Báo VN bàn về công hàm 1958
LTS: Gần đây công hàm năm 1958 do thủ tướng Bắc Việt lúc đó, ông Phạm Văn Đồng ký kết với Trung Quốc được cộng đồng mạng, qua các trang web lề trái, sôi nổi bàn bạc, mổ xẻ, phân tích dưới các góc độ khác nhau. Công hàm này, ông Đồng đã thừa nhận lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý và nhiều ý kiến cho rằng, một cách gián tiếp Bắc Việt đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hoàng Sa. Nặng nề hơn nữa, nhiều người còn gọi đây là “Công hàm bán nước”.
Gần đây khi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc gia tăng, báo chí Trung Quốc cũng úp mở lôi công hàm này ra như một bằng chứng. Việt Nam, cho tới nay chưa chính thức nói năng gì về công hàm này.
Hôm nay, lần đầu tiên một tời báo ‘lề phải’, tờ Đại Đoàn Kết (báo giấy) có bài viết đề cập trực diện tới công hàm 1958. Chúng tôi xin chuyển lại nguyên văn bài viết này.
Bản điện tử của Tuần Việt Nam.
———————————————–
Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
“Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan.
Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia.
Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra.
Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược “lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.
Ngày 26/5/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3/9/1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất.
Ngày 11/8/1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ “giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Ngày 12/9/1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này.
Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23/8/1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ.
Ngoài bối cảnh “phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH -Trung Quốc lúc đó “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích “sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã “lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên.
Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu.
Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4/9/1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực.
Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế.
Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do.
Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết “estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.
Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết “estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại “estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại “estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án “Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án “Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án “Ngôi đền Preah Vihear”…
Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.
Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ “nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu “miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”.
Tác giả: Báo giấy Đại Đoàn Kết
SAO MÀ LẨN THẨN
Người viết bài này tỏ ra lẩn thẩn. Công nhận 12 hải lý cho TQ do TQ tuyên bố, mà trong vòng 12 hải lý đó, lại gồm mẹ nó các đảo của VN rồi, đó là giả khôn hay giả dại của ông PVĐ ?
NK
CHỈ CÓ ĐÁNG GHÉT
Bây giờ nhìn cái mặt của ông PVĐ chỉ có thấy đáng ghét! Ông ta đang cười cái gì ? Cái mặt của ông không thấy có chút tính khí cao cả nào. Ông đã từng xưng chống Pháp cứu nước, sao lại còn dâng đảo cho TQ, hay ông thực chất cũng chỉ là một cán bộ chính trị của Đệ tam quốc tế thuần túy mà thôi ? Ôi, chỉ nhìn cái mặt, cái cười của ông cũng nhận thức được cái chí khí, cái tinh thần yêu nước của ông như thế nào rồi ! Cho dầu ông đã chết, nhưng vẫn cứ thấy đáng ghét !
ĐH
Trích : “Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.”
- Trong công Hàm 1958, làm gì có cái “một là” và “hai là” như tác gia bịa ra, mà chỉ có một câu chắc như đinh đóng cột ” Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.”
Mà trong cái gọi là “bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” thì Hoàng Sa và Trường Sa (tức Tay Sa và Nam Sa) lại được nêu rõ ràng là thuộc chủ quyền lãnh thồ của Trung quốc.
VN không thiếu vắng những nhà lý luận tài ba, nhưng tại sao lại để cho những tay viết non nớt như tác giả bài này viết những điều ngây ngô để, vô tình cho đối phương có thêm “phương tiện” tấn công vào bức “công hàm bán nước Phạm Văn Đồng” vốn đã là một sơ hở khó sửa chữa ?
(Chỉ nội một việc là bài báo trên không dám ghi lại nguyên văn bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của CHNDTH để đọc giả có thể đối chiếu, đã là một hành động không lương thiện rồi ).
Trích :
“Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”
- “được thể hiện rất thận trọng” ư ? “thận trong” mà lại không nhìn thấy ngay trong điều 1 là điều đầu tiên và cũng là điều quan trọng nhất của bản tuyên bố ngày 4/9/1958, phía Trung quốc ghi rõ là vùng lãnh hải 12 hải lý bao gồm cả đối với các quần đảo Tay Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của VN) sao? Nếu có “thận trong” thì phải “nhìn thấy”, mà đã nhìn thấy nhưng lại không phản đối thì giải thích sao đây ? Chẳng lẽ “Im lặng là vàng” à ?
