WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Xã hội dân sự Trung Quốc: Một tham khảo

Nộ Giang đoạn chảy qua tỉnh Vân Nam

Nộ Giang đoạn chảy qua tỉnh Vân Nam

Andrew Wells-Dang

Mặc dù xã hội dân sự Trung Quốc có môi trường hoạt động nhiều thách thức hơn Việt Nam nhưng có lẽ có tới 90-95% các nhận định về xã hội dân sự ở Trung Quốc đồng thời cũng có thể áp dụng được vào bối cảnh ở Việt Nam.

Về mặt lịch sử, văn hóa, và chính trị, Trung Quốc là quốc gia có truyền thống gắn bó gần gũi nhất với Việt Nam. Dĩ nhiên, nói như thế không có nghĩa hai quốc gia tương đồng trên mọi khía cạnh. Trung Quốc là một nước lớn, xét cả về nghĩa đen và nghĩa bóng, tuy vậy, sự ảnh hưởng giữa hai quốc gia không diễn ra theo một chiều đơn nhất, và cả hai đều cùng tham gia vào một quá trình đồng tiến hóa và thích nghi chung.1 Điều này cũng đúng với trường hợp chặng đường hình thành và phát triển xã hội dân sự diễn ra song song tại Trung Quốc và Việt Nam trong mấy thập kỷ gần đây. Rất nhiều tài liệu liên quan bằng tiếng Trung và tiếng Anh ở Trung Quốc đã đề cập một bối cảnh mà trong đó các tổ chức và mạng lưới chính thức cũng như phi chính thức đã và đang gia tăng nhanh chóng, dù rằng khung pháp lý vẫn chưa kịp hoàn thiện. Trong bối cảnh này, xã hội dân sự tồn tại trong mối quan hệ nửa phụ thuộc, nửa độc lập với chính quyền nhà nước, và công dân tham gia sinh hoạt chính trị bằng vô vàn cách thức sáng tạo khác nhau, thông qua các kênh chính thống và ngoại lai.2 Có lẽ có tới 90-95% các nhận định về xã hội dân sự ở Trung Quốc đồng thời cũng có thể áp dụng được vào bối cảnh ở Việt Nam.

Tuy thừa nhận những điểm tương đồng trên, song khi so sánh giữa hai quốc gia, các nhà phân tích vẫn cho rằng xã hội dân sự Trung Quốc có môi trường hoạt động nhiều thách thức hơn Việt Nam. Việc thi hành luật pháp ở đây thường diễn ra quyết liệt hơn theo mô hình nhà nước nghiệp đoàn.3 Tất cả các tổ chức xã hội đều phải đăng ký hoạt động với cơ quan nhà nước cấp trung ương hoặc tỉnh/địa phương, trong đó các “GONGO” (tức các tổ chức phi chính phủ do nhà nước đứng ra thành lập, chẳng hạn như các tổ chức quần chúng) thường được đối xử ưu ái hơn. Một tổ chức mới muốn đăng ký cần được sự hậu thuẫn kép của một bộ phận hành chính chủ quản đóng vai trò “bà đỡ” và một cơ quan chuyên môn, tuy rằng một số tỉnh như Quảng Đông hay Thượng Hải mới đây đã áp dụng những quy định mới nhằm đơn giản hóa quy trình này. Nguyên tắc mỗi khu vực chỉ có một đoàn thể được phép đại diện cho cử tri tại chính khu vực đó được theo dõi sát sao, do vậy, các tổ chức phi chính phủ không thể điều hành văn phòng chi nhánh ở các tỉnh khác với tỉnh nơi họ đăng ký hoạt động. Các nhà tài trợ cũng chịu sự giám sát ngặt nghèo nên hoạt động quyên góp trở nên khó khăn hơn: một số tổ chức đã bị đóng cửa hoặc bị dọa đóng cửa vì tiếp nhận sự hỗ trợ từ những tổ chức không được chào đón ở đây. Các tổ chức phi chính phủ quốc tế còn hiếm hoi hơn, và phần lớn đều hoạt động mà không có đăng ký hợp pháp.

