Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/ Quốc[1]
Lời nói đầu: Khi khảo sát về Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt Phan Khôi, chúng tôi phải tìm hiểu tại sao, sau khi ở Pháp về, Tây Hồ tìm gọi và trao lại “di sản tinh thần” cho Phan Khôi. Sự tìm hiểu này dẫn đến giai đoạn Phan Châu Trinh ở Pháp, và vai trò của ông trong nhóm Ngũ Long. Đi sâu hơn nữa, đọc những bài báo tiếng Pháp ký tên Nguyễn Ái Quốc, chúng tôi khám phá ra một sự thật: những bài báo này phải do những người rất am tường tiếng Pháp, thâm hiểu văn hoá và triết học Tây Phương, lại có văn tài, mới có thể viết được.
Về mặt ngữ văn, bất luận những ai không học trường Pháp từ nhỏ, cả những người học trường Việt (như chúng tôi) dù có ở Pháp đến 50 năm, cũng không thể viết được như thế; bởi không có cái nền cơ bản về tiếng Pháp, không nắm bắt được lịch sử và sắc thái (nuances) của mỗi từ, của các thì (temps, modes) trong cách chia động từ, và nhất là lối chơi chữ của người Pháp. Đại để cũng giống như: một người mới học tiếng Việt vài năm không thể viết được như Phan Khôi. Sự ngạc nhiên này dẫn đến việc khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc. Loạt bài này đã đăng trên RFI, ở đây chúng tôi bổ sung thêm một số điểm. – Paris 20/2/2011 – Thụy Khuê
———————————————-
Bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập, 12 cuốn (nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000), 8410 trang, gồm:
- 80% diễn văn, công văn chính thức, do các bí thư viết, văn phong thay đổi tùy theo sách lược chính trị mỗi thời và bút pháp từng người.
- 5% chú thích.
- 15% còn lại là văn bản (gần 1000 trang), có thể chia làm hai phần: Phần dịch từ tiếng Pháp những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và phần tiếng Việt gồm những bài ký bút hiệu khác.
1- Phần tiếng Việt, gồm những bài đăng trên báo ở Việt Nam, ký C.B (tập 7 và 8; C.B là viết tắt của Của Bác, theo Bùi Tín), Trần Lực (tập 9 và 10) và Chiến Sĩ (tập 11). Loạt bài tiếng Việt phản ảnh một tư chất: thực tiễn, ngắn gọn, dễ hiểu, không lý thuyết, không lý luận, không khôi hài, có lẽ đó mới đích thực là văn viết của Hồ Chí Minh.
Bài Việt Nam yêu cầu ca, có thể xem là bài thơ đầu tay, phản ánh lối làm thơ nôm na của ông. Sau này, còn có nhiều bài khác, cùng một phong cách như thơ chúc Tết, thơ Trung thu và thơ ngâm vịnh. Lối thơ này được in lại trong tập 3.
2- Phần ký Nguyễn Ái Quốc gồm 735 trang (469 trang tập 1 và và 239 trang tập 2) là bản dịch những bài viết trên báo Pháp, từ 1919 đến 1927. Bản dịch, đôi khi chưa lột hết cá tính của nguyên văn, nhưng cũng làm lộ phẩm chất, tư tưởng, lòng ái quốc và chí khí của người viết.
Chính loạt bài này đã “thành danh” Nguyễn Ái Quốc, xác định “tư tưởng Hồ Chí Minh”, làm cho ông trở thành thần tượng ngay từ thập niên 1920-1930 của thế kỷ trước.
Nguyên bản tiếng Pháp trên báo, được ký dưới hai dạng: Nguyễn Ái Quấc, trong thời gian đầu, sau này có lẽ Nguyễn Thế Truyền đổi lại là Nguyễn Ái Quốc. Chúng tôi dùng cả hai cách viết. Phần nghiên cứu này có hai mục đích:
- Truy nguyên lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
- Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc.
**
Muốn truy nguyên lai lịch Nguyễn Ái Quốc, chúng ta phải trở lại sự thành lập nhóm Người An Nam yêu nước.
1- Sự thành lập nhóm Người An Nam yêu nước
Xin tóm tắt một số dữ kiện chính:
Phan Văn Trường sang Pháp cuối 1908 (nghị định ngày 8/11/1908), dạy tiếng Việt ở trường Sinh ngữ Đông phương và học Luật. Đầu năm 1912, ông lập hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des Compatriotes). Đậu cử nhân luật. Nhập tịch Pháp, chuẩn bị nghề luật sư. Khoảng 1913-1916, Phan Văn Trường có appartement nhỏ ở rue Berthollet, Paris 5e, ông giữ địa chỉ này trong thời gian nhập ngũ và bị tù.
Phan Châu Trinh và con trai Phan Châu Dật, rời Sàigòn tháng 5/1911. Đến Paris, thời gian đầu ở nhà trọ (pension de famille) sau đổi sang khách sạn (hôtel). Phan Châu Dật học một trường ở khu Montparnasse. Tới tháng 4/1913, Phan Châu Trinh còn ở hôtel phố l’Abbé-de-l’Epée, Paris 5e. Tháng 10/1913, ông dọn sang khách sạn phố Cujas, Paris 5e.
Tháng 10/1912 Phan Châu Trinh gửi bản thỉnh nguyện lên hội Nhân quyền (với sự giúp đỡ của Phan Văn Trường: dịch hoặc viết sang tiếng Pháp), nhờ can thiệp vào việc trả tự do cho các nhân sĩ bị bắt cùng với Phan Châu Trinh, năm 1908, trong vụ Trung Kỳ dân biến (tài liệu đăng trong Bulletin Officiel de la Ligue des droits de l’homme et du citoyen, số 20, ngày 31/10/1912). Hai người bị buộc tội chống Pháp, lần đầu.