Toàn bộ bản tuyên bố của CHNDTH và công hàm của VNDCCH ở đây
làm người vn ta không nỡ ngồi nhìn bọn trung cộng xâm chiếm hs và ts,thế nhưng qua những biến cố lịch sử đã xảy ra giữa china và vn trên văn bản hay trong tuyên ngôn của mấy vị cầm đầu của đảng csvn trong trường hợp ngược lại nếu vn là trung quốc cũng không thể chiệu nổi cái cách lừa dối lật lọng hai ba mặt như vậy của vn.phải nói rằng csvn luôn luôn áp dụng chiêu bài chính trị hai ba mặt trong nước cũng như ngoài nước không bao giờ có chút chính nghỉa công bằng miễn sao phỉnh được đối phương là cứ phỉnh,chiêu bài bài chính trị đó cho đến nay vẫn còn chơi khăm nhiều nước,ví như vấn đề biển đông nói thẳng ra việt nam đã lợi dụng việt tự do hàng hải để lôi kéo mỹ,úc(đằng sau tự do hàng hải là hs và ts),vào để có lợi cho vn,trong khi ấn độ nga họ cũng đi lại giao thương nhưng đâu thèm phải lo lắng tới mức như mỹ hay úc.chính trị csvn là vậy ai cũng nghe quan điểm của.tự lực bảo vệ bờ cỏi không dựa giẩm vào nước ngoài!vâng không dựa vào nước ngoài chỉ lừa phỉnh như phạm văn đồng lừa phỉnh mà thôi để rồi hậu quả chồng chất hậu quả.đúng là ba trợn cả đám
Trích :
“Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951….”
Vâng, “năm 1951 Việt Nam đã long trọng tuyên bố…” Nhưng Việt Nam là Việt Nam nào ? Việt Nam cộng san của Hồ chí Minh hay Việt Nam quốc gia của Bảo Đại ?
Cứ cái lối viết ” mập mờ đánh lận con đen”, thiếu liêm sỉ như thế này thì làm sao có thể tìm ra sự thật để mà có cơ sở giành lại những gì đã bị chiếm đoạt d6ay ?
Một bài viết gượng gạo, dối trá, lật lọng, đổi trắng thay đen chỉ nhằm mục đích lấp liếm để chạy tội chứ không nhằm tìm lý lẽ để vô hiệu hóa cái “công hàm bán nước 1958″ và các dữ kiện, lập luận trong bài này cũng gần giống như trong các bài của các ông Đinh Kim Phúc, Trần Bình Nam đã tung lên trong mấy ngày qua, không có gì là mới…!
Vào năm 1949 ông Hồ chí minh và đồng bọn tay sai đã ra thông cáo tuyên bố “VN không công nhận TẤT CẢ hiệp ước mà Pháp đã ký kết thay cho nhân dân VN”. Do đó, các bản đồ, hiệp định về biên giới Việt Tàu ký kết giữa Pháp và nhà Thanh, đã bị bọn Tàu xóa bỏ dời cột mốc KM0 (KM số không) vào sâu tận trong đất của VN. Ông Hồ và đồng bọn đã ngậm miệng để đổi lấy vũ khí và lương thực để xâm lăng miền Nam.
Sau này, khi công cuộc đập tan chế độ cướp bóc man rợ của bọn Du Đãng CSVN thành công, chúng ta sẽ cho ra một tuyên bố tương tự: “VN không công nhận TẤT CẢ các hiệp định về biên giới Tàu Việt mà chính quyền CSVN không được do dân bầu lên đã ký” Tất cả những văn bản ký kết liên quan đến vấn đề biên giới hải đảo sau này sẽ phải do toàn dân VN thảo luận công khai và quyết định. Sau đó nhân dân VN sẽ ủy quyền cho chính phủ đã được họ bầu ra một cách hợp pháp hợp hiến có nhiệm vụ thi hành.
Toàn dân VN chúng ta phải cùng nhau đứng lên DIỆT CỘNG để KHÁNG TÀU.
Ngày xửa ngày xưa, có hai anh em nhà nọ được cha mẹ để lại cho một mảnh vườn và hai túp lều. Mỗi người sống trong một túp lều. Ở giữa vườn nơi danh giới có bụi tre, bụi tre này lại nằm vào phía bên vườn sở hữu của người em. Oái oăm thay có ông hàng xóm, đi ra đi vào cứ nhìn khóm tre mà thèm thuồng. Nhưng biết tính cách người em khẳng khái, trực tính và sẽ không bao giờ bán chác của hồi môn cha mẹ để lại.
