Phạm Dzũng: Vận hội nào cho VN?
I-Bắc xâm và Nam tiến
Lịch sử và khảo cổ học đã chứng minh nhiều dân tộc (sắc tộc, bộ lạc, quốc gia…) ở vùng Hoa Nam, lưu vực sông Dương Tử đã bị xâm lược và đồng hóa bởi những sắc dân Hoa Bắc. Những sắc tộc nào di dân được xuống Đông Nam Á thì tồn tại được đến ngày nay mà không (hoặc ít) bị đồng hóa, là nhờ địa thế hiểm trở, khí hậu nhiệt đới, và sức sống (dân khí) của dân tộc đó (*1). Những luồng di dân kèm theo hội nhập hoặc đồng hóa về văn hóa và nhân chủng sẽ tạo thành những biến chuyển địa lý chính trị có ảnh hưởng lớn lao nhiều mặt cho khu vực hoặc cả thế giới trong hàng trăm năm sau.
Thời xưa (trên 3000 năm trước) vốn không có nước Tàu.Vùng đất đai rộng lớn đó vốn là nơi sinh sống của rất nhiều sắc dân của hàng mấy chục nước lớn nhỏ, chưa kể những bộ lạc vùng rừng núi xa xôi (Man, Di, Nhung, Địch…). Họ luôn luôn đánh giết nhau để cướp bóc, thôn tính đất đai và bắt nô lệ (thời Xuân Thu, Chiến Quôc), chỉ sau thời Đông Chu, Tần Thủy Hoàng diệt xong 6 nước lớn cuối cùng, nước Tàu mới thống nhứt, và gọi là Trung Hoa. Như vậy nước Tàu hình thành do chiến tranh xâm lược. Lịch sử hình thành nước Tàu là lịch sử xâm lăng và đồng hóa bằng bạo lực chiến tranh.
Ở vùng lục địa Trung Hoa, khuynh hướng bành trướng về phía nam là bắt buộc vì phía bắc và phía tây chiếm 2/3 nội địa nước Tàu là sa mạc hoặc núi non hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, thiếu nước, không phát triển nông nghiệp được, không thể sản xuất đủ lương thực để nuôi dân số càng ngày càng đông.
Người Việt cũng vậy, trước sức ép nam tiến của Hán tộc, sau nhiều đợt di cư, Việt tộc quần cư ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tạm yên được với Bắc phương vài ngàn năm nhờ vào địa hình biên giới hiểm trở. Trong khoảng thời gian này người Việt cũng phải mở nước bằng cách nam tiến, thôn tính và đồng hóa Chiêm Thành, Chân Lạp (nửa nước Miên) (*2), chuẩn bị tây tiến và bắc tiến bằng con đường từ phía Đông Nam (nếu thôn tính xong Miên) để thôn tính Lào, xung đột với Thái, Miến…
Mộng gồm thâu Đông Dương (hoặc thành lập Liên bang Đông Dương) của người Việt vẫn được ôm ấp kể từ thời các vua chúa nhà Nguyễn, vì địa lý nước Việt rất bất lợi cho sự thống nhất và an ninh lãnh thổ cũng như sự phát triển kinh tế và văn hóa:
*Rặng Trường Sơn phía Tây làm cho miền Trung quá hẹp (50 km), khó bảo vệ khi bị tấn công từ ngoài biển. Lãnh thổ rất dễ bị đứt khúc ở khoảng vĩ tuyến 17-18 như lịch sử đã từng chứng minh.
*Sông Mê Kông, xuất phát từ cao nguyên Thanh Hải (Tây Tạng) dài gần 5,000 Km mà chỉ có trên 200 Km chảy qua đồng bằng Nam bộ, tạo ra một áp lực về thủy lợi và sinh tồn cho vựa lúa miền Nam VN nếu bị tác động từ thượng nguồn (với hàng chục đập thủy điện như hiện nay).
Địa lý các nước Miên, Lào cũng bất lợi không kém, do không có hoặc thiếu đường ra biển, tạo nên thế bị phụ thuộc.
Chỉ đến khi nào hình thành được cụm địa chính trị Đông Dương (Liên Bang, hoặc Liên Hiệp các quốc gia Đông Dương) để, mở rộng địa lý đất đai và dân số, làm chủ được ½ dòng chảy của sông Mê Kông để bảo vệ lợi thế sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng hạ lưu, khai thác được lợi thế bờ biển và cảng biển của VN, thì cả 3 nước Việt Miên Lào mới hy vọng phát triển thịnh vượng để tồn tại và chận đứng ý đồ tràn xuống của “500 triệu bần nông Trung Hoa” (lời Mao Trạch Đông).
Về phương diện lịch sử, tình huống địa chánh trị này của Việt Nam và Đông Dương mới phát sinh từ khoảng thế kỷ 16-17, kể từ khi di dân Việt bắt đầu chiếm ngụ và khai phá miền đất sình lầy miền đông nam bộ vốn là phần bỏ hoang của nước Chân Lạp (Cao Miên). Đà thay đổi này bị ngừng lại khi đội quân viễn chinh của Thực dân Pháp thắng quân đội trang bị lạc hậu của triều đình nhà Nguyễn (thời vua Tự Đức).
So với bề dài lịch sử, nước Việt Nam có hình chữ S mới được khoảng 200 năm, thực ra là một đất nước rất mới, và còn đang trên đà phát triển ưu thế trong khu vực Nam Á. Khi Thực dân Pháp lập được ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam (Hòa ước Giáp Tuất 1874), thì lục tỉnh Nam kỳ mới được sát nhập vào VN khoảng 50 năm. Trước đó một chút, nếu VN canh tân kịp đồng thời với Nhật, thì nhiều phần chắc là cho tới ngày nay VN đã làm chủ Đông Dương, có thể kiểm soát được cả Thái Lan, Miến Điện, và trở thành đối trọng với Tàu, và biết đâu sẽ có đủ thế lực để đòi lại đất cũ là Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam (Nước Nam Việt thời Triệu Đà).
Vận hội lớn này đã lỡ rồi, Việt tộc chưa kịp lớn thì đã gặp 2 cái đại kiếp nạn: Thực dân và Cộng Sản, khiến vấp ngã đổ máu liên miên.
II- Thời kỳ Đại Kiếp nạn của Việt tộc-
A-Thực dân Pháp, thủ phạm phá hoại nguyên khí Việt tộc:
Vào thế kỷ 18, do áp dụng những phát minh khoa học công nghệ vào sản xuất, các nước Âu Mỹ trở nên hùng mạnh, cần chiếm thuộc địa để khai thác tài nguyên và nhân công nô lệ. Các nước nhược tiểu Á Phi đều bị thôn tính bởi Thực dân Âu Châu. Sau khi vua Tự Đức đầu hàng thực dân Pháp, 3 nước Việt Miên Lào trở thành Đông Dương thuộc Pháp gần 100 năm. Cho đến sau thế chiến II, thì lại tách ra thành 3 nước riêng biệt như cũ.
Từ nay, một Liên Bang Đông Dương tương lai muốn được ổn định và phát triển thì không còn có thể được hình thành theo kiểu bá quyền và thực dân như trước, mà phải dựa trên sự đồng thuận của các dân tộc trong khu vực, và phải được tổ chức với những định chế dân chủ pháp trị (như Mỹ, Canada, Liên Âu…). Nếu chưa có được một Liên bang (hoặc Liên Hiệp) Đông Dương như vậy, thì địa lý chánh trị vùng Đông Nam Á vẫn chưa thể ổn định; những nước Đông Nam Á sẽ không thể yên ổn trước áp lực bành trướng của Tàu, và Việt Nam sẽ vẫn còn là nơi bị giằng xé nhiều nhất, sẽ tiếp tục phải gánh chịu những tổn thất bi thương nhất trong thế cờ nhằm thực hiện những sắp xếp chiến lược toàn cầu của những cường quốc. Phải chăng đó là cái giá phải trả cho sự tồn tại của Việt tộc và những dân tộc Đông Dương?
Đầu TK 20, do phong trào giải thực, một loạt nước dành lại độc lập. Những nước cựu thuộc địa của Anh Quốc có may mắn, là vì Thực dân Anh biết thời thế thay đổi, phong trào dân chủ hóa đang lên, độc lập cho các dân tộc là không tránh được, nên để có thể duy trì ảnh hưởng văn hóa và chính trị lâu dài, đã ra công mở mang giáo dục, đào tạo trí thức thuộc địa để chuẩn bị thay thế sau khi giải thực. Do đó những cựu thuộc địa của Anh đều dễ dàng dân chủ hóa, phát triển đồng bộ với thế giới, và hiện có 54 nước vẫn nằm trong Khối Thịnh vượng chung Common Welth của Anh, ở Á châu có 8 nước (Ấn, Brunei, Pakistan, Malaysia, Srilanka, Singapore, Maldives).
Chỉ có Thực Dân Pháp là tham lam, độc ác và ngu xuẩn, quyết liệt duy trì thuộc địa bằng chính sách bóc lột, chia để trị và ngu dân, đàn áp những nhà cách mạng tranh đấu cho độc lập dân tộc, kìm hãm phát triển dân trí. Những công trình xây dựng của Pháp ở thuộc địa đều chỉ nhằm phục vụ guồng máy cai trị. Giáo dục, đào tạo cũng chỉ nhằm cung cấp giai cấp trung gian cho nhu cầu cai trị và bóc lột. Kết quả là những nước cựu thuộc địa của Pháp sau khi dành được độc lập đều có tình trạng dân trí và kinh tế, xã hội tồi tệ như nhau.