Vì hoạt động của hội Đồng bào thân ái, Phan Văn Trường bị mất việc dạy học, Phan Tuấn Phong và Phan Văn Kiên, anh và em của ông ở Hà Nội bị bắt, bị đầy sang Nouvelle-Calédonie.
Ngày 13/3/1914, Phan Văn Trường diễn thuyết về đề tài Les revendications indigènes (Những thỉnh nguyện của người bản xứ) tại trường Cao Đẳng Xã Hội (Ecole des Hautes Études Sociales), bài nói chuyện này là nguồn cội của bản Thỉnh nguyện của Dân tộc An Nam (Revendications du Peuple Annamite), gửi Hội nghị hoà bình thế giới ở Versailles, năm 1919.
Đại chiến thứ nhất bùng nổ, tháng 7/1914 Phan Văn Trường bị gọi đi lính (vì có quốc tịch Pháp), đóng ở trung đoàn 102 bộ binh, tại Chartres. Giữa tháng 8/1914, appartement của ông ở rue Berthollet, Paris bị an ninh lục soát, nhiều giấy tờ và tài liệu bị tịch thu, trong đó có bài diễn văn đọc tại trường Cao đẳng xã hội. Ngày 12/9/1914, ông bị hiến binh bắt, giam vào nhà tù Chartres. Cùng thời gian này, Phan Châu Trinh bị bắt ở Paris, tại khách sạn phố Cujas.
Ngày 13/9/1914, Phan Văn Trường bị giải lên Toà án binh Paris, bị giam vào binh ngục Cherche-Midi, Paris 6e. Phan Châu Trinh bị giam vào ngục Santé, Paris 13e. Tội danh: Xúi giục sinh viên du học căm thù chính phủ Pháp, tụ tập thành hội, gieo mầm nổi loạn. Cả hai bị giam đến tháng 7/1915 mới được thả. Trong thời gian này Thiếu Tá Roux hết sức bênh vực Phan Châu Trinh và luật sư Marius Moutet, vận động cho Phan Văn Trường được tại ngoại.
Hội Đồng Bào Thân Ái phải giải tán.
Ra tù, Phan Châu Trinh bị cắt trợ cấp, phải học nghề rửa ảnh, sống ở Paris và Pons (vùng Charente-Maritine, gần Đại Tây Dương). Phan Văn Trường bị chuyển xuống Công binh xưởng Toulouse (Arsenal de Toulouse) làm việc văn phòng và thông ngôn cho lính và thợ Việt. (Trong thế chiến có khoảng 80.000 người Việt sang Pháp làm lính thợ).
Từ 1916 đến 1920, Nguyễn Thế Truyền học kỹ sư ở Toulouse. Rất có thể Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đã bí mật lập hội Người An Nam yêu nước trong thời gian này. Nhiều thông tin đồng quy là hội Người An Nam yêu nước được thành lập năm 1917.
1918, Nguyễn An Ninh sang Pháp học luật tại Sorbonne.
Tháng 6/1919, Nguyễn Tất Thành từ Luân Đôn qua Paris.
2- Hoạt động của Phan Văn Trường tại Công binh xưởng Toulouse
Ra tù, Phan Văn Trường tiếp tục là phần tử “nguy hiểm”, luôn luôn bị theo dõi. Mật thám dò hỏi người concierge (người giữ nhà) về mọi hoạt động, giao du của ông. Trong thời gian ở Toulouse, ông không ở trong trại lính mà thuê nhà ở riêng, đổi nhà 2 lần, đều ở Phố Taur (Rue du Taur). Trong thời gian ở Toulouse, ông gặp và chung sống với một phụ nữ Pháp, sau này có một con trai, tên là Robert Phan Văn Trường (sinh năm 1921).
Tháng 9/1917, vì việc ông dịch đơn xin hồi hương cho một người thợ, bộ thuộc địa mở cuộc điều tra. Viên sĩ quan phụ trách tìm cách ép những người lính thợ phải khai rằng chính Phan Văn Trường đã “chủ mưu xúi giục” họ viết đơn xin giải ngũ. Thực ra, Phan chỉ dựa trên sự kiện: chính quyền thuộc địa dán áp-phích quảng cáo khắp nơi, rằng đi chỉ một năm rồi về, để khuyến dụ mọi người “tình nguyện” đi lính cho Tây. Nhưng lần này Phan Văn Trường không bị bắt, một phần vì Thiếu tá chỉ huy trưởng Malacamp có thiện cảm với ông, và nhất là nhờ những người lính thợ, không những không khai mà còn nói chính ông Phan đã ngăn cản chúng tôi nộp đơn xin giải ngũ! [Theo Une histoire de conspirateurs annamites à Paris (Chuyện những người An Nam âm mưu tại Paris), hồi ký Phan Văn Trường, L'insomniaque, 2003, trang 170-171].
Sự kiện này cho thấy tinh thần tương trợ của đồng bào và nói lên bộ mặt chìm của an ninh: Bộ thuộc địa vẫn nghi ngờ hoạt động bí mật của Phan Văn Trường tại Công binh xưởng Toulouse, họ theo dõi để diệt trừ.
Vậy hoạt động của Phan Văn Trường tại đây là gì?
Một mật báo, không ghi rõ ngày, viết:
“Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực. Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia. Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc.” (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 44)
Nội dung mật báo này có 2 câu đáng chú ý:
- Câu “Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc”, có chỗ sai, vì 1915 Nguyễn Tất Thành chưa sang Paris, và chưa chắc đã có tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng cũng có thể đúng, nếu thám tử coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thế Truyền hay một người nào khác.
- Câu: “Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực”, có lẽ đúng. Nếu đúng, nó xác định hoạt động và mối liên lạc giữa Phan Văn Trường với binh lính, sĩ quan Việt, từ tháng 7/1915 đến tháng 5/1919, tại Toulouse. Trụ sở hội ở đâu, không thấy nói rõ, có thể là nhà Phan Văn Trường, phố Taur, hoặc một nơi nào khác.