Lão hàng xóm lập mưu rình rập, thừa cơ hội người anh khát rượu, ông ta sang gạ gẫm, này ông ơi, tôi thích khóm tre nhà ông, tôi muốn trèo chơi thường xuyên có được không?
Người anh bèn trả lời ẫm ờ, vì biết không phải của mình và thằng em thế nào nó thấy cũng làm ầm lên!
Được, cứ sang mà trèo, tôi cho phép ông trèo hàng ngày, đưa rượu và súng đây để tôi mần đã.
Thực tế thì cái giao kèo này nó chẳng có chất lượng pháp lý gì. Vì lúc đó khóm tre đó thuộc quyền sở hữu của người em, (văn bản công chứng ngày tháng còn lưu).
Sau này anh em hòa thuận, rỡ rào dậu, sống chung thì lão hàng xóm lại nói gióng, trước kia ông đã cho tôi trèo thoải mái cơ mà, bây giờ sao không được, lật lọng hả?
Thưa ông hàng xóm, trước kia tôi nghiện ngập, giang hồ đánh đấm.v.v. còn bây giờ gia đình tôi đoàn tụ, có anh có em. Muốn làm gì tôi phải hỏi chú nó nhà tôi nữa.
Không ai có quyền cho, hoặc bán cái mà mình không sở hữu trong thời điểm đó!
Tôi không thể bán cái xe mà tôi SẼ mua. Mà vấn đề là cứ MUA XONG đi hẵng rồi mới có quyền bán!
Ông hàng xóm “lạ” cứ vớ vẩn, lởm khởm mãi nghe chối tai quá.
Bài báo có điểm tốt là lần đâu tiên dám đíi diện với sự thật phủ phàng là tội bán nước của bác và đảng. Tuy vậy lập luận nhằm bảo vệ “thanh danh” cho ông Phạm văn Đồng và nhà nước VNDCCH nói chung là ngọng.
Đoạn đầu nêu lên dã tâm thôn tính Hoàng Sa Trường Sa của Tàu đã có từ lâu, cụ thể là từ đầu thê kỷ 20. Thế rồi sau đó nói tình anh em ăn chia, kiểu hai đứa chung nhau đi ăn cướp, mầy cướp đựoc cái gì trên “vùng bảo kê” của tao thì sau đó trả cho tao, và ngược lại. Ví dụ Trung quốc chiếm được đảo Bạch long Vĩ rồi cũng sau cũng trả lại VN….Đưa ra sự kiện này, bài báo hàm ý rằng ông Đồng cho rằng Hoàng Sa, Trường Sa lúc đó của “địch” là VNCH, thôi để đồng chí anh em Trung quốc chiếm rồi sau đó trả lại cho “ta”! Như thế là bác với đảng không bán nước, nhưng cực kỳ ngu, vì thằng TQ đã âm mưu chiếm đảo từ đâu fthế kỷ kia mà!
Nói vậy chớ bác đảng mà ngu gì, khôn lõi trời, cái gì mà hông biết. Tội bán nước đã rành rành, càng che đậy càng lòi cái bản chất thúi, lưu manh!
Ngọng!
Nội dung tư tưởng bài báo này viết luộm thuộm, lý luận mâu thuẫn:
“Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích “sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã “lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố.
Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc…”
Câu đầu và câu cuối của đoạn văn này mâu thuẫn với nhau. Câu đầu thì nói Trung Cộng là kẻ xâm lăng, câu cuối cùng thì nói Hạm Đội Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan để đe doạ Trung Cộng. Vậy thì tình huống mà tác giả đang diễn tả đó là tình huống gì? Tại sao lại phải lý luận luẩn quẩn và mâu thuẫn như vậy để minh oan cho Phạm văn Đồng trong “mối quan hệ rất đặc thù với TQ” ? Quan hệ đặc thù đó là quan hệ gì? Quan hệ biết ơn TQ đã viện trợ vũ khí và nhân lực cho CSVN chiến thắng Pháp ở Điện Biên Phủ, hay quan hệ đang tiếp tục nhận vũ khí và viện trợ của TQ để nuôi dưỡng cuộc chiến tranh xâm chiếm và nhuộm đỏ ách CS vào miền Nam tự do lúc đó?
Báo VC khỏi cần phải đăng, dân VN tị nạn CS tụi tôi ở hải ngoại đã biết cái công hàm “quan hệ đặc thù” đó để bán nước cho Trung Cộng của Phạm Văn Đồng từ khuya rồi, ít nhất là trên 20 năm nay, từ thời TQ dạy cho CSVN một bài học hồi năm 1979 thì người ta đã phổ biến cái công hàm bán nước đó rồi. Giấu mãi không được, nên họ đành phải tự thú là có thiệt, nhưng cố gắng nói quanh co để minh oan cho giai cấp thống trị bán nước của mình.