Với VN sau 80 năm bị Pháp đô hộ, nền kinh tế trở nên rất kiệt quệ. Tình hình an ninh cũng tồi tệ với nhiều nhóm vũ trang cát cứ từng địa phương. Tình trạng chia rẽ nặng nề trong mọi tầng lớp xã hội, kể cả trong giới tinh hoa (nhân sĩ, trí thức) giữa 3 miền Nam, Trung, Bắc và ngay trong mỗi miền. Đồng thời trình độ dân sinh, dân trí quá thấp đã khiến cho dân Việt trở thành miếng mồi ngon của đủ loại tuyên truyền mị dân và lừa bịp, và tiếp tục làm nạn nhân của âm mưu diệt chủng của Tàu qua tay sai CSVN.
B- Hồ Chí Minh cõng rắn cắn gà nhà- Chủ nghĩa CS là cái mặt nạ của Chủ nghĩa Đế Quốc.
Nga xô với Stalin (Đệ tam quốc tế) vốn âm mưu dùng Chủ Nghĩa CS để thôn tính cả thế giới, luôn cả Tàu, dưới chiêu bài Thế Giới Đại Đồng, nhưng Tàu to quá, Nga nuốt không nổi. Tàu cũng vậy, tiếp tục dùng CNCS để thôn tính Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam. Tàu không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để thực hiện kế sách “Tằm ăn dâu”, dùng mọi thủ đoạn gây chia rẽ, lũng đoạn nội bộ để làm yếu thế lực Việt, làm băng hoại tinh thần dân tộc và văn hóa Việt:
Thời kỳ trước 1954, Tàu dùng Hồ Chí Minh dựng nên Đảng CSVN, trá hình dưới tên là đảng Lao Động VN, núp dưới chiêu bài Mặt Trận Việt Minh, mượn danh nghĩa chống thực dân dành độc lập để chiêu mộ dân quân và lừa gạt các đảng phái Quốc gia. Được Tàu trợ giúp, nên Việt Minh thắng Pháp trận Điện Biên Phủ. Sau chiến thắng đó Việt Minh hoàn toàn có thế lực để thống nhất và kiểm soát cả nước, nhưng Tàu đã áp lực Việt Minh chia cắt VN vì Tàu lúc đó còn yếu, không muốn đối đầu với Mỹ, đồng thời lo ngại sẽ không kiểm soát được một VN thống nhất. Mục tiêu của Tàu lúc đó là cần củng cố hậu phương, nên chỉ muốn biến Bắc VN thành thành lá chắn phía đông nam, giống như Bắc Hàn là lá chắn phía đông bắc. (*3)
*Chiến tranh giải thực ở VN vốn không cần chịu mất mát và đổ máu nhiều đến thế, nhưng với âm mưu làm Việt suy yếu để kiểm soát sân sau, Tàu đã xúi dục, cổ võ, yểm trợ cho chiến tranh và phân hóa. Nhìn bề ngoài, thì giống như người Việt chống Pháp, Việt Minh đánh Việt Gian … nhưng thực ra chính là Hán tộc (Tàu) diệt Việt tộc bằng cách dùng ngay người Việt (Việt Minh CS) đánh giết người Việt (phe Quốc Gia).
*Cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) 1953-1956 đẫm máu thực hiện đấu tranh giai cấp cuồng tín, và sau đó là vụ án Nhân Văn giai phẩm đã phải xảy ra, vì nó là sách lược quân sự căn bản (đánh phủ đầu) để khống chế toàn diện VN của Tàu, với sự đồng lõa của các lãnh tụ tay sai Việt do CS Tàu đào tạo, nuôi dưỡng. Thực chất là chỉ mượn màu đấu tranh giai cấp nhằm che dấu dã tâm chính là:
1-Tiêu diệt nguyên khí của VN: Khi Stalin buộc Hồ Chí Minh thi hành CCRĐ dưới quyền giám sát của Tàu, thì Tàu lồng thêm vào âm mưu phá hoại của họ, vì trong kế sách “tằm ăn dâu” thì việc triệt bỏ sớm những lãnh tụ tương lai có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, và triệt tiêu mọi mầm mống chống đối trong dân chúng chính là một bước tiến công quyết định, vì có triệt bỏ được những lãnh tụ tương lai này và làm tê liệt tinh thần dân tộc của dân Việt, thì về lâu về dài Tàu mới nắm chắc được đảng cầm quyền CSVN tay sai để thực hiện những bước thôn tính kế tiếp.
2-Sàng lọc dân và thanh lọc nội bộ: dùng khủng bố nhà nước để tiêu diệt những phần tử bất đồng chính kiến và răn đe dân chúng, khiến họ quá sợ hãi và chịu hoặc khuất phục, hoặc phải trốn chạy (di cư, vượt biên).
- Đợt 1: (1953) (thực hiện khủng bố ở vài địa phương xa, nhằm gây tiếng vang đe dọa để sàng lọc dân, đuổi những thành phần không kiểm soát được vào miền Nam, vừa nhằm cướp tài sản của người di cư, vừa tạo gánh nặng cho miền Nam (1954: do quá sợ sẽ bị Cộng Sản đấu tố, khủng bố nên hơn 1 triệu người phải di cư vào Nam).
-Đợt 1956-1959 (gồm 4 đợt): Nhằm thanh lọc đảng và kiểm soát xã hội: loại trừ những cá nhân không vững “lập trường giai cấp”, thiết lập độc tài toàn trị “chuyên chính vô sản”, kiểm soát toàn diện tư tưởng và đời sống mọi người, không chừa một ai, kể cả cán bộ, đảng viên cao cấp.(*4) Có lãnh tụ Đảng đã phải tuyên bố từ bỏ giai cấp bằng cách đấu tố chính cha mẹ mình.
Thành công của chiến dịch này là nô dịch hóa được miền Bắc VN: Mao trạch Đông chủ trương “Đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, đã dùng tay sai là Hồ Chí Minh và đảng CSVN tiếp nối Thực dân Pháp, tiếp tục dìm miền Bắc VN chìm sâu vào cảnh dốt nát, đói nghèo, lạc hậu, phải lệ thuộc toàn diện vào Nga, Tàu, phải dùng máu để đổi lấy viện trợ.
-Cho tới mãi mãi, trong đám lãnh tụ miền Bắc của Đảng CSVN sẽ chỉ gồm toàn những người vô học, kém văn hóa, vừa “lú” vừa cuồng tín, hoặc sợ Tầu, phục Tàu; không thể tìm được một ai còn tinh thần dân tộc hoặc có trình độ và tư duy xứng đáng với một người lãnh đạo.
C- Lê Duẩn, tên lính xung kích của Đại Hán CS diệt chủng Đông Dương:
Thời kỳ sau 1954, Tàu yểm trợ cho CS Bắc Việt xâm lăng miền Nam một mặt là tranh dành ảnh hưởng với Nga ở Đông Dương, một mặt muốn cho VN suy kiệt do nội chiến để không thể trở thành đối thủ cho mưu đồ bành trướng.
Lê Duẩn (1907-1986) sau 1954 vẫn ở lại miền Nam để chỉ huy du kích nằm vùng chống chính quyền Quốc Gia. Cuối năm 1956 Trường Chinh bị tạm hạ bệ để nguôi lòng dân sau CCRĐ, Lê Duẫn ra Bắc làm Bí thư thứ nhất. Lê Duẫn là người có cuồng vọng độc tôn và rất cuồng tín, luôn luôn muốn áp đặt CNCS lên cả nước bằng mọi giá (*3)-
Sau khi Stalin chết và bị hạ bệ, Lê Duẩn theo Mao chống chủ trương “Chung sống hòa bình” của Kruthchev, gọi là “Xét lại”, nhân đó thanh trừng nội bộ, tiêu diệt các đối thủ chống chủ trương xâm lăng miền Nam của mình, gọi họ là nhóm “Xét lại chống Đảng”, để tập trung quyền lực vào tay mình (1967). Sau khi nắm quyền tuyệt đối, Lê Duẩn được Tàu viện trợ đẩy mạnh chiến tranh xâm nhập lật đổ chính quyền miền Nam. Tàu thậm chí còn đưa quân Tàu giả dạng vào miền Bắc (*5) để miền Bắc có thể xua toàn lực thanh niên xâm nhập miền Nam (sinh Bắc tử Nam), một công hai việc: vừa thúc đẩy mở rộng chiến tranh diệt chủng dân Việt, vừa lan tràn ảnh hưởng xuống Đông Nam Á.
*Vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam theo chủ trương của Lê Duẩn thực chất là cuộc thanh trừng nội bộ để tranh dành quyền lực không thể tránh được, vốn là bản chất của mọi chế độ độc tài toàn trị.