Họ gặp nhau để làm gì?
Phan Văn Trường trong hồi ký chỉ viết về việc ông bị theo dõi, bị nghi “oan” vì đã dịch thư xin hồi hương cho một đồng bào, mà không hở chút gì về hoạt động của ông tại Toulouse. Lý do dễ hiểu: hồi ký Phan Văn Trường đăng từng kỳ trên báo La Cloche Fêlée (Chuông Rè), từ 30/11/1925 đến 15/3/1926, chủ đích để “vạch trần chính sách thực dân” nên không phải việc gì cũng “công bố” được.
Về tội xúi giục binh lính Việt xin hồi hương, chắc không oan, vì đó là chiến lược của Phan Văn Trường: vận động một phong trào phản chiến trong lòng những sĩ quan và binh lính Việt. Và ông luôn luôn khôn khéo, không ra ngoài khuôn khổ của luật pháp: Việc họ đòi hồi hương, theo đúng hạn kỳ một năm mà chính phủ Pháp đã hứa hẹn, là đúng luật. Việc này Phan còn làm lại lần thứ nhì, trên báo L’Annam ở Sài Gòn năm 1926, kêu gọi lính Việt ở Trung Hoa, ngừng chiến đấu cho Pháp, và lần thứ hai này ông bị bắt, bị kết án cùng với một số tội trạng khác, phải sang Pháp tự biện hộ, nhưng vẫn bị tù (1929).
3- Nội dung các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc
Một mặt khác, khi đọc toàn bộ những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc và hai tác phẩm Bản Án chế độ thực dân và Đông Dương (1923-1924), chúng ta có thể hiểu được hoạt động của nhóm Người An Nam Yêu Nước tại Toulouse: Nội dung tố cáo tội ác thực dân một cách xác thực, toàn diện và ghê gớm, chứa đựng trong toàn bộ các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc này, cho chúng thấy đây là công trình dài hơi đã được thu thập tài liệu một cách quy mô trong một thời gian dài, trước khi các tác giả chấp bút.
Vì vậy thời gian Phan Văn Trường ở Toulouse là thời gian hình thành cuộc cách mạng bằng ngòi bút trên báo chí Pháp từ 1919 trở về sau.
Từ 1915 đến 1919, tại Toulouse, nhóm Yêu Nước đã tập hợp tài liệu và nhân chứng để chuẩn bị cho cuộc tranh đấu công khai bằng ngòi bút:
1- Hàng ngày tiếp xúc với lính thợ và sĩ quan Việt, Phan Văn Trường đã thu thập những nhân chứng quan trọng về chính sách dã man của thực dân. Đó là kho lưu trữ lớn nhất, gồm những thông tin từ hai phía: phía chính quyền, qua hồ sơ quân đội Pháp mà Phan tiếp cận được và phía nạn nhân, qua những điều mà người lính thợ Việt Nam kể lại với ông, có những trường hợp cá nhân cụ thể.
3- Phan Châu Trinh có thông tin từ những người Việt sang Pháp, đem lại.
5- 1918, Nguyễn An Ninh từ Sài Gòn sang (trước khi đi Pháp, Ninh đã ra Hà Nội học hai năm). Ông biết rõ tình hình cả Nam lẫn Bắc. Sau này, ông còn về nước nhiều lần.
6- Nguyễn Thế Truyền sau khi học xong ở Toulouse, cũng về Bắc một năm, từ tháng 8/1920 đến tháng 8/1921, trong thời gian này, ông quan sát thấy hiệu lực của phong trào: tên Nguyễn Ái Quốc được người trong nước coi như một vị anh hùng (Nguyễn Thế Truyền kể lại trong bài “Một người Bôn-Sê-Víc da vàng”).
Khi trở lại Paris, Nguyễn Thế Truyền mở rộng địa bàn tranh đấu trên tờ Le Paria (Người cùng khổ) của hội Liên hiệp thuộc địa, cùng các nhà văn, nhà báo Châu Phi, Madagascar.
Tại trụ sở báo Le Paria, Nguyễn Thế Truyền thu thập thêm thông tin, qua nhân chứng của các nhà báo Châu Phi và bạn đọc ở các thuộc địa gửi về toàn soạn.
Tất cả những dữ kiện đó, tạo ra một ngân hàng thông tin, mà các tác giả sử dụng để viết những bài báo, đúng ra là những bản cáo trạng, phơi bày sự thật về chính sách thực dân tại Đông Dương, dưới một bút danh bí mật Nguyễn Ố Pháp, rồi Nguyễn Ái Quấc/Quốc. Nguyễn Tất Thành là người đứng ra nhận tên Nguyễn Ái Quốc.
Khi viết về thời kỳ lịch sử này, phần lớn, nếu không muốn nói là hầu hết các nhà nghiên cứu Pháp-Việt đều coi Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc là ba nhân vật chính. Điều đó không sai. Nhưng sự sai lầm đến từ sự kiện Nguyễn Tất Thành/Hồ Chí Minh không phải là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sở dĩ đến ngày nay, vẫn chưa có ai soi tỏ những sai lầm này, vì ba nguyên do sau đây:
1- Hồ Chí Minh “chính thức” nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và khi viết hồi ký, ông đã tạo ra các bằng chứng để biện minh điều đó.
2- Sau khi thua trận, người Pháp có mặc cảm tự ti đối với Hồ Chí Minh. Mặc cảm này dường như đã thấm vào vô thức của nhiều người, kể cả các nhà nghiên cứu đứng đắn.Vì vậy, dù họ có đặt ra một số nghi vấn về tác giả Nguyễn Ái Quốc nhưng rồi vẫn mặc nhiên coi Nguyễn Ái Quốc là Hồ Chí Minh. Trường hợp Thu Trang-Gaspard trong cuốn Hồ Chí Minh à Paris, cũng tương tự. Riêng đối với một số đảng viên cộng sản Pháp (như sử gia Alain Ruscio, hay Léo Poldès, trách nhiệm Câu lạc bộ Faubourg), thì việc tung hô lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng mọi giá còn có mục đích tuyên truyền cho đảng Cộng sản.