Dẫu vậy, vẫn có những yếu tố cho thấy tiềm năng phát triển xã hội dân sự mạnh mẽ ở Trung Quốc. Nhiều tổ chức phi chính phủ, cơ quan truyền thông, và viện nghiên cứu hoạt động rất chuyên nghiệp trên quy mô toàn quốc, hoạt động của họ được hoan nghênh từ những năm 1990 hay lâu hơn nữa. Hệ thống trường đại học ở Trung Quốc rất vững chắc và không ngừng nâng cao những hỗ trợ về tài chính cho cả một số trung tâm nghiên cứu xã hội dân sự nổi tiếng tại các học viện quốc gia lớn. Nền kinh tế ngày một thịnh vượng cũng giúp nuôi dưỡng sự phát triển của khu vực các tổ chức tư nhân trong nước, có tiềm năng làm thay đổi hoạt động quyên góp và làm từ thiện. Xét về khía cạnh này và nhiều khía cạnh khác, xã hội dân sự Trung Quốc có những kinh nghiệm có mối liên quan mật thiết với xã hội dân sự ở Việt Nam.

Trường hợp điển hình sau đây về một mạng lưới dân sự ở Trung Quốc có thể dùng làm minh họa cho những sự kiện tương tự ở Việt Nam.

Sự xuất hiện của Mạng lưới Sông ngòi Trung Quốc

Tháng 8/2003, truyền thông Trung Quốc thông báo một kế hoạch xây dựng 13 con đập trên sông Nộ Giang chảy qua Tây Tạng và tỉnh Vân Nam.

Giới khoa học, học giả, các nhà hoạt động phi chính phủ (NGO), và báo giới ở cả khu vực nhà nước và tư nhân đều hết sức sửng sốt trước thông tin này, và họ quyết định hành động. Trong “một chiến dịch vô tiền khoáng hậu, thu hút sự tham gia của các tổ chức NGO, các nhà khoa học, quan chức chính phủ, và cả quần chúng”, một mạng lưới hoạt động phi chính thức nổi lên nhằm tận dụng truyền thông và công luận Trung Quốc để phản đối ý tưởng xây đập.4 Giới khoa học và NGO công khai đả phá việc xây dựng những con đập này, và được giới truyền thông nhiệt tình đưa tin. Họ cũng nhận được sự ủng hộ công khai ở chính quyền trung ương, đặc biệt là Bộ Môi trường, và họ đã tranh thủ sự ủng hộ này để đối phó với chính quyền các địa phương cũng như các tập đoàn thủy điện.5 Các nhà hoạt động vì môi trường tiến hành thu thập chữ ký của trên 10.000 sinh viên, nhà khoa học, nghệ sĩ, và nhà báo để gửi một kiến nghị công khai: “Hãy bảo tồn Nộ Giang – con sông sinh thái cuối cùng”.6 Tổ chức Tình nguyện viên vì thế giới xanh bắt tay vào tổ chức các “salon phóng viên” định kỳ 2 tuần/lần với khách mời là các diễn giả đến từ các tổ chức NGO khác và các cơ quan chính phủ.7

Sự tham gia của giới truyền thông đã cho ra đời hàng trăm bài viết đăng tải trên truyền thông Trung Quốc và quốc tế. Có rất nhiều ý kiến cho rằng nhờ có sự phối hợp giữa các lá đơn kiến nghị với hoạt động vận động hành lang trực tiếp và áp lực từ truyền thông mà Thủ tướng Ôn Gia Bảo phải ra quyết định hoãn dự án vào hồi tháng 4/2004 vì cho rằng dự án này đã làm dấy lên “những mối lo ngại lớn về xã hội.” Như vậy, sông Nộ Giang đã được bảo tồn, chí ít là trong thời gian trước mắt.