Mục tiêu thực của chiến dịch đó không khác của chiến dịch CCRĐ 1956: cũng chính là “giết tiềm lực”, nhằm tiêu diệt những người chiến đấu chống chính quyền miền Nam vì lý tưởng dân tộc chủ nghĩa (Chống Mỹ xâm lăng như kiểu chống Tây thực dân- Chống cường hào ác bá… ), đồng thời tiêu diệt lực lượng chính trị và quân sự hậu thuẫn cho phe MTGP miền Nam vốn có tiềm năng chia phần hoặc chống đối lại quyền lực chính trị của Bắc Việt. CS Miền Bắc đã thành công trong mục tiêu đó, vì đã mượn tay lực lượng VNCH để làm triệt tiêu trên 70% lực lượng chiến đấu cũa MTGP Miền Nam (*6), nhờ đó sau 1975, miền Bắc có thể xé bỏ thỏa thuận trước đây với MTGPMN (miền Nam trung lập trong 2 năm rồi mới hiệp thương thống nhất), áp đặt quyền lực chính trị trên toàn miền Nam mà không bị chống đối.
*Phấn khích với chiến thắng 1975, Lê Duẩn tuy phải trở mặt chống Tàu, vì Tàu chống đối một VN thống nhất (*3), nhưng do trình độ thấp kém và cuồng tín, nên đã thực hiện một loạt biện pháp điên rồ khiến tiềm lực cả nước đột ngột sụp đổ:
-Áp dụng chính sách kỳ thị chánh trị quá khích và độc ác đối với người miền nam kể cả các lãnh tụ của Mặt Trận GPMN, với người Việt gốc Hoa, nhất là đối với những cựu quân nhân viên chức của phe thua trận, làm trầm trọng thêm sự chia rẽ dân tộc, chia rẽ Nam Bắc; Một số lớn nhân lực (vài trăm ngàn thanh niên trẻ và chuyên gia các ngành nghề quân sự, dân sự, khoa học kỹ thuật) có tiềm năng chống Tàu hoặc xây dựng kinh tế rất lớn bị lừa vào các trại tù cải tạo.
-Áp đặt nền kinh tế giáo điều XHCN trên cả nước bằng cách cào bằng lực lượng sản xuất miền nam với các chiến dịch cướp tài sản (đánh tư sản và đổi tiền). Một số lớn dân chúng có tiềm năng xây dựng nền công nghiệp và kinh tế thị trường bị cưỡng bức đày đi vùng rừng núi hoang vu (kinh tế mới).
Những nhân tài vật lực (“lực lượng sản xuất tiên tiến”) này miền Nam đã mất 20 năm mới vun trồng và tích lũy được, đã từng là “vốn quý” khiến cho kinh tế xã hội và đời sống miền Nam thời đó cao hơn cà Singapore, Thái, Nam Hàn, đã bị sự ngạo mạn u mê của các lãnh tụ “Bên thắng cuộc” làm tiêu tan hết chỉ trong vài năm.
Sự kỳ thị chính trị một cách quá khích và nền quản trị quá kém cỏi đã làm kinh tế cả nước phá sản, cả vật chất lẫn tinh thần người dân bị suy sụp, bị đẩy đến chỗ cùng quẫn đến nỗi phải bỏ quê hương vượt biển ra nước ngoài cả triệu người, là một con số rất lớn chưa từng có trong trong lịch sử VN và thế giới- Cả triệu người, đại đa số là dân thường phải liều lĩnh chạy ra biển khơi, bỏ nước ra đi về nơi xứ lạ quê người, bất kể bão tố, cướp biển, hãm hiếp và chết chóc (khoảng 1/3 vùi thây trong biển cả). Điều đó nói lên được sự cùng quẫn thất vọng của người dân đối với nền cai trị ở VN.
Thảm kịch này không khác gì một cuộc “tự diệt chủng” là vết nhơ không thể rửa trên mặt Đảng CSVN, lại bồi thêm một lần mất máu (bleeding) rất lớn nữa cho sinh lực Việt tộc (*7).
Như vậy, sau 1975, mặc dù bề ngoài thấy giống như là phe Xã Hội CN thắng phe Tư Bản, Bắc Việt thắng Nam Việt, hoặc là Giải Phóng Miền Nam thắng Mỹ, nhưng thực ra vẫn chỉ là Tàu thắng Việt, vì Tàu đã thành công trong âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, khiến cho 2 miền đều kiệt quệ, chết người, hại của, hận thù chồng chất và chia rẽ dân tộc thêm sâu sắc.
Tàu còn xúi dục, yểm trợ Kmer Đỏ tàn sát người Việt, đốt phá và tấn công biên giới tây nam để khích VN phải xua quân qua Kampuchia, tốn người, hại của, mất uy tín đối với quôc tế. Rồi lại viện lý do VN chiếm đóng Kampuchia để tấn công biên giới phía bắc, đốt phá tàn sát hàng chục ngàn dân Việt. Rõ ràng là ném đá dấu tay rồi thừa cơ đối sách yếu kém của CSVN để gây chiến và cướp đất biên giới Hoa-Việt.
Việc chiếm đóng Miên lâu dài khiến thiệt hại sinh mạng lính và bị Quốc tế cấm vận làm kinh tế thêm kiệt quệ. Mặt khác, chiến lược chống đối với Tàu mà chỉ dựa vào có một đồng minh duy nhất (Liên Xô) là một nước cờ tồi (nước xa không thể cứu lửa gần). Sự thất bại là hiển nhiên, nhất là sau khi Liên Xô sụp đổ, khiến cho sự tồn vong của VN rơi vào cái thế tuyệt vọng hơn, vừa mất thêm đất đai (sau cuộc chiến biên giới 1979 và 1983), vừa lệ thuộc Tàu nặng nề thêm (*8).
Cũng phải ghi nhận rằng cuộc thảm sát của Kmer Đỏ làm chết gần 2 triệu người (21% dân số Miên) cũng là 1 cuộc “cải cách” còn triệt để và đẫm máu hơn là Cải Cách Ruộng Đất ở VN, vốn là đòn độc hiểm của Tàu, dùng người Miên giết người Miên để che dấu bàn tay diệt chủng.
Thảm họa “tự diệt chủng” của dân Miên trực tiếp là qua Kmer đỏ, nhưng chính CSVN đã đưa Kmer đỏ về Miên. Do vậy, đây cũng đồng thời là âm mưu của CSVN, dùng Kmer đỏ để diệt chủng, làm yếu dân Miên hầu thực hiện mộng Liên Bang Đông Dương.
Cũng như vua quan cuối thời nhà Nguyễn với đầu óc phục Tàu đã làm cho Việt Nam mất cơ hội hiện đại hóa như nước Nhật cùng thời, đầu óc của nhóm lãnh tụ CSVN không chỉ là phục, mà còn sợ và lệ thuộc Tàu đến mức độ trơ lì chấp nhận tai họa của Đại Hán CS đối với sự tồn vong của dân tộc và đất nước, miễn là còn Đảng, còn quyền lợi địa vị.
Rốt cuộc các diễn biến ở VN từ 1930 dường như đều thuận lợi cho sách lược Nam tiến ngàn năm không ngưng nghỉ của Tàu.
Tuyên truyền của CSVN ngày nay vẫn còn đánh bóng Lê Duẩn như một người chống Tàu do có tinh thần dân tộc. Tuy nhiên một kẻ mà câu nói nổi tiếng được ghi lên cổng chào: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc” đã nói lên hết bản chất một kẻ khủng bố cuồng tín, đã phung phí xương máu dân tộc mình cho một chủ thuyết hoang tưởng, tự biến mình thành khí cụ diệt chủng cho kẻ thù truyền kiếp, kẻ đã từng tuyên bố “Đánh Mỹ cho đến người Việt Nam cuối cùng”.
Cùng với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn thực sự là một đại nạn kinh hoàng cho dân Việt, là tên tội đồ của đất nước Việt vì đã cố tình đẩy dân tộc vào thảm họa diệt vong.
D- Đệ Nhất Cộng Hòa, một thể chế không hợp thời vận.
Có một điều đáng tiếc, là ở miền Nam VN sau 1954, nếu ông Ngô Đình Diệm có lập trường đúng về ưu tiên cấp bách cho dân tộc lúc đó, là một mặt cần “chính danh” (legitimacy) để ổn định nhân tâm đối phó lại với thủ đoạn tuyên truyền của Việt Minh CS, một mặt cần một mô hình dân chủ pháp trị thích hợp nhất với thời thế, và quyết tâm xây dựng chế độ theo mô hình đó một cách dứt khoát, không nhượng bộ áp lực thân tộc thì sẽ giữ được cái thế “chính danh, đại nghĩa”, tiếp tục huy động được sự ủng hộ sâu rộng của các đoàn thể quần chúng và đảng phái, tôn giáo, và đã có thể kéo dài chế độ thêm một thời gian đủ dài để xây dựng được nền móng chính trị dân chủ vững mạnh, củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chống lại sự thao túng của ngoại bang kể cả Mỹ, và thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, phá hoại của CS.
Đối với các nước ở Đông Nam Á vào Thế Kỷ 20, là những nước phong kiến nông nghiệp vừa mới thoát khỏi chế độ nô lệ thuộc địa, dân trí còn thấp kém, ý thức cũng như kiến thức về dân chủ,về quyền và nghĩa vụ công dân hầu như chưa có, xem ra mô hình chính trị dân chủ thích hợp nhất phải là Quân chủ lập hiến, vì những nước theo mô hình này vẫn ổn định cho tới nay (Thái, Nhật …) – Nhiều nước dân chủ Âu Mỹ tới nay cũng vẫn còn là Quân chủ Lập hiến (Anh, Úc, Canada, Bỉ, Thụy Điển…).
