mién Bác đọc (thế hệ sinh sau 75 )như TĐ viết là đúng vậy,vì dân miền Nam ai củng biết ,và biết còn rỏ hơn nửa !
        (hnn)
        **TB/ -đọc thêm bài viết của sv gời cô giáo trên ĐCV.
        – Đọc bài viết của ntchính trên báo online vnnb vê cuốn sách của HuyĐức (phần mở đầu bài viếtcó vẻ dài và lạc đề…)
        (hnn)

      • Hiền Nguyển says:

        Đối với nhà báo HĐức có công bỏ ra nhiều năm để thu thập và viết sách . . là chuyện
        “bề thế” nhưng đối với những người ‘ Bên Thua Cuộc’ thấy chuyện HĐ viết một cô bé
        15 tuổi năm 1975 còn tả chuyện về kẻ thua trận ra sao rành hơn nhà báo HĐức . ông TĐạt theo lời bàn đã ‘trải nghiệm’ bao nhiêu năm tù và vượt biên và sống với bao cảnh
        bị công an bắn giết thoát chết thế mà viết lại y như là người kể chuyện xưa không hằng thù nặng lời và cuốn sách HĐức đối với những người miền Nam thì chán phèo . . .
        Vết thương cũ đã lành nay có người muốn xem lại vết thương của nạn nhân , vạch cho HĐức xem :” Đấy vết xẹo lành rồi, tôi cũng đã hết đau nhưng không bao giờ quên đâu ” ! Còn chỉ cho HĐức nhiều chuyện mà Đức còn chưa đủ trình độ để viết. Vậy đó.
        Có gì mà bề thế chứ ông cù lần?

  9. Thằng Bờm says:

    CHÚC NỪNG NĂM MỚI, bác Trọng Đạt.

    Đúng ra cái “còm” này của tôi không nên góp ý vào những ngày đầu năm như thế này. Tuy nhiên, tôi cho rằng với những con người miền Nam như bác, không như những anh CSVN, luôn giẫy nẫy lên như con giun khi có ai đó nói sai ý của chúng.

    Bác viết “Cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ bắt đầu từ ngày 19/12/1946 tại Hà nội và chấm dứt ngày 30/4/75 tại Sài Gòn.….Từ ngày CSVN cướp chính quyền 1945 đến 1992 không lúc nào là ngớt chiến tranh, hết chống Thực dân, Đế quốc cuối cùng là cuộc chiến giữa các chế độ CS, nó đã khiến người dân chán ngấy đến tận cổ.”

    Thực tế cho thấy, CSVN bám víu quyền lực với “công trạng” chiến đấu giành độc lập ( nói đúng hơn là gây chiến tranh để giành quyền lực ). Bởi thế, các cuộc chiến tranh do họ khởi xướng luôn ở dưới chiêu bài “vì độc lập”. Trên quan điểm vì độc lập này, tôi cho rằng các cuộc chiến tranh bắt đầu từ ngày 19/12/1946 tại Hà nội cho đến nay vẫn chưa có “thắng lợi hoàn toàn” (nói theo kiểu của CS ), cho nên chúng ta không thể nói chiến tranh đã chấm dứt vào ngày 30/4/75 tại Sài Gòn hoặc chỉ kéo đến năm 1992.

    CSVN chiến đấu giành độc lập nhưng chưa từng đem lại độc lập, tự chủ cho Việt Nam.

    Vì sao ? Hãy xem người trong cuộc của CSVN, ông tướng Nguyễn Trọng Vĩnh viết :

    “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên tinh thần tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, hợp tác cùng có lợi”.

    Đáng thất vọng là trong cuộc đàm phán Việt – Trung về bình thường hóa quan hệ (hội nghị Thành Đô 3-4/9/1990) lại không thể hiện tinh thần ấy. Trong cuộc chiến xâm lược nước ta năm 1979 mà Đặng Tiểu Bình nói là: “Dạy cho Việt Nam một bài học”, tuy có giết hại được bộ phận đồng bào ta, tàn phá các tỉnh biên giới miền Bắc nước ta, nhưng cũng bị quân dân ta đánh cho sứt đầu mẻ trán phải tháo lui. Ta đâu có phải là bại trận mà trong đàm phán phải đi nước dưới để Trung Quốc đòi ta phải gạt bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đòi không được nhắc đến trận chiến năm 1979… Phái đoàn ta lại chấp nhận?!

    Đại hội VII năm 1991 gạt bỏ đồng chí Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, một nhà ngoại giao yêu nước, đầy tài năng và rất cảnh giác với bành trướng, bá quyền Trung Quốc; mỗi khi đến tháng 2 hàng năm (kỷ niệm Trung Quốc xâm lược vào các tỉnh biên giới) không dám có phái đoàn lên thắp hương tượng trưng cho đồng bào chiến sỹ đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc; thậm tệ hơn, chỉ cách đây vài năm, trước cái ngày Trung Quốc đánh Việt Nam đúng một ngày, bà Phó chủ tịch Quốc hội còn mở tiệc chiêu đãi Đại sứ Trung Quốc (chiêu đãi mừng chính cái kẻ, vào đúng ngày này 30 năm trước, đã “quạt lửa” vào mặt chúng ta, thử hỏi có nước nào rửa cho sạch nhục?). Mỗi người Việt Nam yêu nước đều cảm thấy nhục nhã.

    Từ nhiệm kỳ của nguyên Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Trung Quốc càng dễ can thiệp vào nội bộ nước ta và muốn gì được nấy.