Tháng 8/2004, tiếp nối thành công bước đầu, bảy tổ chức NGO đã hợp tác để chính thức hóa Mạng lưới Sông ngòi Trung Quốc (China Rivers Network – CRN).8 Ý tưởng xây dựng một mạng lưới chính thức khi đó vẫn còn mới mẻ ở quốc gia này. Mục tiêu của CRN là chủ động giải cứu các con sông chứ không chỉ thụ động phản ứng trong những trường hợp khẩn cấp.

Trong năm đầu hoạt động, các thành viên CRN đã cho ra đời một series các báo cáo của giới truyền thông về sông Nộ Giang, một bộ phim tài liệu, và một website đăng tải các ký sự ảnh cùng nhiều thông tin khác. CRN vạch ra một chương trình nghiên cứu và phát triển sinh thái cho các cộng đồng ven sông, trong đó vừa tập trung vào việc bảo tồn sự đa dạng sinh học lại vừa giúp loại bỏ hay giảm nhẹ chi phí tái định cư. Họ hy vọng sẽ quyên góp được tiền để tài trợ cho các dự án nghiên cứu độc lập của các nhà khoa học làm đối trọng với các nghiên cứu của chính phủ, vốn bị cho rằng không khách quan, và sau đó công bố các kết quả nghiên cứu trên internet nhằm nâng cao nhận thức của quần chúng về tác hại do những con đập này gây ra.

Bước lùi chiến thuật

Mặc dù có những mục tiêu đầy tham vọng như vậy, song theo chia sẻ của một thành viên sáng lập, CRN chưa bao giờ thực sự hoạt động. Trong năm đầu tiên, họ cũng thực hiện các cuộc họp hằng quý giữa các thành viên, tổ chức một vài sự kiện cùng một số buổi giảng bài, song tất cả đều “không mang lại những thành công đáng chú ý.” Khó khăn của họ nằm ở việc xác định danh nghĩa để hoạt động, bởi họ không thể đăng ký hoạt động chính thức, không có con dấu hay tài khoản ngân hàng. Các lãnh đạo không có kinh nghiệm hình thành hay quản lý mạng lưới, và cũng không có đường hướng chiến lược rõ ràng để vận hành nó. Các vấn đề về quản lý, đặc biệt là về cơ cấu nhân sự và lãnh đạo, đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. CRN hoạt động mà không hề có sự hỗ trợ từ bên ngoài: thay vào đó, các tổ chức thành viên (một số tổ chức được quốc tế tài trợ) tự đầu tư nguồn lực vào phát triển mạng lưới. Quyết định “tự lực cánh sinh” này rất đáng ngưỡng mộ, song nguồn lực mà họ có thể đưa vào khó mà đủ để duy trì mạng lưới.

Những khó khăn về mặt tổ chức vừa mới xuất hiện thì CRN lại phải đối mặt với thách thức mới. Bắt đầu từ năm 2005, những người ủng hộ việc xây đập lên tiếng một cách mạnh mẽ để chỉ trích các nhà hoạt động vì môi trường, và nói rằng các thành viên CRN đã ấu trĩ khi cản đường sự phát triển của dân tộc. Những lập luận này còn được sự hậu thuẫn bởi việc chính phủ xiết chặt chính sách đối với các hoạt động NGO và đưa ra những cáo buộc rằng CRN bị điều khiển bởi các nhóm lợi ích nước ngoài. Một tổ chức thành viên từng bị điều tra vì nhận tài trợ từ một tổ chức nước ngoài. Các tổ chức thành viên khác bị dọa đóng cửa, và cá nhân các lãnh đạo CRN ở tỉnh Vân Nam phải đối mặt với nguy cơ bị bắt giữ bất kỳ lúc nào.