Tại Việt Nam, bài học lịch sử còn đó: Thời Vua Lê & Chúa Trịnh, Trịnh Kiểm (1503–1570) có thế lực chính trị hơn vua Lê, nhưng lòng dân còn mến mộ công đức của vua Lê Lợi đã cởi ách nô lệ cho dân, cho nên Trịnh Kiểm không dám cướp ngôi, họ nhà Trịnh đành phải “Giữ chùa, thờ Phật thì ăn oản” cho đến khi bị nhà Tây Sơn (Nguyễn Huệ) lấy danh nghĩa “Phò Lê, diệt Trịnh” đánh dẹp.
Quang Trung Nguyễn Huệ (1753-1792) sau đó xưng Vương được chính danh, là vì khi vua Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà” đưa quân Tàu vào, thì đã tự chấm dứt tính kế thừa (legacy) chính danh của mình.
Nhà Tây Sơn sau khi vua Quang Trung mất đã chia rẽ, đánh lẫn nhau, và làm dân đói khổ, cho nên bị vua Gia Long (1802-1945) nhà Nguyễn diệt.
Vua Chúa nhà Nguyễn đã có công mở rộng đất nước gấp đôi (kể từ 1653, thời chúa Nguyễn Phúc Chu), và cai trị trên 200 năm, vẫn còn tính chính thống và được lòng dân tuân phục. Các vua Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái vì chống Thực dân Pháp mà bị chúng đày đi xa, là những bậc anh hùng trong lòng dân tộc. Vị vua cuối cùng là Bảo Đại, tuy không có tài lãnh tụ nhưng cũng từng hết lòng đấu tranh đòi Thực Dân Pháp trao trả độc lập cho VN. Dù đã thoái vị (1945) vì mắc mưu Việt Minh CS, nhưng cũng chưa hề mang tiếng phản dân hại nước.
Trong khi đó, ông NĐD chỉ là một đại quan của vua Bảo Đại; Gia tộc ông chưa có công trạng gì lớn với đất nước. Uy tín với dân và sĩ phu, trí thức trong và ngoài nước cũng chưa có gì đáng kể. Nếu ông sáng suốt hơn, ông nên bắt chước họ Trịnh với vua Lê, yêu cầu Hội Đồng Hoàng tộc cử ra một vị vua khác thay thế cho ông vua đã tự ý thoái vị, thay vì lật đổ và bêu xấu vua (*9), như vậy sẽ có chính danh, chính nghĩa để huy động được sự tuân phục của giới sĩ phu, trí thức và dân chúng 3 miền VN, vô hiệu hóa được sự tuyên truyền của Việt Minh CS. Với chế độ Quân Chủ Lập Hiến, do có tính chính thống (kế thừa), Việt Nam sẽ ổn định về chính trị, do đó sẽ thắng Cộng Sản.
Vậy thất bại của ông NĐD là do mâu thuẫn giữa một bên là ảnh hưởng của hệ tư tưởng phong kiến của đại đa số trí thức, nhân sĩ thời đó, thể hiện qua tác phong quan lại của ông và gia tộc, với một bên là tham vọng cá nhân (nghĩ rằng mình có “Thiên mệnh”sau khi thành công trong việc truất phế Bảo Đại) và áp lực trong việc xây dựng chính quyền theo mô hình dân chủ pháp trị kiểu Mỹ (Dân chủ Cộng hòa). Mô hình này quá mới lạ trong bối cảnh những đặc điểm văn hóa, tâm lý xã hội, trình dộ dân trí của một nước nhỏ Á châu vừa mới thoát kiếp nô lệ, và cũng không thích hợp với tình hình nhân tâm ly tán ở một miền Nam VN đang tan tác hỗn loạn sau 1954. Áp dụng mô hình này vào thời điểm lúc đó là gượng ép, là một sai lầm rất tai hại.
Những mâu thuẫn này đã khiến cho cho một lãnh tụ có tinh thần dân tộc như ông Diệm, sau khi lên cầm quyền, vì đã làm mất “chính danh” cho nên không những không phát triển được mối quan hệ hợp tác với các đảng phái Quốc Gia, với các tôn giáo và các lực lượng chống cộng khác (Cao Đài, Hòa Hảo…) là những lực lượng quần chúng rộng lớn và có tổ chức chặt chẽ vốn đã tự nguyện tập họp giúp ông ngay từ ban đầu, mà lại còn bị ảnh hưởng của gia tộc và bọn xu nịnh, đưa mình vào tình trạng tự cô lập và xa rời quần chúng, dần dần làm mất thế chính nghĩa “chống Cộng”, tạo điều kiện cho địch (kể cả Mỹ) khai thác các sơ hở, mâu thuẫn để tuyên truyền phá hoại. Hậu quả là đưa nền cộng hòa sanh non đến chỗ chết yểu, sụp đổ quá sớm, không đủ thời gian để thực hiện việc cấp thiết sinh tử là chấn hưng dân khí, xây dựng một hệ thống chính quyền, một thế hệ nhân tài về chính trị, quân sự hoàn toàn mới cho phe Quốc Gia (không còn tàn dư của thời Pháp thuộc qua sự lưu dụng những công chức và sĩ quan cao cấp được Pháp đào tạo).
Vậy là Việt tộc lại mất đi thêm một vận hội lớn hiếm có để bảo tồn được nửa nước, chống lại tham vọng xâm lược của Tàu, khiến cho hiểm họa mất nước trở thành nguy cấp hơn.
E- Thủ đoạn dối trá của Đảng CSVN để cướp Chính danh-
Cần thấy vấn đề “Chính Danh” và “Kế thừa” quan trọng đến nỗi CSVN, tuy là được yểm trợ tích cực của CS Nga và Tàu, nhưng vì chỉ là tay sai cho ngoại bang nên ngay từ những năm 40 đã phải dùng thủ đoạn dối trá, dấu biệt bộ mặt thật Cộng Sản tay sai (giải tán Đảng CSVN, đổi tên là đảng Lao Động VN), rồi núp dưới chiêu bài liên hiệp các đảng phái yêu nước chống thực dân Pháp, là Mặt trận Việt Minh, dùng danh nghĩa này để cướp chính quyền và lừa vua Bảo Đại thoái vị.
Cũng với thủ đoạn lừa bịp như vậy, thời gian từ 1954 đến 1975, mặc dù là dùng chiêu bài “giải phóng” và “chống Mỹ cứu nước”, CSVN cũng vẫn phải giấu mặt thật dưới danh nghĩa “Đảng Lao Động VN” và lá bài Mặt Trận GPMN để lừa gạt dư luận quốc tế cũng như nhân sĩ trí thức và nhân dân miền Nam. Đoàn quân xâm lược từ Bắc Việt đã hoàn toàn dấu lá cờ đỏ sao vàng của họ, và núp sau lá cờ nửa xanh nửa đỏ của MTGP Miền Nam cho tới nhiều tháng sau 30 tháng 4/1975.
Đã dối trá thì không thể có chính danh, chính nghĩa, vậy mà cho tới ngày nay, sau hơn 70 năm cai trị với kết quả là VN ngày càng tụt hậu, suy sụp và lệ thuộc Tàu, Đảng CSVN vẫn còn phải lươn lẹo, mập mờ, cố chứng minh tính chính danh và kế thừa cho vai trò lãnh đạo của nó (*10). Tuy nhiên thái độ ghẻ lạnh, chống đối của nhân dân từ Bắc chí Nam khi buộc phải tiếp đón quan thầy Tàu họ Tập, so với sự hân hoan nồng nhiệt khi tiếp đón Tổng Thống Mỹ Obama (tháng 5/2016) cho thấy:
-Có được lòng dân thì mới có “chính danh”.
-Kẻ cầm quyền tham và ngu thì không hiểu được lòng dân.
-Bọn giặc bán nước thì không cần lòng dân, không quan tâm tới sinh mạng dân.
Thái độ vô cảm, vô trách nhiệm của nhà cầm quyền VN đối với nỗi thống khổ của dân trong vụ cá chết do Formosa xả độc cũng minh chứng điều này.
III- Vận nước còn nổi trôi.
A-Tàu lăm le thôn tính Việt Nam và Đông Dương
Khi Mao Trạch Đông nhờ viện trợ của Nga, đánh thắng Tưởng Giới Thạch, nắm được chính quyền, thì Mao khởi đầu chiến lược thôn tính Đông Dương. Nếu Tưởng thắng, thì cũng sẽ làm y như vậy- Tàu nào cũng giống nhau- Sẽ rất là lạ nếu thực tế lịch sử lại không xảy ra như vậy- Mộng Đại Hán nằm sẵn trong đầu bất cứ anh Tàu nào-(*11), chỉ khác nhau ở chỗ Đại Hán xưa chỉ cần nô lệ, còn Đại Hán Cộng Sản ngày nay vì đã quá thừa ngưòi thì cần chiếm đất để mở rộng “không gian sinh tồn”, ngăn ngừa một Nhật Bản thứ hai (*12), cho nên diệt chủng là cách lưỡng toàn.
Có rất nhiều tài liệu lịch sử đã được phổ biến cho thấy chiến tranh ở VN kể từ Chiến dịch biên giới 1950, trận Điên Biên Phủ và Hiệp định Geneve 1954, các chính sách lớn của CSVN kể cả cuộc CCRĐ đẫm máu 1956, tất cả đều có bàn tay của Tàu xếp đặt và điều khiển để làm suy yếu VN.