    Lãnh đạo Trung Quốc muốn khai thác bô-xít và chiếm lĩnh điểm chiến lược Tây Nguyên, được Tổng bí thư chấp nhận ngay mặc dầu chưa có ý kiến tập thể Bộ Chính trị. Mỗi lần Bộ Chính trị phía ta chuẩn bị dự kiến nhân sự cho nhiệm kỳ tới, thì thế nào cũng có Ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc sang thăm để thăm dò sự sắp đặt nhân sự mới của ta, khi cần thì gợi ý “khéo”. Khi dự kiến các chức danh Chính phủ cho nhiệm kỳ Đại hội X, có ý kiến đề nghị đồng chí Phạm Bình Minh làm Bộ trưởng Ngoại giao thì Tổng bí thư Nông Đức Mạnh gạt đi, nói rằng “Trung Quốc không đồng ý”, và bố trí đồng chí Phạm Gia Khiêm.

    Khi Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh và tàu Viking II của ta thăm dò khảo sát trong thềm lục địa Việt Nam, nhân dân phẫn nộ biểu tình phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền. Tình hình rất căng, đáng ra Trung Quốc phải “hạ nhiệt” thì phía ta lại cử đặc phái viên Thứ trưởng Ngoại giao sang Trung Quốc có vẻ cầu hòa. Trung Quốc tỏ ra bực mình vì những cuộc biểu tình, thì sau khi đặc phái viên về là các cuộc biểu tình bị đàn áp.

    Cái gì Trung Quốc muốn cũng được, cái gì cũng nghe theo ý kiến Trung Quốc, cái Trung Quốc không bằng lòng thì không dám làm, vậy thì còn gì là độc lập tự chủ?

    Được biết gần đây có việc bổ sung Ủy viên Bộ Chính trị, có ý kiến trong số người dự định bổ sung, nên có đồng chí M. thì liền có ý kiến sợ “căng thẳng với Trung Quốc”. Nguồn trích dẫn

    Nếu đây là cái “còm” xông đất đầu năm của bác, mong bác pha-rô. Tôi đã từng bị CSVN ăn gian tấn công trong những ngày Tết mà chúng đã giao ước đình chiến, cho nên đã bỏ mất cái lệ xông đất từ đó.

    Chúc bác năm mới mạnh khoẻ.

  10. Nguyển Hiền says:

    Sách “bên thắng cuộc” của Huy Đức ghi lại vài mẫu chuyện lượm lặt một chiều không đúng với sự thật, cám ơn ông Trọng Đạt đã ‘ ghi lại cho đúng’ và thêm những mẫu chuyện có thật công an phục kích bắn giết tàu vượt biên v.v. . Sau gần 37 năm “giải phóng” Huy Đức mới viết được một cuốn sách giống như ký sự hay phỏng vấn sao không ghi lại trung thực chuyện gì đang xẩy ra? xã hội thối nát vong bản, văn hóa suy đồi, quan chức tham nhũng vơ vét chiếm đoạt tài sản dân từ Nam ra Bắc. . mua quan bán tước, cấu kết với gian nhân bán dân làm lao nô gái điếm khắp năm châu, nhân vị phụ nữ Việt xuống thấp như hàng súc vật khi khách ngoại cởi trần truồng chọn lựa, kẻ chiến thắng không biết đó là Quốc nhục, thanh niên trai gái liều mạng trốn qua các nước đông Âu sau nhiều thập niên thống nhất, chưa kể hàng triệu người vượt biên, vượt biển thà chết trên biển hơn ở lại, đó là nổi ô nhục cho những kẻ gọi là “chiến thắng” thống nhất bằng vũ lực và giết người để thỏa mản tham vọng bành trướng cho bá quyền Hán triều ngàn năm vẫn còn ý đồ thôn tính ViệtNam và họ đang thành công cài người và gián điệp khắp nơi trên nước Việt. Bọn “chiến thắng” đang hưởng vinh hoa phú quí trên máu xương đồng loại là nổi Ô Nhục không phải ông Dương Văn Minh và phe chiến bại, phe chiến bại đã anh dũng hy sinh hơn 20 vạn quân tử chiến và quân xâm lăng Bắc Việt phải mất gấp năm lần để chấm dứt cuộc chiến, năm đánh một kẻ ô nhục chính là quân Bắc Việt mà biểu tượng của họ là một cái xác thối khô đang ‘nằm ngữa’ trong lăng Ba Đình cho con cháu họ tôn kính để tiếp tục nổi ô nhục mà cả thế giới ngầm nháy mắt mĩm cười với nhau.
    Mong là tương lai hậu duệ dân Việt sẽ trưng bày tội ác của Hồ Chí Minh và đồng bọn trong lăng Ba Đình, hình ảnh nhiều triệu quân và dân Việt vô tội đã chết thảm trong suốt cuộc chiến 30 năm để “thống nhất”, đấu tố sau 1954 ở miền Bắc, tết Mậu Thân 1968 ở Huế, và hàng trăm ngàn vụ giết người trong suốt cuộc chiến, đó là một nổi Ô Nhục mà lịch sử Việt Nam sẽ ghi lại sau khi bọn CSVN cáo chung.
    Một đoạn văn của anh Trọng Đạt đã nêu lên nhiều sự kiện có thật bi đát, kinh hoàng cho những kẻ thua cuộc hay nói đúng ra là nạn nhân của lũ cướp nước.

Leave a Reply to Trúc Bạch