Vì những khó khăn về mặt hoạt động và khó khăn trong việc kêu gọi tài trợ, nên vào tháng 1/2006, các thành viên CRN quyết định chấm dứt hoạt động chính thức, và quay trở lại với cơ cấu phi chính thức trước kia, khi mạng lưới hình thành từ năm 2003. Song việc giải tán mạng lưới chính thức chỉ là một bước lùi về mặt chiến thuật. Các thành viên CRN nhận thấy rằng những hành động công khai của mình đang ngày càng thu hút sự chú ý của những người chống đối, nên họ quyết định thực hiện một động thái chiến lược là lùi về hậu trường. Kể từ năm 2006, các thành viên mạng lưới vẫn tiếp tục họp mặt khi cần thiết, và cùng chung lưng đấu cật trong rất nhiều vấn đề liên quan tới việc bảo vệ môi trường và các dòng sông.

Sau khi quay trở về với cơ cấu hoạt động phi chính thức, các thành viên mạng lưới lựa chọn một cơ cấu mới linh động hơn, theo đó họ tổ chức theo mô hình chuyên môn hóa và sự hợp tác được mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác nhau. Một nhà hoạt động chính trong mạng lưới cho biết: “Chúng tôi đã nỗ lực bằng mọi cách để vận hành nó theo mô hình một mạng lưới chính thức, song điều đó lại không xảy ra như mong đợi. Rồi chúng tôi nghĩ: “Chúng ta có thể hoạt động theo bất kỳ phương thức nào! Trước đây chúng ta cũng từng làm thế rồi cơ mà, đâu nhất thiết phải bó mình trong một phương thức!”…

Cơ cấu mạng lưới phi chính thức hiện nay được cá nhân các thành viên đánh giá là có hiệu quả cao. “Mạng lưới vô hình” thì rất linh hoạt, giảm thiểu rủi ro và sự nhạy cảm về mặt chính trị, và đồng thời cũng cho phép các thành viên cùng sở hữu và tham gia vào mạng lưới.

Các chiến lược kêu gọisự ủng hộ

Chiến lược kêu gọi sự ủng hộ đầu tiên mà CRN sử dụng là hình thức thư ngỏ, tức là một bản kiến nghị được đồng thời gửi tới các lãnh đạo chính quyền và công khai (hoặc rò rỉ) sang các kênh truyền thông và/hoặc trên internet. Kể từ lần đầu tiên sử dụng trong chiến dịch sông Nộ Giang năm 2003, hình thức kêu gọi công chúng ký tên vào thư kiến nghị đã được sử dụng trong hầu hết các hoạt động kêu gọi sau này. Vì được gửi tới cả những người ủng hộ và đối lập, nên thường các lá thư ngỏ này sẽ mang lại kết quả như mong muốn. Chẳng hạn, tháng 8/2005, 61 tổ chức và 99 nhà hoạt động cá nhân cùng ký tên vào một thư kiến nghị để kêu gọi việc tiết lộ công khai bản Đánh giá Tác động Môi trường của Sông Nộ Giang (EIA) và các kế hoạch phát triển thủy điện lớn khác. Tháng 10 cùng năm, Ủy ban Trung ương Đảng thay đổi cách dùng từ trong Kế hoạch Năm năm lần thứ 11 từ “chủ động phát triển các dự án thủy điện” thành “phát triển các dự án thủy điện một cách hợp lý đồng thời bảo vệ môi trường.”9 Tới cuối năm 2007, các công ty xây đập bắt đầu công khai các thông tin EIA trên website bảo vệ môi trường tỉnh Vân Nam.

Thư ngỏ là một chiến thuật hiệu quả để thu hút sự ủng hộ của các tổ chức NGO, học thuật, và tổ chức quốc tế hoạt động theo đường lối ôn hòa. Thư ngỏ cũng được viết nhằm khiến cho lời kêu gọi của CRN mang tính đại diện cho quan điểm của tất cả các nhà ủng hộ môi trường, bất kể lập trường chính trị của họ ra sao, từ đó giảm thiểu rủi ro cho mỗi cá nhân tham gia ký tên.