Sau 1954 dù không muốn thấy một VN thống nhất, Tàu nhận thấy việc yểm trợ Bắc Việt xâm chiếm miền Nam là cần thiết để ngăn chận Nga Xô bành trướng thế lực, và về lâu dài còn có lợi cho mưu toan khống chế Đông Á, phá thế bao vây chiến lược của cả Nga lẫn Mỹ, do đó từ 1960 Tàu tiếp tục viện trợ hào phóng cho Bắc Việt.
Sau khi Nga Xô sụp đổ, mất chỗ dựa duy nhất, lại bị cấm vận vì chiếm đóng Miên, nền kinh tế tan hoang và nhân tâm ly tán khiến Đảng CSVN không còn đường nào khác, đành phải bám vào thứ chính nghĩa bịp bợm và hoang tưởng là “bảo vệ CNXH thế giới”, quay lại khuất phục Tàu, bí mật bán nước cho Tàu để được tồn tại (Hội nghị Thành Đô 1990).
Kiểm điểm lại, kể từ khi khởi đầu can thiệp vào Đông Dương từ năm 1930, đến nay Tàu đã chiếm được các cao điểm quân sự ở biên giới phía Bắc (Ải Nam Quan, Đồi Lão Sơn…), chiếm đóng Hoàng Sa Trường Sa để làm chủ vùng biển VN, ém quân trên Cao nguyên và bờ biển Trung phần VN, yết hầu chiến lược của toàn thể Đông Dương, lật đổ ảnh hưởng của VN tại Lào và Campuchia, tạo thế bao vây VN trên bộ và ngoài biển, gài người nắm các chức vụ then chốt trong Bộ Chính trị CSVN và guồng máy an ninh, quốc phòng VN.
Đến đây thì thấy rõ nhà cầm quyền CSVN hiện nay đang lâm vào tình thế bắt buộc phải giao căn nhà VN cho Tàu. Mọi động thái hiện nay của CSVN chính là đang chuẩn bị giao Việt Nam cho Tàu: “hèn với giặc, ác với dân”, đào sâu chia rẽ nam bắc, dung dưỡng tham nhũng phá hoại kinh tế, xã hội và văn hóa VN, dùng dối trá, đàn áp và khủng bố để triệt hạ ý chí dân tộc. Một khi ý chí đấu tranh của người dân bị mất định hướng, bị đàn áp hung bạo đến tê liệt và suy kiệt, người dân sẽ chỉ còn biết an thân thủ phận lo sinh kế. Khi mà lòng yêu nước và tinh thần đại đoàn kết dân tộc bị lụn bại thì đất nước sẽ rơi vào cái thế buộc phải lệ thuộc ngoại bang, đưa tới mất nước và bị đồng hoá, y như dân Chiêm Thành, Chân Lạp trước đây vậy.
Dân ta ở VN sẽ thành ra người Tàu gốc Việt, như là đã xảy ra ở Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông vậy. Sẽ lại có thể xảy ra một đợt di tản lớn, người Việt lại ào ạt chạy ra nước ngoài, vài ba thế hệ sau là thành con lai hết…. Rốt cuộc đó cũng là thể hiện quy luật vận động của lịch sử loài người: Di dân và Đồng hoá. Khí thế đấu tranh của dân tộc nếu không đủ mạnh để sớm lật đổ chế độ cai trị độc tài của Đảng CSVN thì khó có thể tránh được một cuộc chiến tự diệt chủng tàn khốc nữa có thể làm tan rã Việt Nam.
Cuộc cờ muôn thuở ở VN cho tới nay vẫn không thay đổi, sau mỗi cuộc cờ, giữa 2 phe người Việt, vẫn không có bên nào là “Bên Thắng Cuộc”, mà kẻ thắng chính là Tàu, còn kẻ thua cuộc vẫn là nhân dân Việt Nam, là Việt tộc, là các dân tộc Đông Dương.
B-Mỹ đối phó với Tàu kiểu gì ?
Trong điều kiện chủ nghĩa bá quyền Đại Hán còn tồn tại, nếu VN bị Tàu thôn tính hoặc hoàn toàn kiểm soát, thì Đông Dương và Biển Đông sẽ thuộc về Tàu. Tình thế này đã được dự đoán từ sau Thế chiến II, và không thể được các cường quốc khác chấp nhận.
Còn đối với Mỹ thì sao? nếu VN mất vào tay Tàu thì Mỹ cũng đâu có thiệt gì?
Đại chiến lược của Mỹ (*13) vẫn là giữ vững thế siêu cường số một- Mục tiêu cốt lõi của Mỹ vẫn là bảo vệ các giá trị Mỹ, bảo vệ và phát triển lợi nhuận các đại công ty tài phiệt và công kỹ nghệ.
Đối với Mỹ, quyền lợi là trên hết, cho nên Mỹ vốn là cần Tàu hơn là cần VN. Đầu tư của tư bản Mỹ vào Tàu rất lớn, thông qua nhà cầm quyền độc tài đảng trị CS Tàu, Mỹ không cần xâm lăng đất đai của Tàu cũng vẫn bóc lột được 1 tỷ rưỡi người Tàu
Trong Đại chiến lược nhằm đối đầu với những thế lực có tiềm năng tranh chấp vai trò số 1 của mình, bao giờ kẻ mạnh hơn cũng chủ động áp dụng chiến thuật Điểm và Diện, sao cho địch thủ không đỡ nổi. Đối phó với Tàu, tranh chấp ưu thế quân sự trên biển Đông chỉ là “Diện”, còn “Điểm” chính là cái “tử huyêt” của tên khổng lồ một mắt Đại Hán mà Mỹ đang khai thác, đó là mâu thuẫn sinh tử giữa thể chế chính trị độc tài toàn trị và nền kinh tế thị trường đang toàn cầu hóa nhanh chóng dưới tác động thúc đẩy ngày càng mạnh của các tiến bộ khoa học, công nghệ, kỹ thuật, đó chính là cái mâu thuẫn “ai thắng ai” giữa “quan hệ sản xuất lỗi thời, phản động” và “lực lượng sản xuất tiên tiến”, nói theo thuật ngữ Mác Xít-
Cái mạnh căn bản của một đảng chính trị, một chế độ, một quốc gia, cho đến một đại cường vẫn là phải có cái thế “chính danh” trong triết học chính trị của mình. Mỹ và đồng minh có nền văn hóa và thể chế chính trị phù hợp với nhau và đi đúng xu thế thời đại, là nhân bản, dân chủ hóa và toàn cầu hóa, tức là có “chính danh”. Cái mạnh này của phe các nước dân chủ chính là cái yếu chí tử của các thể chế chính trị độc tài toàn trị, vốn chỉ có thể tạm thời tồn tại nhờ vào dối trá và đàn áp.
Do đó Mỹ không dại gì để gây chiến, vì không có lợi- Mỹ đã thắng Nga và sắp xếp Nga vào quỹ đạo thế giới thế nào thì cũng sẽ tính là về lâu dài sẽ thắng Tàu và sắp xếp Tàu vào trật tự thế giới bằng cách tương tự. Mỹ đang một mặt sắp xếp cái bẫy chạy đua vũ trang, một mặt thúc đẩy Tàu đi cho hết chu kỳ bành trướng quyền lực. Mỹ đang thổi cho Tàu phải phình to ra để sẽ tự nổ thành nhiều mảnh, y như Nga Xô Viết vậy, dù biết trước mà vẫn không tránh được…. Từ nay cho tới lúc đó, thì nếu Tàu mà ra mặt đụng độ với Mỹ, Mỹ chỉ cần xù nợ hoặc không mua hàng là Tàu sẽ gặp khó khăn rất lớn, có thể có nội loạn ngay nếu có thêm cả trăm triệu người thất nghiệp do cấm vận. “Cấm vận” là vũ khí độc quyền của kẻ mạnh: Mỹ và đồng minh.
Dĩ nhiên Mỹ cũng sẽ gặp khó khăn, vì đã có phần nào phụ thuộc vào hàng hóa rẻ tiền nhập từ Tàu. Tuy nhiên vì mục tiêu lâu dài trong Đại chiến lược của mình, Mỹ cũng không thể để Tàu chiếm được VN hoàn toàn, vậy thì Mỹ và đồng minh sẽ phải tìm mọi cách để ngăn chặn tham vọng bành trướng của Tàu bằng cách yểm trợ cho phe chống đối ở VN trở nên đủ mạnh để tạo áp lực với Tàu, buộc Tàu phải dừng chân lại.
Chiến tranh giằng co ở Đông Dương do đó sẽ lại bùng nổ dưới hình thức chiến tranh ủy nhiệm. Tại sao phải là chiến tranh ủy nhiệm? vì chắc chắn Tàu và Mỹ (và Nhật, Ấn, Úc…) sẽ không trực tiếp đánh giết nhau, nhưng sẽ dựa vào tình trạng mâu thuẫn, chia rẽ và suy sụp ở VN để tạo ra 2 phe, thí dụ: phe Bắc Việt (thân Tàu) và phe Mặt Trận Giải Phóng v.v… và viện trợ cho 2 phe đánh giết nhau. Cuộc chiến Long tranh Hổ đấu để tái sắp xếp bàn cờ và tranh dành quyền lực ở Thái Bình Dương này sẽ lại làm cho dân Việt xương tan máu đổ vài chục năm, rốt cuộc chỉ để Mỹ đạt được thỏa hiệp với Tàu, thể hiện bằng cách chia đôi VN như vào năm 1954.