Một lẽ khác: Nhiều người Pháp, một mặt, không biết rõ những khó khăn của một người ngoại quốc học tiếng Pháp; một mặt, tưởng rằng Nguyễn Tất Thành cũng như hầu hết những thanh niên Việt sang Pháp thời ấy, đều rành tiếng Pháp; sử gia Daniel Hémery còn tin rằng Hồ Chí Minh đã có bằng Certificat d’études primaires. Ngoài ra, có người cho rằng ai viết thì cũng thế thôi, nhưng nếu lãnh tụ vĩ đại viết thì mới đáng kể.
Nhưng đối với người Việt, dưới vấn đề văn bản, còn cả một sự ngụy trang lịch sử không thể bỏ qua.
3- Sự nhầm lẫn của các nhà nghiên cứu, còn đến từ một sự kiện khác: việc sử dụng những báo cáo sai lầm của mật thám. Yếu tố sau cùng này là rường mối của các sai lầm mà chúng tôi gọi là sai lầm của những nhà nghiên cứu đứng đắn và sự kiện này cần được mổ xẻ, phân tích kỹ càng.
4- Sự nhầm lẫn của mật thám
1- Chính quyền thuộc địa dùng nhiều mật thám người Việt, để dễ len lỏi vào môi trường Việt kiều. Những người có bí danh như Jean (chuyên theo dõi Nguyễn Tất Thành) hay Désiré (theo dõi Nguyễn Thế Truyền) đều là người Việt. Trong số mật thám có cả các quan: Đốc Phủ Bảy là một trường hợp.
Mật thám Nguyễn Như Chuyên là “sinh viên”, gần gụi Phan Châu Trinh, làm thông dịch cho ông, trao đổi thư từ “tâm huyết” với ông trong nhiều năm, được ông coi như đồ đệ.
Chuyên cũng mon men đến với Phan Văn Trường. Nhưng ông Trường là người cực kỳ thận trọng, đã cảnh cáo ông Trinh, nhưng ông Trinh không nghe. Trong hồi ký, ông Trường trách ông Trinh “khinh xuất” là như thế. Chính Nguyễn Như Chuyên đã mạo khai để Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt về tội “phiến loạn”, bị đi tù 11 tháng (1914-1915). Và Nguyễn Như Chuyên còn được Pháp trao cho nhiệm vụ vào tù chung với Phan Văn Trường và giả điên, để thuyết phục Phan Văn Trường viết đơn xin ân xá, nhưng không thành.
Pháp dùng mật thám theo dõi các thân chủ của Phan Văn Trường, đe dọa họ, nếu cứ tiếp tục mượn Phan Văn Trường, một kẻ phiến loạn, chống nhà nước Pháp, biện hộ, thì có ngày sẽ mang họa. Phan Văn Trường nêu những vụ việc này trên bức thư ngỏ gửi Bộ Trưởng Nội Vụ và Thuộc Điạ, đăng trên báo Le Paria. (Hồi ký Phan Văn Trường).
2- Mật thám có thể đưa những thông tin sai lầm:
Cuốn Cochinchine (Nam Kỳ) (Rieder, 1926, Viviane Hamy, 1997) của Léon Werth, là một tác phẩm văn học giá trị, nói lên sự khâm phục kín đáo của tác giả đối với Nguyễn An Ninh và mô tả tỷ mỷ đời sống hàng ngày ở Nam kỳ dưới sự áp bức của bọn thực dân vô giáo dục trên một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời nhưng cam chịu.
Léon Werth kể lại câu chuyện sau đây: hai mật thám người Việt có nhiệm vụ theo dõi Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, nhưng thay vì theo Ninh, họ lại đi theo Dejean de la Bâtie (Chủ nhiệm báo La cloche fêlée, người Pháp lai, đồng chí của Nguyễn An Ninh). Khi Werth và Ninh rời Sài Gòn đi Lục tỉnh, họ vẫn tiếp tục theo dõi la Bâtie và làm báo cáo hàng ngày. Đến lúc cơ quan an ninh ở Rạch giá đánh điện lên, Sài Gòn mới biết là nhầm, hình như hai người này bị đuổi! (Cochinchine, trang 156)
3- Theo dõi Nguyễn Ái Quốc:
Vấn đề theo dõi Nguyễn Ái Quốc, còn phức tạp hơn nhiều. Vì những lý do sau đây:
a- Người Pháp (và người Tây phương nói chung) thường dùng Họ thay Tên. Vì vậy, đối với người Pháp, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Ái Quấc, đều là M. Nguyễn.
b- Thời gian đầu, mật thám chưa phân biệt được 3 người họ Nguyễn: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành. Vì vậy, có một số mật báo hoàn toàn trái ngược nhau, ví dụ tả Nguyễn Ái Quốc là người miền Nam (Nguyễn An Ninh), học ở Pháp từ nhỏ (Nguyễn Thế Truyền), có mật báo còn nhầm Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Như Chuyên (là kẻ theo dõi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường)… Đến khi chụp được ảnh Nguyễn Tất Thành, đưa cho những người đã đi theo những Nguyễn khác, xem. Lúc đó mới vỡ lẽ.
c- Chính bộ ba Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành cũng tung hoả mù: Truyền và Ninh cố tình giao các văn bản họ đã viết cho Thành đem khoe với mật thám rằng mình vừa viết xong. Vì thế, từ cuối năm 1919, đã có những bản mật báo ghi rõ:
Nguyễn Ái Quốc vừa viết xong cuốn sách này, dịch cuốn sách kia… Daniel Hémery đã dựa vào những báo cáo này, để viết: “Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã “sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp), có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation (Bản án Chế độ thực dân) và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L’Esprit des lois (Vạn pháp tinh lý) sang Quốc ngữ.” (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, De L’Indochine au Vietnam, Gallimard, 1990, trang 45). Điều này không thể tin được vì Nguyễn Tất Thành mới sang Pháp từ tháng 6/1919.