Thư ngỏ cũng được gửi tới các tập đoàn thủy điện. Việc công kích vào các tập đoàn khả thi hơn so với việc trực tiếp tìm cách thay đổi hành vi của chính phủ, vì các nhà hoạt động có thể nói rằng họ đang ủng hộ chính sách xây dựng “một xã hội hài hòa” của chính phủ, trong khi vẫn có thể chỉ trích rằng các hành động vi phạm pháp luật của các công ty, thậm chí là công ty nhà nước, đang gây ra những bất ổn về xã hội. Xét trong nhiều trường hợp, việc xây đập không phải do các công ty tư nhân – chí ít là trên danh nghĩa – thực hiện; sự nhập nhằng này cho phép CRN lên tiếng chỉ trích công khai bởi vì các công ty đó không trực tiếp do nhà nước sở hữu.

Thành tố chính thứ hai trong hoạt động kêu gọi của CRN liên quan tới truyền thông trong nước và truyền thông trực tuyến. Những thành viên cốt cán chịu trách nhiệm phát triển chiến lược truyền thông cho mạng lưới trước tiên coi chính bản thân họ là những nhà báo, và sau đó là với tư cách thành viên NGO. Mối quan hệ của các nhà hoạt động với truyền thông nhà nước giúp họ có được một “vị trí độc đáo” trước giới cầm quyền. Sức mạnh của truyền thông, theo lời một lãnh đạo một tổ chức phi chính phủ về môi trường, là “không thể coi thường.”

Truyền thông đôi khi có thể giúp tiếp cận các lãnh đạo chính quyền Trung Quốc, đặc biệt là khi thông tin được đăng tải nổi bật trên đúng tờ báo, vào đúng thời điểm. Chẳng hạn, sau khi các thành viên CRN mời một vị phó giám đốc về hưu của Đài phát thanh Trung ương Trung Quốc tham gia chuyến đi thực tế tới các khu vực chịu sự ảnh hưởng của các con đập, vị này đã đăng tải một bài báo trên các tờ nhật báo lớn ở Bắc Kinh và Thượng Hải, kêu gọi các quan chức chính phủ chú ý hơn tới chính sách xây đập. Theo tổ chức Tình nguyện viên vì thế giới xanh, bài báo này đã có tác động lớn tới nhận thức của giới cầm quyền Trung Quốc, lớn hơn nhiều so với khi nó do một nhà báo bình thường viết.

Truyền thông trực tuyến và blog cũng là một hợp phần không thể thiếu trong chiến lược kêu gọi. Hầu hết các bài viết đều xuất hiện trên báo in trước, song sau đó chúng được đăng tải lại trên nhiều website khác nhau, khiến chúng có đời sống tồn tại lâu hơn, và tiếp cận nhiều người hơn so với một tờ nhật báo đơn lẻ.

Thứ ba, các thành viên CRN khẳng định rằng, việc xây dựng mối liên hệ với các cộng đồng ở các khu vực chịu ảnh hưởng của đập là cần thiết, xét cả về mặt nguyên tắc và trong vai trò là rào chắn trước sự công kích của những người ủng hộ xây đập. Mối liên hệ với các cộng đồng địa phương luôn là xương sống trong hoạt động của CRN, mà bắt đầu là những chuyến thực tế của họ tới sông Nộ Giang giai đoạn năm 2003 – 2004. Tổ chức có mối liên hệ gần gũi nhất với các cộng đồng địa phương sinh sống ở khu vực sông Nộ Giang là Lưu vực xanh ở tỉnh Côn Minh. Họ đã tổ chức nhiều chuyến đi thực tế học hỏi lẫn nhau giữa các cộng đồng cùng chịu ảnh hưởng của đập, thậm chí còn đưa lãnh đạo các cộng đồng tới Bắc Kinh để tham gia các hội thảo quốc tế.