Cái mà Mỹ muốn và phải được, là cầm chân được Tàu, duy trì hiện trạng cán cân lực lượng với ưu thế về Mỹ, chờ dịp để thực hiện “tái sắp xếp” Tàu vào quỹ đạo thế giới của mình, giống như đã từng làm với Nhật, Đức sau năm 1945 và với Liên Xô sau 1991. Cái mà Tàu được sẽ có ý nghĩa lớn đối với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, là làm chủ thực sự nửa nước VN, mở được cửa ngõ tiến ra biển Đông để trở thành cường quốc biển.
Ngoài lý do là thế xung đột không tránh được giữa Tàu với Nhật, và giữa đại cường cũ (Mỹ) với đại cường mới (Tàu) đang hình thành trong khu vực không gian sinh tồn, còn một lý do nữa để cho thấy chiến tranh ủy nhiệm chu kỳ là khó tránh, là vì các đại cường luôn luôn cần thử nghiệm, sản xuất và dự trữ vũ khí mới, đồng thời kho vũ khí cũ trị giá hàng ngàn tỷ cần phải được tiêu thụ. Trong chiến tranh VN Mỹ đã dùng số bom đạn nhiều gấp 10 lần so với trong thế chiến II. Không phải Vũ khí là loại hàng hóa đem lại siêu lợi nhuận sao?
C- Kiếp nạn cuối của VN?-
Về mặt địa chính trị, người ta thấy một tình huống có tính quy luật:
Một đất nước bị tụt hậu, suy sụp mọi mặt và chia rẽ đến tận tập đoàn lãnh đạo, đồng thời lại ở vị trí địa lý bị giằng co giữa những thế lực đại cường, thì khó thoát được nạn bị chia cắt lãnh thổ hoặc tan rã.
*Tình huống này đã xảy ra ở Việt Nam và Hàn Quốc vào những năm 1950 với Hiệp định Bàn Môn Điếm chia đôi Hàn Quốc, và Hiệp Định Geneva chia đôi VN.
*Tình huống này cũng đang xảy ra hiện nay ở Việt Nam: tình trạng đất nước bị lệ thuộc, tụt hậu, suy sụp mọi mặt và chia rẽ Bắc Nam rất trầm trọng ngay cả trong hàng ngũ cao cấp nhất của Đảng CSVN sẽ mau chóng đẩy cả nước vào tình thế bị chia cắt lãnh thổ hoặc tan rã.
Như vậy là bãi chiến trường đã được chọn. Thế cờ sắp tới là cả Mỹ và Tàu đều chuẩn bị thử sức nhau lâu dài ở biển Đông, ở miền Nam VN. Nếu không phục hưng lên kịp, VN sẽ vẫn là 1 quân cờ, là nơi tiêu thụ vũ khí tồn kho, nơi chiến trường trắc nghiệm kỹ thuật chiến tranh và vũ khí mới. Điềm gì đây khi Mỹ đã bỏ cấm vận vũ khí sát thương cho VN (cuối tháng 5, 2016) mà không ràng buộc gì với nhân quyền? Nếu vũ khí Mỹ lại ào ạt đổ vào VN, thì có cách gì khác để Mỹ chống Tàu mà không dùng đến máu VN?
Mặc dù lịch sử diễn biến, nhưng với một nền tuyên truyền dối trá và bưng bít sự thật, bị chi phối bởi Tàu và tay sai, thế hệ con em chúng ta đã và sẽ không học hỏi được kinh nghiệm gì của lịch sử, đại cuộc như vậy vẫn sẽ tiếp tục bị chi phối bởi thế lực ngoại bang, cho nên đại thể diễn biến lịch sử sắp tới sẽ vẫn là cảnh bổn cũ soạn lại. Những bàn tay lông lá cũ đã và đang chuẩn bị những lá bài mới cho giai đoạn mới.
Tình hình quốc nạn như nước sôi lửa bỏng, trong lúc giai cấp lãnh đạo càng ngày càng thối nát, hèn với giặc ác với dân, đồng thời chia rẽ và mâu thuẫn về quyền lực và quyền lợi giữa các nhóm lợi ích ngày càng gay gắt. Đảng CSVN và các lãnh tụ huyền thoại của họ ngày nay đã lộ hết bộ mặt thật tay sai phản dân bán nước, nên không còn chút uy tín gì với nhân dân. Một mặt do họ tự đánh mất qua sự dốt nát, tác phong côn đồ tồi tệ và sự độc ác phi nhân tính của họ khi họ đàn áp, khủng bố chính nhân dân của mình.
Mặt khác, từ sau 1975 tới nay, chính Tàu và những đảng viên CSVN ly khai đã tiết lộ cho cả thế giới biết những cuộc thanh trừng nội bộ tranh dành quyền lực, những thói dâm ô xấu xa của các lãnh tụ, mọi chuyện thâm cung bí sử trong bang giao Tàu-Việt, vai trò chỉ huy của các cố vấn Tàu trong các chiến dịch quân sự từ 1950-1954 (*14), các văn bản thỏa thuận giao chủ quyền biển đảo và biên giới VN. Những tiết lộ này đã khiến cho chút chính nghĩa “giải phóng” giả tạo cũng trở thành khôi hài. Tàu ngày nay thấy không còn cần che dấu nữa, không cần bảo vệ chút uy tín nào của đàn em như trước đây nữa.
Thái độ ngược ngạo, độc ác ở biển Đông, ở thượng nguồn sông Mê Kông cho thấy Tàu đang nhấn mạnh cho dân Việt và thế giới biết rằng: Tình trạng lệ thuộc của VN đã được xác định. Sự tồn tại của Đảng và Chính quyền CSVN ngày nay hoàn toàn nằm trong bàn tay Tàu, buông ra thì còn thoi thóp, bóp lại là chết ngay. Dân Việt nay như cá nằm trên thớt. Việc bị diệt chủng là đã an bài.
Với tình trạng trần truồng và bất lực như vậy, ai còn tin được Đảng CSVN còn có khả năng và cơ hội để bảo vệ đất nước VN thì thật là hoang tưởng. Không lạ gì khi thấy CSVN phải hèn với giặc, ác với dân. Ngay cả những cuộc biểu tình bất bạo động chống tội ác Tập đoàn Formosa xả độc phá hoại tài nguyên và đầu độc môi sinh biển Vũng Áng lan ra suốt dọc bờ biển VN mà cũng bị đàn áp đổ máu, chứng tỏ chúng xem dân như bầy thú nuôi bị nhốt chờ làm thịt.
Điều đáng lo ngại là Phong trào đấu tranh và phản kháng trong nước đang đứng trước nguy cơ bị đàn áp khủng bố tệ hại nhất, vì bộ máy đàn áp đang được điều khiển bởi Tàu, qua những Robot mang nhãn hiệu VN nhưng được sản xuất bởi Tàu như: Nguyễn Phú Trọng, Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang v.v… Đảng cầm quyền tay sai nếu không đủ nhân lực và vũ khí phương tiện để đàn áp hiệu quả, thì sẽ nhận được ngay viện trợ dồi dào từ Tàu. Sẽ không lạ nếu qui mô đàn áp khủng bố có thể tàn bạo tới mức diệt chủng, vì đó là bản chất của chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị ở bất cứ nơi nào trên thế giới (td: Thiên An Môn).
Xin mở ở đây một dấu ngoặc: Cùng thời gian và điều kiện gần giống VN, Hàn Quốc đã bị chia đôi, vậy Bắc Hàn đang và sẽ tồn tại như thế nào?
Hàn Quốc là 1 bán đảo, giống như 1 cái giỏ. Dưới áp lực xâm lược của Tàu và Nhật, người dân Hàn không có nẻo thoát bằng nam tiến như dân Việt. Họ còn tồn tại là nhờ họ rất cứng cỏi, họ đã không hề bị đô hộ mấy ngàn năm như VN. Hiện nay, dù bị buộc phải lệ thuộc Tàu về kinh tế, và áp lực về chính trị, chế độ cai trị ở Bắc Hàn vẫn tỏ ra rất độc lập với Tàu về chủ quyền.
Chính sách chống Mỹ cực đoan có vẻ như điên cuồng đã giúp cho Bắc Hàn thực hiện chương trình vũ khí nguyên tử và phát triển hỏa tiễn tầm xa. Thái độ có vẻ hung hăng quá khích này của họ Kim trên thực tế không những không làm hại an ninh hoặc quyền lợi kinh tế của Nam Hàn, và thế lực quân sự của Mỹ, mà lại có vẻ có lợi, vì tạo điều kiện cho Nam Hàn gia tăng quốc phòng, và Mỹ có cớ triển khai tên lửa phòng thủ sát nách Tàu, giống như bên tung bên hứng; Trong khi đó Tàu vẫn bị buộc phải nuôi Bắc Hàn mà không can thiệp được vào chương trình nguyên tử của Bắc Hàn, cũng không thể cài người vào trong tập đoàn lãnh đạo dưới bàn tay chuyên chế sắt máu của gia tộc phong kiến quân phiệt họ Kim.