Việc vở kịch Le dragon de bambou (Rồng tre), là một ví dụ, có thể Truyền (hay Ninh) viết, rồi đưa Thành đem đến cho Léo Poldès, đảng viên cộng sản, người điều khiển các buổi nói chuyện ở Câu lạc bộ Ngoại ô (Club du Faubourg), nơi mà Nguyễn Tất Thành, từ khi ở ngõ Compoint, Paris 17e, hay đến để tập nói tiếng Pháp giữa công chúng. Léo Poldès đọc thích quá, và ông đã giúp việc dựng vở kịch (được trình diễn một lần ở lễ hội L’Humanité năm 1922). Léo Poldès nhận xét về vở kịch này: “Hoàn chỉnh, hóm hỉnh, đối thoại hài hước quất vun vút như roi, sống động như lối khôi hài của Aristophane [Kịch tác gia danh tiếng của Hy Lạp]” (Trích bài của Léo Poldès, trên báo Ici Paris Hebdo ngày 11/6/1946, in lại trong Hồ Chí Minh Le procès de la Colonisation française, L’Harmattan, 2007, trang 195).
d- Mật báo ngày 28/11/1919, mô tả khá đúng chân dung Nguyễn Tất Thành như sau:
“Chúng tôi thấy ở Paris có một người An Nam hình như gốc Bắc, tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hắn giấu kỹ danh tánh thật. Chính hắn đã ký những bản truyền đơn đòi tự trị ở Đông Dương. Hắn ở số 6, villa des Gobelins, nhà luật sư Phan Văn Trường, hắn chuyên về vấn đề chính trị và cả ngày ở thư viện Quốc gia, phố Richelieu, thư viện Sainte-Geneviève, Place du Panthéon, ở văn phòng Hội Nhân Quyền, phố L’Université, hoặc nậm nọa với bọn khả nghi cùng chủng loại.
Hắn thư từ với Phan Châu Trinh ở Pons, Phan Văn Trường và Khánh Ký hiện đang ở Mayence. Tình báo cho biết tại nhà số 6 Villa des Gobelins bọn An Nam có khi tụ họp tới 1 giờ sáng, cãi nhau ỏm tỏi đến nỗi láng giềng phải than phiền. (…) Các thám tử của ta theo dõi rất sát tên được gọi là Nguyễn Ái Quốc, một người đã kết thân được với hắn, sớm muộn gì rồi hắn cũng sẽ thổ lộ cho biết danh tánh thật”. (Thu Trang- Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 82-83)
Theo Phan Văn Trường, nhà ông lúc nào cũng có vài người canh gác bên kia đường (villa des Gobelins là một ngõ cụt nhỏ, immeuble khang trang). Vậy thám tử “tìm thấy” Nguyễn Tất Thành ở số 6 villa des Gobelins là đương nhiên, và Thành nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, cũng đương nhiên. Sự tranh luận sôi nổi có thể về đề tài những bài báo sẽ viết. Thời điểm ấy, theo Phan Văn Trường, mọi người đều đến thư viện, đọc và học, vì không có tiền mua than củi để sưởi nhà, rất dễ nhầm người này với người kia, nhất là những người cùng tên Nguyễn.
e- Ngày 12/10/1920, Tổng Thanh Tra Pierre Guesde viết bài tổng kết gửi lên Bộ trưởng, tình hình còn hết sức lộn xộn: Cơ quan an ninh Pháp vẫn chưa xác định được ai là người viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, vì họ không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc. Điều này có thể phát xuất từ sự so sánh khả năng nói tiếng Pháp của Nguyễn Tất Thành trong lúc hỏi cung với tiếng Pháp của các bài báo (viết như người Pháp). Đứng trước tình trạng: Có một “bóng ma” tên Nguyễn (Nguyễn Ái Quốc) được mô tả trong các bản mật báo: diễn thuyết, có mặt trong các thư viện, là tác giả các bài báo. Và một “người thật” là Nguyễn Tất Thành tự xưng mình là Nguyễn Ái Quốc.
Pierre Guesde, tường trình về sự hoang mang của mật vụ Pháp như sau:
“Paris ngày 12 tháng 10 năm 1920
Thưa ông Bộ trưởng,
(…) Trước hết, Nguyễn Ái Quốc, giấu danh tánh thật của y. Y không muốn bị lộ tung tích; y đã đổi tên nhiều lần khi di chuyển từ nơi này đến nơi khác, cái tên Nguyễn Ái Quốc hiện nay chỉ đánh lừa được kẻ không biết tiếng An nam; Nguyễn Ái Quốc có nghiã đơn thuần là “Nguyễn yêu nước”.
Tất cả mọi cố gắng đều dồn vào việc điều tra hộ tịch của Quốc. Những người chỉ điểm An Nam và các thanh tra an ninh đều bắt tay vào việc và trao đổi thường xuyên với Đông Dương.
Những thông tin do Cảnh Sát Cuộc (Préfecture de Police) cung cấp chẳng có gì chính xác (…) Trong buổi nói chuyện với ông Thanh Tra Cảnh Sát Trưởng, tôi đã thông báo là ông Toàn quyền Đông dương rất có lý khi nhấn mạnh đến việc cần xác định danh tánh Quốc. Tôi còn nói thêm: “Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là người An Nam. Có thật thế không? Ai chứng tỏ điều đó? Y nói rằng y không có giấy tờ nào do nhà cầm quyền Đông Dương cung cấp. Y xen vào chính trị, trà trộn vào những nhóm chính trị, phát biểu trong những buổi hội họp cách mạng, và chúng ta không biết rõ đối thủ là ai! (…)”
Sau buổi tôi nói chuyện cùng ông Thanh Tra, Nguyễn Ái Quốc bị gọi đến Cảnh Sát Cuộc. Người ta đã chụp hình và hỏi cung y. Việc này xẩy ra ngày 20 tháng 9 [1920]. Những câu trả lời của Quốc được lưu trữ trong biên bản đính kèm. Y vẫn khăng khăng nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chúng ta chắc chắn đó là lời mạo nhận“.