Việc lôi kéo sự tham gia của các cộng đồng sở tại là cần thiết để tranh thủ sự ủng hộ của công luận và tác động tới các chính sách của chính phủ. Sự liên hệ với các cộng đồng còn giúp chặn đứng những luận điệu của các thế lực chống đối rằng các nhà hoạt động vì môi trường chỉ là những người theo chủ nghĩa lý tưởng viển vông, chỉ quan tâm tới việc bảo tồn danh lam thắng cảnh mà không quan tâm tới mong muốn phát triển của người dân. Những nỗ lực của các thành viên CRN trong việc dạy chữ và triển khai các dự án phát triển cho khu vực sông Nộ Giang và Kim Sa còn có thể được coi là những tuyên ngôn về tình đoàn kết, bên cạnh những lợi ích hữu hình mà chúng mang lại.

Cơ hội hành động mới

Những thành tích ban đầu của CRN trong việc đẩy lùi các con đập trên sông Nộ Giang đã mở rộng không gian chính trị cho hoạt động ủng hộ môi trường, song nó vẫn chưa trở thành một bước đột phá cho xã hội dân sự như kỳ vọng của một số người. Áp lực từ phía những người ủng hộ xây đập ngày càng gia tăng khi mà Trung Quốc đang phải đối mặt với cơn khát năng lượng ngày một bức bách hơn, nhất là đối với những nguồn năng lượng tái sinh như thủy điện. Khi Thủ tướng Ôn Gia Bảo hết nhiệm kỳ vào năm 2013, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc lật lại vấn đề xây dựng đập và bật đèn xanh cho dự án sông Nộ Giang được tiếp tục. Đây là một quyết định không mong muốn đối với các thành viên của CRN, song nó cũng là hồi chuông nhắc nhở rằng việc phát triển xã hội dân sự không tuần tự tịnh tiến, không có người thua kẻ thắng rõ ràng. Dù thành công hay thất bại  thì một sự kiện đơn lẻ không bao giờ là phần kết của câu chuyện, bởi công cuộc kêu gọi chính sách kéo dài theo nhiều thời kỳ, nhiều chu kỳ khác nhau. Các nhà hoạt động không chỉ không thể ra quân trận nào là chắc thắng trận.

Tuy nhiên, một số nhà phân tích cho rằng đường lối kêu gọi của CRN đã thúc đẩy môi trường sinh hoạt “dân chủ”.10 Thoạt nghe, có vẻ như đây là một sự phóng đại. Nhưng nếu nhìn nhận dân chủ không trên cương vị là một hình thức thể chế, mà là sự nâng cao sự tham gia của dân chúng vào hệ thống chính trị Trung Quốc hiện thời, thì những nhận xét trên cũng có ý nghĩa. Rõ ràng, các thành viên của CRN đã khẳng định quyền được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách của nhà nước. Nhờ những thông tin công khai trên truyền thông, một bộ phận công chúng được nâng cao nhận thức về các vấn đề môi trường – trong trường hợp này là những con đập. Các cộng đồng ở những khu vực bị ảnh hưởng cũng có thêm thông tin, và ở một số trường hợp, họ còn tích cực chủ động tham gia, dù mới chỉ ở mức hạn chế. Bất chấp những rào cản về chính trị và hạn chế về nguồn lực cũng như sự tài trợ từ bên ngoài, CRN vẫn duy trì hoạt động kêu gọi của mình trong một thời gian dài, và đóng góp vào việc thay đổi dần môi trường chính trị, hướng tới quá trình ra quyết định công khai hơn trong vấn đề xây đập – vốn là một mối quan tâm chính của phong trào hoạt động vì môi trường ở Trung Quốc. Trong khía cạnh này và nhiều khía cạnh khác, kinh nghiệm của CRN đã mang lại những bài học quý giá cho những nhà hoạt động xã hội dân sự ở các nước láng giềng.