Gia tộc họ Kim đã giữ vững được chủ quyền, ổn định được đất nước và chế độ suốt 3 thế hệ, kể từ Kim Nhật Thành, thì phải là những người lãnh đạo có bản lãnh, không thể là khùng điên, hung đồ như người ta vẫn nhận xét- Với bom Nguyên tử, một ngày nào đó, nếu chế độ Bắc Hàn muốn thống nhất với miền Nam, chắc chắn Tàu cũng sẽ không làm gì được. Thiển nghĩ trong điều kiện bị áp lực kinh tế và cô lập chính trị của mình, Bắc Hàn mặc dù chưa thể đưa người dân thoát khỏi cuộc sống nghèo đói, không còn cách nào khác tốt hơn là xử dụng kế “Tôn Tẫn giả điên” như đã và đang làm để có được vũ khí nguyên tử hầu giữ được chủ quyền trước mối đe dọa xâm chiếm và đồng hóa của Tàu, thay vì tiếp tục chọn giải pháp tự diệt chủng, xua quân “giải phóng miền Nam” như các lãnh tụ CSVN đã làm.
Cần thêm là vào giữa năm 2015, không rõ thực sự vì áp lực từ đâu, VN đã phải giao cho Nga gần 30kg Plutonium tinh chế, là nguyên liệu làm bom nguyên tử (*15). Phải chăng Tàu sợ một họ Kim khác xuất hiện ở VN?
Đối với Việt Nam, tình trạng tụt hậu, suy sụp và lệ thuộc Tàu mọi mặt, lãnh đạo thì hèn kém và chia rẽ, dân khí lại bạc nhược đến nỗi thay vì kết hợp lại để chống lại giặc nội xâm và diệt chủng, thì lại hầu như bất cứ ai có dịp là đều sẵn sàng bỏ nước ra đi, cho thấy nguy cơ tan rã hoặc bị chia cắt rất cận kề. Nếu không chấn hưng được dân khí, huy động được toàn lực nhân dân trong nước, cộng thêm yểm trợ của các nước lân bang, thì ít nhất sẽ mất miền Bắc. Một bộ phận dân Việt nếu tiếp tục chạy thoát được sang các nước khác thì sau vài thế hệ cũng bị lai giống hoặc đồng hóa.
Sự tồn tại của Việt tộc luôn luôn bị đe dọa bởi chủ nghĩa bá quyền Đại Hán, ngày nay lại còn đồng thời bị đầu độc bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản. Sức sống của dân tộc đang bị mòn mỏi cùng cực- Nếu không lật đổ được Chế độ CS thối nát này, thì cơ may tồn tại của dất nước VN rất ít. Trừ phi Tàu, do bị Mỹ “triệt buộc”, phải phình to và tự nổ sớm, thì VN sẽ lại có thêm một vận hội mới, nhờ vào thế mạnh của cuộc cách mạng dân chủ thế giới đợt thứ 3.
Trong vận hội mới này, muốn huy động được sức mạnh cả nước hầu mau chóng tiến lên cho kịp thế giới, vấn đề chính danh sẽ có thể lại phải được đặt ra- Lúc đó, dù CNCS đã bị loại bỏ trong phạm vi cả nước hay chỉ ở miền Nam, thì đất nước dù chưa tan hoang (mong thay), nhưng với tình trạng nhân tâm ly tán, dân khí bạc nhược, tệ hại nhiều hơn so với những năm 50, thì phong trào dân chủ VN sẽ chọn thể chế nhà nước nào và theo mô hình chính trị nào cho phù hợp với nền văn hóa, điều kiện xã hội và trình độ dân trí để khỏi lâm vào cảnh “nói một đàng làm một nẻo” như 70 năm qua? Đó là những điều khiến phải suy nghĩ hoặc bắt đầu chuẩn bị, vì nếu lại sai lạc nữa, thì sự tan rã sẽ khó tránh.
———————————————————————————
GHI CHÚ
(*1) -Dân khí, Nguyên khí dân tộc: Cách đây hơn năm thế kỷ, Thân Nhân Trung (Thân Trọng Đức 1418-1499 thời Vua Lê Thánh Tôn) đã viết: “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn…”- Hoặc theo cụ Phan Chu Trinh,: “Chấn dân khí- Hưng dân trí- Hậu dân sinh…”
*Ý thức của thành phần lãnh đạo về sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân là đặc điểm của dân khí cường mãnh: Hội nghị Diên Hồng. Biểu hiện của dân khí là ở chỗ xuất hiện những bậc hào kiệt có khả năng quy tụ quần chúng đông đảo đứng lên chống xâm lăng, xây dựng đất nước .
(*2)-Chiếm Chiêm Thành: Khởi đầu với vua Lý Thánh Tông (1069), đến năm 1693 với chúa Nguyễn Phúc Chu, xóa sổ nước Chiêm Thành-
-Chiếm Miên (Chân lạp): Khởi đầu từ 1658, Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chiếm Biên Hòa. Năm 1835 do Miên suy yếu, bị Xiêm (Thái) xâm lược, vua Minh Mạng giúp đánh đuổi quân Xiêm và chiếm đóng Miên, đặt Nam Vang là Trấn Tây Thành.
*Xem thêm: Cambodia, lá bài cũ và câu chuyện mới của người Trung Quốc. https://www.facebook.com/notes/lang-anh/cambodia-lá-bài-cũ-và-câu-chuyện-mới-của-người-trung-quốc/10203354821471319
(* 3 )-Trần Bình Nam – Lê Duẩn và Trung Quốc http://chinhnghiaquocgia.blogspot.com/2011/09/le-duan-va-trung-quoc.html- … “ Đối với Trung quốc một ViệtNam chia đôi, miền Bắc không thể mạnh để thành một mối lo cho Trung quốc, đồng thời làm trái độn ở biên giới phía Nam giúp Trung quốc tránh sự tiếp cận với các lực lượng quân sự Hoa Kỳ…”.
(*4 )- Xem Đại Nghĩa: Hồ Chí Minh và Cải Cách Ruộng Đất.Mao cử 1 đoàn cố vấn Tầu do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây lãnh đạo bên cạnh Hồ Chí Minh, lập ra các đội CCRĐ ở từng địa phương, uy quyền đến nỗi ra lệnh đấu tố, giết cả cán bộ Đảng; không khí sợ hãi đến nay còn truyền tụng: “nhất đội, nhì giời”-
*Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1954-1982) kể lại trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào: “Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta ….
*Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau năm 1975: “Trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004).
* Bùi Tín, Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng hổi- http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8440&rb=0401:“…Chưa hết, theo thống kê nội bộ, trong chỉnh đốn tổ chức được tiến hành ở 2.876 chi bộ ĐCS gồm có 15 vạn đảng viên, đã có đến 84.000 đảng viên bị xử trí (bị tù, tra tấn, xỉ vả, bị giết) chiếm 47%. Con số khủng khiếp này – nhiều hơn số địa chủ bị đấu tố – đã được giữ rất kín… Số đảng viên bị tra tấn còn tàn khốc hơn dân thường vì bị coi là phần tử thù địch chui vào Đảng để phá từ bên trong. Hầu hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn khá”.
*Xem thêm: Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, NXB OsinBook, California, USA 2012, trg 255 “…Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “Chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho Đảng”.
*Xem thêm: Trần Gia Phụng, Huyền thoại Hồ Chí Minh (Đàn Chim Việt- 20/3/2013): “Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí thức khác, và hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(5) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai không theo chủ nghĩa CS và có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã, dù họ là những người yêu nước hay là những nhân tài của đất nước. Việt Minh gọi hành động nầy là “giết tiềm lực”, tức giết những người có tiềm lực nguy hiểm cho CS về sau.”
*Xem thêm: Trần Ngươn Phiêu, Nhân chứng cuối cùng-
(*5) -Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương, http://www.trantrungdao.com/?p=290) Sự thật bị giấu kín (320 ngàn quân Trung Cộng từng tham gia chiến tranh Việt Nam
(*6) -Trận Tết Mậu Thân 1968- Xem:Wikipedia:http://vi.wikipedia.org/wiki/Sự_kiện_Tết_Mậu_Thân#cite_ref-24. “.. Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, các lực lượng chính trị bị lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn các năm trước…”.
Xem thêm: Trần Nguơn Phiêu, Gió mùa Đông Bắc (2008).- Nỗi lòng Huỳnh Tấn Phát.
(*7) -Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 1- http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-1.“Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”…
*Xem thêm: Robert F. Turner, Những sự thật về chiến tranh Việt Nam, Hậu quả của Hoa Kỳ sau khi bỏ rơi Đông Dương.
(*8)Nguyễn Gia Kiểng – Quan hệ Việt- Trung- Thực tế bẽ bàng hơn nhiều. http://ethongluan.org/ 301
(*9) Đào văn Bình- Cuộc trưng cầu dân ý truất phế Vua Bảo Đại 1955-http://daovanbinh.cattien.us/?p=299 –
*Xem thêm: Huỳnh Văn Lang- ĐỆ NHỨT CỘNG HÒA của Miền Nam (1955-1963)- https://kbchaingoai.wordpress.com/2011/05/25/ngo-dinh-diệm-co-soan-ngoi-vua-bảo-dại.
(*10)-BBC Tiếng Việt 2/2/2015: ‘Đảng CS có chính danh để lãnh đạo VN’- Phân tích về ‘tính tất yếu về vai trò lãnh đạo của Đảng’, ông Vũ Minh Giang cho rằng việc Đảng ra đời ‘nằm trong mạnh nối là giải phóng dân tộc’ sau khi triều đình phong kiến đã làm hết sức nhưng vẫn để mất nước vào tay người Pháp và các cuộc khởi nghĩa vũ trang và các cuộc cải cách mà các nhà chí sỹ khởi xướng đều thất bại. http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/02/150202_vuminhgiang_party_role, (Chú Ý: Đây là một thủ đoạn lập lờ, dối trá, vì lúc đó họ núp dưới bộ mặt Việt Minh, dấu biệt cái đuôi Cộng Sản. Đã là lừa bịp thì không thể có chính danh, chính nghĩa.