Nhưng ngay sau đó, Pierre Guesde lại viết những lời gần như ngược lại:
“Trong tình trạng hiện nay của ăng-kết, với những thông tin tiếp được từ Đông Dương, tôi nghĩ có thể xác định rằng Nguyễn Ái Quốc chẳng qua là tên Nguyễn Tất Thành, kẻ đã ở An Nam năm 1908, trong khi xẩy ra bạo loạn, và đã ở Anh trước khi đến Pháp. Mà Nguyễn Tất Thành được coi là kẻ phiến động nguy hiểm.
Ngay từ ngày 25/7/1919, qua điện tín số 1791, chính phủ Đông Dương đã thông báo rằng một bản thỉnh nguyện có ẩn ý, gửi từ Paris, hôm 18/6, cho nhiều tờ báo ở Thuộc địa, dưới cái tựa “Những thỉnh nguyện của dân tộc An nam”. Bản thỉnh nguyện này, trước tên ký, có ghi: Thay mặt nhóm người An Nam yêu nước: Nguyễn Ái Quốc” (…)
Nguyễn Ái Quốc đã liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung hoa, Triều tiên, Nga, Ái nhĩ lan, v.v… Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua [1/5/1920] và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.
Đoạn văn trên đây chứng tỏ sự bối rối của cơ quan an ninh Pháp: Một mặt cho rằng có một Nguyễn Ái Quốc giả, tức là kẻ đến trình diện, tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Một mặt lại tin rằng có một Nguyễn Tất Thành (thật), người ấy mới chính là Nguyễn Ái Quốc, đi diễn thuyết và là tác giả các văn bản.
Nhưng theo Hồ Hữu Tường, thì người lên trình diện chính là Nguyễn Tất Thành, chứ không phải ai khác. Hồ kể lại giai thoại: trát đòi Nguyễn Ái Quốc lên trình diện, nhưng lại gửi về địa chỉ Phan Châu Trinh và Phan đã giao cho Nguyễn Tất Thành lên trình diện (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang19).
Nguyễn Ái Quốc được an ninh Pháp mô tả trong thời gian từ 1919 đến tháng 5/1920, là người đã “liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung hoa, Triều tiên, Nga, Ái nhĩ lan, v.v… Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua [1/5/1920] và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này”.
Chân dung này chính là Nguyễn An Ninh, nhờ ba yếu tố: vô chính phủ, diễn thuyết liên miên và viết sách đòi độc lập cho Đông Dương. Nguyễn Thế Truyền lúc đó còn ở Toulouse và Nguyễn Tất Thành, mới sang, không rành tiếng Pháp, không thể diễn thuyết và viết sách tiếng Pháp được.
Pierre Guesde viết tiếp:
”Những bài báo phát xuất từ Nguyễn Ái Quốc và đồng bọn được đón nhận khá tốt trong một loại báo (đặc biệt báo L’Humanité). Chúng ta thấy những bài ký tên y trong những báo khác nhau, đặc biệt trong tờ L’Humanité ngày 2/8/1919, và trong tờ Le Populaire ngày 4 và 14/10/1919. Y ở số 6, villa des Gobelins, Paris, trong một nhà lầu (immeuble) do Phan Văn Trường thuê (Phan Văn Trường là một trong những tay phiến động nguy hiểm nhất hiện đang ở Đức cùng với Khánh Ký và François Albert, tất cả đều là bạn Nguyễn Ái Quốc cũng như Phan Châu Trinh thường trực ở nhà Nguyễn Ái Quốc và hiện đang ở đây luôn). Kèm đây là lá thư của Nguyễn Ái Quốc gửi cho M. Outrey, từ Biarritz, ngày 16/10/1919, cho thấy ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về chính phủ ta như thế nào. Nhóm cách mệnh bao gồm những phần tử chính người An Nam mà tên vừa kể trên đây, tuyên bố rằng muốn ở lại Âu Châu để gặp dịp, sẽ hoàn toàn tự do vạch ra, những sai lầm của nhà cầm quyền Pháp và phụng sự lợi ích An Nam ngõ hầu đạt được càng sớm càng tốt: Sự tự chủ của Đông Dương (…) Ta có thể xác định rằng Phan Văn Trường là kẻ thông minh nhất và quỷ quyệt nhất trong nhóm. Nguyễn Ái Quốc là thư ký và là người cho Phan Văn Trường mượn tên”(…) (Carton 87, S. III, Thu Trang – Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 107-108).
Tóm lại, bản tường trình của Pierre Guesde bị rối loạn vì những báo cáo sai lầm của thám tử. Gọi là lầm mà không lầm vì vô tình, họ đã xác định được 1/3 sự thực: Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh.
Tóm lại, người mà thám tử thấy viết sách, giao thiệp với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ và diễn thuyết liên miên, năm 1919-1920, chính là Nguyễn An Ninh. Người “vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương” cũng là Nguyễn An Ninh, có thể đó là cuốn La France en Indochine. Người viết Lá thư gửi từ Biarritz cho M. Outrey cũng là Nguyễn An Ninh (sẽ giải thích sau).
Trong bản báo cáo, viên Tổng Thanh Tra Pierre Guesde rất tinh tường qua những nhận xét khác của ông:
- Một mực không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc.