Bùi Thu Trang dịch – Nguồn: tiasang.com.vn

1 Brantly Womack, Trung Quốc và Việt Nam: Chính trị đối xứng, 2006.

2 Để tìm hiểu thêm thông tin về xã hội dân sự và các tổ chức NGO ở Trung Quốc, mời xem thêm: Wang Ming, ed. Xã hội dân sự mới nổi ở Trung Quốc, 2011; Peter Ho và RL Edmunds, China’s Embedded Activism, 2008; Lu Yiyi, Các tổ chức phi chính phủ ở Trung Quốc: sự trỗi dậy của nền tự chủ độc lập, 2008 (và nhiều nguồn khác).

3 Jonathan Unger, Các hiệp hội và Nhà nước Trung Quốc, 2008.

4 Liang Congjie and Yang Dongping, eds. Niêm giám môi trường Trung Quốc: Khủng hoảng và bước đột phá trong môi trường Trung Quốc, 2007, trang 63-88; Andrew Wells-Dang, Mạng lưới xã hội dân sự ở Trung Quố và Việt Nam, 2012, chương 6.

5 Sun Yanfei and Zhao Dingxin, ‘Các chiến dịch môi trường,’ trong O’Brien K, ed. Phản đối công khai ở Trung Quốc, 2008, trang 144-62.

6 Yan Yan, ‘Quyền lực truyền thông ở Trung Quốc qua phong trào phản đối xây đập,’ Kexue Xinwen [Tin khoa học], 22/10/2009.

7 Yang Guobin and Craig Calhoun, ‘Truyền thông, xã hội dân sự, và sự trỗi dậy của không gian công luận xanh ở Trung Quốc,’ trong Ho and Edmonds, eds. Trào lưu hoạt động ở Trung Quốc, 2008, trang 69-88.

8 Bảy thành viên đầu tiên trong mạng lưới bao gồm các tổ chức: Những người bạn của tự nhiên, Ngôi làng toàn cầu Bắc Kinh, Tình nguyện viên vì trái đất xanh, Lưu vực xanh, Viện Môi trường và phát triển, Viện giáo dục Brooks, và Hãng phim Thiên nhiên hoang dã Trung Quốc. Mạng lưới này có tổng cộng 10 tổ chức tham gia. Để tìm hiểu thông tin về thời gian xuất hiện của các phong trào hoạt động chống việc xây đập ở Trung Quốc, mời truy cập http://www.fon.org.cn/content.php?aid=11750.

9 Yang Dongping, ed. Báo cáo thường niên về môi trường và phát triển ở Trung Quốc (Zhongguo Huanjing Lupishu). Bắc Kinh: Nhà xuất bản Khoa học xã hội hàn lâm, 2009.

10 Xu Nan, ‘Lịch sử hình thành các tổ chức NGO vì sự nghiệp bảo vệ môi trường ở Trung Quốc,’ Tuần báo Nam Phương Chu Mạt, 9/10/2009, Andrew Mertha, Những thủy binh Trung Quốc: Hành động của công dân và sự thay đổi chính sách, 2008.

1 Phản hồi cho “Xã hội dân sự Trung Quốc: Một tham khảo”

  1. DẶM NGÀN says:

    LUẬN VỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI

    Chính trị như con dao hai lưỡi. Hoặc nó giải phóng xã hội hoặc nó nô lệ xã hội.
    Nó giải phóng xã hội khi nó đi gần lại xã hội dân sự. Nó nô lệ xã hội khi nó đi xa ra xã hội dân sự.

    Chính trị mặt khác lại đi lền với nền hành chánh, hay guồng máy hành chánh. Có nghĩa không có hành chánh cũng không có chính trị. Trái lại xã hội dân sự vẫn luôn tồn tại dù không thông qua guồng máy hành chánh.

    Như vậy guồng máy hành chánh hay bộ máy hành chánh chính là bộ máy cai trị tất yếu. Nó là công cụ đắc lực nhất của chính trị. Nó cũng có chức năng giải phóng xã hội hoặc chức năng nô lệ xã hội.