(*11) -Lý Đông A, Chu Tri Lục 3 Cương Lĩnh (1943). http://thangnghia.com/?p=43http://old.danchimviet.info/archives/35479
(*12) Friedrich Ratzel- Không gian sinh tồn http://www.chinhluanvn.com/2012/12/ban-ve-ly-thuyet-ia-chinh-tri-khong.html
(*13)- Paul D Miller (2012), “Fine pillars of American Grand Strategy- Global Politics and Strategy, Vol. 54, No. 5, pp. 7 – 44 (Năm trụ cột trong Đại chiến lược Mỹ), Biên dịch và Hiệu đính: Nguyễn Thị Nhung http://nghiencuuquocte.org/2013/12/19/5-tru-cot-dai-chien-luoc-my/
(*14)- Xem: VAI TRÒ CỦA TƯỚNG TÀU TRONG TRẬN ĐIỆN BIÊNPHỦ
https://www.facebook.com/phuc.vo.583/posts/596407037133740?utm_source=feedburner&utm_medium=feed&utm_campaign=Feed%3A+NV-Facebook+(Facebook)
(*15)- Xem: http://www.tin247.com/viet_nam_tra_nga_16_kg_uranium-1-22363256.html
NÓI VỀ TRIẾT LÝ HAY TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ
Cho dù phức tạp hay mờ ảo đàng trời, bản chất chính trị vẫn luôn luôn phụ thuộc vào ba phương diện : khoa học chính trị, triết lý chính trị, thực tiển chính trị. Thực tiển chính trị là cái bề nổi và quyết định nhất, bởi vì nó luôn chính là cái thực tế trước mắt. Nhưng sâu xa hơn thực tiển chính trị, đó chính là khoa học chính trị, và còn sâu sắc hơn nữa, đó chính là triết học hay triết lý chính trị.
Bởi thực tiển chính trị dầu sao cũng là sự hiện thức, mà hiệu quả của mọi hiện thực hay kết quả của mọi hiện thực đều cần phải dựa trên khoa học, có nghĩa là chiến thuật, chiến lược trong thực tế, nên nếu tính toán đúng, chính xác, chính trị đó thắng lợi, thành công, nếu không thì thất bại, dù theo hướng nào cũng vây.
Nhưng khoa học nào cũng chỉ áp dụng được cho cái cụ thể, không áp dụng được cho cái trừu tượng, nhất là thường nó chỉ áp dụng vào cho hiện thực, cho vật chất, khó có thể áp dụng được cho ý thức, tư duy, tình cảm, cảm xúc của con người. Bởi vậy chính những cái sau này là đối tượng của ý nghĩa cao hơn đó chính là triết lý hay triết học chính trị.
Nên điều mà nhân vật lịch sử nổi tiếng Thân Nhân Trung nói về nguyên khí quốc gia cách đây nhiều trăm năm, hay chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh nói về dân trí, dân khí, dân sinh cách đây đã trăm năm đều không ngoài là triết lý chính trị. Có nghĩa triết lý chính trị vẫn luôn là cái căn cơ, cái cốt lõi quan trọng nhất quyết định cho cả khoa học chính trị lẫn thực tế chính trị.
Nói cách cụ thể và dễ hiểu hơn, triết lý chính trị là nhắm vào con người, nhắm vào ý thức và sự hiểu biết của con người. Ý thức đó ở đây chính là lòng yêu nước, tình cảm thiết tha với dân tộc, đất nước. Nhưng cái đó không phải ai cũng có, mà thường chỉ có ở giới hiểu biết, giới trí thức, giới tinh hoa trong thời điểm, thời đại nào đó, mà Thân Nhân Trung gọi là nguyên khí quốc gia. Ông ta nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh, thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy, thì thế nước yếu mà thấp hèn…” Đó là nghĩa như thế.
Hay khi nhà ái quốc Phan Chu Trinh nhấn mạnh “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, cũng là nói ba bộ phận không thể thiếu hay bị xem nhẹ trong thời hiện đại về nguyên khí quốc gia như ngày xưa Thân Nhân Trung đã lưu ý. Ở đây những cái đó trước hết phải được áp dụng cho người vận động chính trị, người lãnh đạo chính trị, người cầm quyền, rồi đến mọi tầng lớp quần chúng nhân dân.
Bởi vì nếu người cầm quyền, người đứng đầu chính trị mà không có những điều đó, nhân dân nếu có cũng chịu thua, tức hoặc phải đầu hàng hoàn cảnh, hoặc phải thay vào đó lớp cầm quyền mới bằng một cuộc cách mạng nào đó để cải thiện tình trạng rồi mới cùng áp dụng được cho về phần mình. Cho nên mọi quan điểm bình dân đều chỉ là những quan điểm ngu dân hoặc là mị dân.
Vì mị dân hay ngu dân là chỉ nghĩ đến quyền lợi chính mình mà không nghĩ đến quyền lợi chung của đất nước và nhân dân. Nói rộng ra mọi ý nghĩa quan điểm độc tài đều như thế. Tức chỉ nhằm muốn bảo vệ mọi quyền lợi chính trị cho riêng mình thì thường hay áp dụng mọi thủ đoạn tuyên truyền chính trị mà mục đích nhằm gạt dân, mị dân, ngu dân. Nên trước tiên chỉ nhìn vào các biện pháp, cách thức tuyên truyền, giáo hóa dân chúng người ta cũng có thể thấy được bản chất của các ý nghĩa hay thực tế chính trị là như thế nào.
Nói cách rõ ràng hơn, mọi chính trị lành mạnh và sáng suốt thì không bao giờ độc tài hoặc mị dân một cách sai trái, vì như thế chẳng khác gì đưa dân vào chỗ tăm tối, tồi tàn, chỉ có lợi cho kẻ cầm quyền mà không bao giờ có lợi gì cho xã hội, dân tộc hay đất nước. Nhất là nếu nền độc tài lại chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, đến từ bên ngoài dưới dạng cơ chế xã hội hay kiểu ý thức hệ giả tạo nào đó, điều đó càng nguy hại cho nhân dân và đất nước. Bởi như thế cuối cùng chỉ có toàn sự dốt nát, sụ mù quáng, sự suy thoái cho toàn xã hội, sự suy vong hay sự tiêu diệt nguyên khí đất nước như Thân Nhân Trung đã nói.
Những chế độ độc tài kiểu đó đều làm tê liệt dân khí, làm hạ thấp dân trí, cuối cùng làm lũng đoạn và hủy hoại dân sinh, giống như Phan Chu Trinh đã nói. Như vậy kết luận lại, dân trí là ý nghĩa quan trọng nhất, bởi dân trí mới quyết định cả dân khí cũng như cả dân sinh. Bởi nhận thức mà thấp kém, trí não kém phát triển, thế thì còn gì hiểu biết mọi mặt để đi lên, còn gì ý thức để yêu nước, yêu dân, yêu quốc gia, xã hội. Có nghĩa sẽ hoàn toàn bị người khác xỏ mũi, đặc biệt là những thế lực nước ngoài xỏ mũi, cho dù đó là ai cũng vậy, toàn dân cũng thế mà giới cầm quyền hay lãnh đạo chính trị cũng thế.
Vậy nói chung lại, triết học hay triết lý chính trị chính là đỉnh cao nhất của mọi ý thức chính trị. Bởi triết lý chính trị chính là tư tưởng chính trị và tư duy chính trị. Biết phân biệt tư tưởng chính trị nào là đúng, tư tưởng chính trị nào là sai, biết phân biệt nguyên lý chính trị nào là tốt đẹp, nguyên lý chính trị nào là xấu xa hay tệ hại, đó không những chỉ đơn thuần là năng lực, khả năng nhận thức mà còn chính là tư duy tức là óc phán đoán chính trị. Kiểu tuyên truyền, giáo dục ý thức hệ theo cách một chiều để phục vụ độc tài đó là phản triết lý chính trị, phản khoa học chính trị, phản mọi yêu cầu thực tế sáng suốt và hiệu quả của chính trị.
Cho nên chỉ có ý thức về sự tự do dân chủ, ý thức về ý nghĩa dân tộc tự cường, ý thức về yêu cầu phát triển đất nước, mới thật sự là nhưng yêu cầu tư tưởng chính trị lành mạnh, hữu ích và chính nghĩa nhất. Ngược lại, mọi niềm tin mù quáng, mọi sự mê tín hay nhân danh về ý thức hệ, giáo điều nào đó, hoặc mọi chủ trương độc tài phản dân chủ đều vi phạm vào triết lý chính trị, vi phạm vào khoa học chính trị, đi ngược lại mọi ý nghĩa hay yêu cầu thực tế chính trị trong sáng hay lành mạnh nhất. Triết lý chính trị hay tư duy chính trị tự chủ, năng động, sáng suốt, đó chính là đỉnh cao của dân trí, là nền tảng để phát triển xã hội, cũng như là yếu tố thiết yếu nhất để bảo vệ dân tộc, bảo vệ đất nước trong mọi trường hợp trước mọi họa xâm lăng từ bên ngoài và từ mọi phía.
THƯỢNG NGÀN
(17/6/16)