- Đọc các văn bản Nguyễn Ái Quốc, ông đoán đây là người Pháp viết tiếng Pháp. Đặc biệt ông chú ý đến những bài quan trọng như La question des indigènes en Indochine (Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương) do Phan Văn Trường viết. Và hai bài L’Indochine et la Corée; une intéressante comparaison (Đông dương và Triều tiên, một sự so sánh lý thú) và Lettre à Monsieur Outrey (Thư gửi ông Outrey), do Nguyễn An Ninh viết.
- Ông xác định Phan Văn Trường là người nguy hiểm nhất.
Tóm lại, tới ngày 12/10/1920, Pierre Guesde vẫn đinh ninh rằng Nguyễn Tất Thành là người “gánh” cái tên Nguyễn Ái Quốc cho Phan Văn Trường. Điều này cũng lại không sai, nhưng Guesde cũng mới chỉ nhìn được 1/3 sự thật: Phan Văn Trường cũng là Nguyễn Ái Quốc. Và khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, Tổng Thanh Tra Pierre Guesde vẫn tiếp tục xác định Nguyễn Ái Quốc không phải là Nguyễn Tất Thành, nhưng ông không tìm ra được Nguyễn Ái Quốc là ai.
5- Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quốc và xin vào hội Tam Điểm
Khi Nguyễn Tất Thành đến Paris tháng 6/1919, thì Hội nghị Hoà bình đã khai mạc từ ngày 18/1/1919 ở Versailles. Mục đích của hội nghị là xây dựng những quốc gia Âu Châu mới sau thế chiến. Nhóm Người An Nam yêu nước muốn lợi dụng tình hình quốc tế thuận lợi, để xác định sự hiện diện của Việt nam, một đất nước đã mất chủ quyền và có thể nhóm người Việt cũng đã thảo luận với đại biểu các nước khác trong hậu trường của Hội nghị, trước khi tung ra bản Thỉnh Nguyện của dân tộc An Nam.
Bản Thỉnh nguyện hoàn tất. Tại sao Phan Văn Trường giao cho Nguyễn Tất Thành đem đến Versailles, mà không giao cho một người khác? Lý do đơn giản: Nguyễn Tất Thành là khuôn mặt mới, vừa chân ướt chân ráo đến Paris, chưa bị mật thám bao vây, dễ vào hội nghị. Lần xuất hiện đầu tiên này, chưa ai biết Nguyễn Tất Thành là ai.
Nguyễn Tất Thành, xa nước từ năm 1911, sống vất vả ở trên tàu, rồi biệt lập ở Luân đôn, vừa sang Pháp, chưa thể biết rõ những thông tin về tình hình trong nước, cũng không đủ kiến thức và không rành tiếng Pháp, nên chỉ có thể giữ những vai trò khiêm tốn: học Pháp văn, giữ sổ sách chi thu, tập viết những mẩu tin, phụ trách việc in và phát truyền đơn. Ông không thể viết được những bài xã luận ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc. Nhưng vì muốn trở thành chính khách, Nguyễn Tất Thành xung phong nhận tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
Việc đưa bản Thỉnh nguyện đến Versailles là chặng đầu.
Xin vào hội Tam Điểm, là chặng thứ nhì. Việc này chắc chắn phải do sự sắp đặt của Phan Văn Trường (có thể Phan Văn Trường cũng có chân trong Hội Tam Điểm), vì Nguyễn Tất Thành mới tới Paris, không thể biết rõ về hội Tam Điểm.
- “Tháng 8/1919, Quốc đệ đơn xin vào nhóm Ernest Renan trong hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie), 16 Rue Cadet, nhưng không được.” (Brocheux, Ho Chi Minh, trang 110)
- Ngày 14/6/1922, Nguyễn Ái Quốc được kết nạp vào hội Tam Điểm. (Thu Trang, Phan Châu Trinh, trang 193).
Tháng 8/1919, người ta chưa biết Nguyễn Tất Thành là ai. Hội Tam Điểm từ chối.
Nhưng đến tháng 6/1922, (ba năm sau), Nguyễn Tất Thành đã “chính thức” trở thành Nguyễn Ái Quốc, một tên tuổi trong làng báo chống thực dân. Hội Tam Điểm mới chấp nhận.
Nhưng chỉ được vài tháng, Nguyễn Ái Quốc bỏ Tam Điểm, vì sao?
Tam điểm là một hội kín, có truyền thống lâu đời trên thế giới, dựa trên nguyên tắc cao quý “Thân ái (Fraternité) giữa người và người”. Nhưng trên thực tế, hội quy tụ những phần tử ưu tú của xã hội, có thể nắm vận mệnh các dân tộc. Người làm chính trị vào hội Tam điểm để được bảo vệ khi gặp bất trắc. Trần Trọng Kim cũng ở trong hội Tam Điểm vì vậy khi làm chính trị, ông có thể nói thẳng mà không sợ chính quyền thuộc địa đàn áp.
Có thể Phan Văn Trường đã tìm cách đưa Nguyễn Tất Thành vào hội Tam Điểm khi Thành mới tới Paris, vì ông tin tưởng ở tương lai người thanh niên nhiệt tình này, và muốn có một thế lực hậu thuẫn cho Tất Thành. Nhưng khi được vào hội rồi, Nguyễn Ái Quốc/Tất Thành không chịu nổi không khí trí thức trưởng giả của hội và có thể còn bị áp lực của đảng Cộng sản, nên ít lâu sau Nguyễn Tất Thành đã bỏ hội Tam Điểm.
Về việc Nguyễn Ái Quốc có giấy mời đi dự hội nghị Tours của đảng Xã hội Pháp, cuối năm 1920, Hoàng Văn Chí cho rằng do Nguyễn Thế Truyền sắp đặt. Có lẽ không đúng, mà vẫn do Phan Văn Trường lo liệu, vì lúc đó Nguyễn Thế Truyền đang ở Việt Nam.