    Chức năng giải phóng xã hội thì nó là công cụ giúp ích cho xã hội dân sự. Nó có chức năng nô lệ xã hội khi nó làm tay sai cho chính trị, làm công cụ của chính trị để đàn áp, khống chế xã hội, tức đàn áp kiềm kẹp xã hội dân sự.

    Đúng ra, chính đảng hay đảng phái chính trị là công cụ của xã hội dân sự, bản chất của nó là xã hội dân sự. Nhưng khi đảng phái chính trị lại đi gần lại với guống máy hành chánh, nó đã đi xa xã hội dân sự, phản lại chức năng và bản chất ban đầu của nó. Nó trở thành dùng công cụ chính trị là guồng máy hành chính để giam hãm xã hội dân sự. Đó là con đường phản bội lại xã hội dân sự là nguồn gốc phát sinh của đảng phái chính trị.

    Song nói cho cùng, yếu tố cơ bản nhất của xã hội nói chung hay xã hội dân sự nói riêng tức nói đúng nghĩa vẫn là mỗi cá nhân con người. Khi mỗi cá nhân con người tự phủ nhận chính mình, tự biến mình thành công cụ cho guồng máy chính trị, tức guồng máy hành chánh cai trị, có nghĩa tự cá nhân đó hủy hoại xã hội dân sự để đưa toàn cả xã hội vào phục vụ cho hành chánh, cho chính trị một cách sai trái và nghịch lý.

    Bởi con người, xã hội dân sự là mục đích sau cùng, không phải guồng máy hành chính hay guồng máy chính trị. Cái sau chỉ là công cụ cho cái trước, không phải ngược lại. Làm ngược lại là phản bội con người, phản bội xã hội, là phi nhân văn, là mất nhân tính.

    Các Mác, Lênin, Mao Trạch Đông đều chủ trương dùng guồng máy chính trị, tức guồng máy hành chính để khống chế, nô lệ hóa xã hội dân sự khách quan tự nhiên, đó là những quan điểm cực kỳ thô lổ, phản động, phản tiến hóa, phản nhân bản vì nó làm nô lệ hóa mọi người, nô lệ hóa xã hội.

    Bởi vậy nếu có xã hội dân sự hoạt động riêng lẻ và độc lập hiện nay tại Trung Quốc thì chỉ thật sự trong gà hóa cuốc hay chỉ nói điêu mà không đúng sự thật. Bởi vì ở TQ vẫn chỉ có duy nhất đảng CS khống chế tất cả, nên nó cũng khống chế toàn xã hội, bởi nó bao trọn mọi khía cạnh hoạt động của hành chánh, chính trị hay chính quyền. Như thế nó đã hi sinh xã hội dân sự như là mục đích cho công cụ của nó tức hành chánh và chính trị.

    Sự hiểu nhầm lẫn của Mác và Lênin về chính trị là một quan niệm hết sức sai trái và và nguy hiểm vì nó dẫn tới mọi hậu quả tiêu diệt tối đa xã hội dân sự. Nguyên do sự hiểu lầm đó là sự đánh đồng xã hội dân sự với khái niệm tư sản và tư bản. Cho rằng xã hội tư sản hay tư bản là xã hội dân sự nên cần phải tiêu diệt để tiến tới xã hội vô sản tức xã hội độc tài độc đoán kiểu chuyên chính giai cấp tức chuyên chính vô sản.

    Mác và Lênin đều coi đó là thời kỳ quá độ đi lên của lịch sử.

    Thực chất đó không hề là thời kỳ quá độ đi lên như họ nghĩ mà thực sự là thời kỳ vĩnh viễn nô lệ hóa xã hội theo kiểu đi xuống. Nên lý luận sai lầm của Mác và Lênin về mặt khoa học lịch sử của xã hội lại trở thành tội lỗi hay tội ác với con người và xã hội loài người vì nói vĩnh viễn tiêu diệt hay xóa sổ xã hội dân sự khách quan tự nhiên mà toàn thể loài người trên toàn thế giới luôn cần phải có.

    NON NGÀN
    (11/8/14)

Phản hồi