Giới chính khách và trí thức Pháp không dễ thâm nhập, phải là bạn ngồi cùng ghế đại học với họ, hoặc có danh, hoặc có tài. Họ có thể tranh đấu cho cần lao, nhưng họ không làm bạn với những người cần lao, ít học. Một nghịch lý nhưng là sự thật. Vừa đến Paris, đang làm thợ rửa ảnh, tiếng Pháp chưa thông, làm sao Nguyễn Tất Thành có thể gặp người này, người kia, trong chính giới của Pháp? Nếu không được một trí thức (như Phan Văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền) giới thiệu, và phải “có tên tuổi” trong làng báo như Nguyễn Ái Quốc. Nhờ những yếu tố này, Tất Thành/Ái Quốc mới có thể được chấp nhận trong môi trường chính trị cánh tả của Pháp.
© Thụy Khê
(Còn tiếp)
Cám ơn bà chị Thụy Khuê ,nguời phê bình văn học đã bỏ công sức nghiên cứu về ông Hồ.
Những khám phá cuả chị thật vô cùng quan trọng và cần thiết cho văn học ,sử liệu mà Đàn Chim Việt đã thấy đuợc và phổ biến thật đúng giưã lúc hàng loạt thanh niên sinh viên bắt đầu sôi nỗi tìm hiễu ông ta sau các biến cố biểu tỉnh và đứng lên đầy ngạc nhiên cuả các trí thức đuợc kính trọng trong nuớc.
Vào cuối những năm 1980, ông Nguyễn Cao Kỳ đã “mắng” một thanh niên hơn 30 tuổi, tốt nghiệp đại học ở San Jose, khi ông ta đến đó để diễn thuyết, rằng anh ta trẻ con không biết gì về chính trị. ( Tôi nhớ anh thanh niên đó đã talked back rằng chính ông NCK khi làm thủ tướng , ủy ban hành pháp, cũng mới chỉ hơn 30.)
Vậy thì lui lại đầu thế kỷ 20, Hồ Chí Minh vào hàng con cháu so với Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Châu Trinh, học lực thì ngang tiểu học, như vậy có thể nào ngồi ngang hàng bàn luận chính sự hay không ?
Theo suy luận thì HCM khi đó chỉ được cho ở nhờ để làm tiểu đồng mà thôi !
NÓI VỀ Ý NGHĨA THẬT CỦA NHỮNG ANH HÙNG DÂN TỘC
Dân tộc đây là nói chung mọi dân tộc trên thế giới, không phải chỉ về riêng dân tộc nào. Người anh hùng dân tộc, là người chỉ do chính trí tuệ, tài năng riêng của mình, đã mang lại được những gì mới mẽ nhất cho dân tộc trong những tình huống khó khăn nào đó mà ít có ai làm được. Tính chất ở đây, chính là tính chất tự do, sáng tạo. Các loại anh hùng dân tộc này, trong các đất nước lớn, thường có khá nhiều. Chẳng hạn, ở Mỹ, như Washington, Lincoln, ở Pháp như DeGaule, hay ở Anh như Churchill chẳng hạn. Như thế, những người nào mà vì lý do gì đó, có sự hỗ trợ của người nước khác, hay của nước khác mới làm nên được sự nghiệp, thì thực chất, chỉ có thể nói là người nổi tiếng, có công danh, có sự nghiệp nào đó của những hoàn cảnh nổi bật nhất định, là những người hùng trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nào đó, nhưng chưa hẵn đã là những người anh hùng dân tộc xuất sắc thật sự. Tuy nhiên, anh hùng dân tộc, thực chất cần phải do ý thức, ý chí của họ, mà không phải cứ là ở sự thành công của họ. Nơi khác đi, sự thành công của mục đích hay sự nghiệp, là ý nghĩa quan trọng nhất, nhưng cũng còn phải tùy theo hoàn cảnh, tình huống, mà không phải bất kỳ ai cũng tạo nên được kết quả, hay sự nghiệp cho mình được. Vậy thì, ý nghĩa của anh hùng dân tộc, nói chung, không phải chỉ là thành công, hay thành quả của bản thân mình, như lên nắm được chính quyền, mà là chính đã làm được những điều gì đó vĩ đại, lớn lao, hay vẽ vang cho đất nước. Như Tôn Văn của Trung Hoa trước kia chẳng hạn. Uy tín và giá trị của Tôn Văn không phải là sự nghiệp riêng của ông, mà chính là ở ý nghĩa, mục đích của công việc làm, và cả sự công chính, cao quý trong mọi hành động chính trị đường đường chính đáng của ông đã có. Cho nên, vấn đề hay ý nghĩa chính yếu của họ, là phải mang lại được các kết quả cụ thể, cần thiết gì đó cho dân, cho nước, mà không phải chỉ là uy tín, hay sự nghiệp bản thân riêng tư của cá nhân họ. Bởi vậy, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học … đều là những vị anh hùng dân tộc trong thời đại mới, mặc dầu các vị này không có được sự thành công nhất định trong sự nghiệp của mình. Tuy nhiên, họ lại các có tính tiên phong, nổi bật, và nổi tiếng nhất, trong số nhiều vị anh hùng dân tộc vô danh khác thuộc cùng thời với họ. Nên những người anh hùng thực chất thì chỉ vì nghĩa vụ, trách nhiệm với dân tộc, mà không cần sự nghiệp riêng nào cho bản thân. Sự nhớ ơn của dân tộc chỉ là lẽ tự nhiên mà không phải là điều gì cầu mong của họ. Do vậy mọi sự hoan hô, công kênh, mọi sự ca ngợi theo hình thức, hay phong trào, không thể phù hợp được với chính bản thân thực chất của mọi người anh hùng dân tộc mang tính chất cao cả và vĩ đại theo đúng nghĩa thực sự.
ĐẠI NGÀN
(13/9/11)