Trung Cộng nó không tử tế như thằng Mỹ đâu mà ham, nói ấm ớ như ngoài hiệp định Paris với Mỹ là không ổn với nó đâu. Người VN nên hiểu rõ thực tế để mà đối phó với tình hình, các ông nói với dân thế nào cũng được, nhưng có bao giờ các ông mang cái công hàm Phạm Văn Đồng đó ra giải thích với thằng Tàu như vậy chưa? Sao không nói với nó như thế để ép buộc nó bồi thường cho những ngư dân VN bị chúng tấn công trên biển của VN đi?
Vấn đề là hồi đó những đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Ngụy, các ông muốn Trung Cộng chiếm những đảo đó thì tốt hơn nên sẵn sàng ký giấy chấp nhận cho chủ quyền Trung Quốc. Sử VNCH còn ghi rõ, vào năm 1959, nghĩa là ngay sau khi Phạm Văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Cộng trên biển Đông, thì chính phủ Ngô Đình Diệm gửi 1 đại đội Thuỷ Quân Lục chiến ra chiếm đóng đảo Hoàng Sa, và Trường Sa; bắt tất cả những lính Trung Cộng giả làm thường dân trên đó, rồi sau đó giao trả họ qua bên Hồng Kông.
Hồi đó các ông chỉ cần chiếm đến SG là sướng rồi, làm gì có ước mơ đặt chân lên Hoàng Sa hay Trường Sa. Nhưng vì thời cuộc thay đổi lên cái khẩu hình của các ông cũng thay đổi lại để chứng minh với dân rằng ta đây mới thực sự yêu nước. Tiếc thay cái công hàm Phạm Văn Đồng có muốn giấu nhưng lại bị chính thằng Tàu nó cứ kéo ra. Ký cho nó rồi mà bây giờ muốn mập mờ thì làm sao nó để yên?
Tại sao lại kỳ cục như thế? Ngay sau khi Phạm Văn Đồng ký giấy công nhận chủ quyền ở đó thì Ngô Đình Diệm liền tăng viện thêm quân đội VNCH ra rải đầy trên những lãnh thổ đó. Lúc đó Trung Cộng đâu dám mang hải quân ra đối đầu với quân đội VNCH. Chỉ đến năm 1972, sau khi Nixon đi Bắc Kinh thoả thuận nhường cho Tàu tha hồ vẫy vùng ở Biển Đông thì năm 1974 Trung Cộng mới dám đem hải quân tới đánh nhau với VNCH để chiếm đóng Hoàng Sa, và chỉ Hoàng Sa thôi. 1 tuần trước đó, hạm đội 7 của Mỹ nhổ neo ra thật xa khỏi khu vực đảo Hoàng Sa để cho Trung Cộng dễ dàng xâm lăng.
Tôi chỉ đưa 1 nhận xét nhỏ sau.
Trích nguyên văn 1 đoạn bài của Đại Đoàn Kết:
“Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.”
Khẳng định “một là” trong đoạn trích trên là không rõ ràng và sai với nguyên văn công hàm của PV Đồng. Để rõ ràng , ta trích lại nguyên văn công hàm PV Đ.
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.”
Trong nguyên văn chỉ có từ” hải phận” chứ không có cụm từ “12 hải lý”. Hải phận chỉ toàn bộ lãnh hải nói chung. Lãnh hải 12 hải lý cụ thể hơn, chỉ hải phận được giới hạn bởi vạch chỉ nằm ở hải lý thứ 12.
Đây chính là điều mà TQ lợi dụng để khẳng định PV Đồng đã công nhận chủ quyền HS,TS cho TQ.
Cái ông PV Đồng này sao lại tiếc mực mà không nghi rõ “…về hải phận 12 hải lý của TQ”. Nếu như vậy, thì công hàm đã rõ ràng . Đằng này ông ta úp mở, lằng nhằng để họa về sau.
Tuy vậy, bành trướng ra Biển Đông là quốc sách của TQ rồi, thì nếu họ không dùng công hàm này , họ tìm ở công hàm khác , câu phát biểu khác.Vấn đề là VN phải minh bạch mọi thông tin về thảo luận với TQ cho nhân dân VN biết.
VN phải tuyên bố rằng Hiến Pháp VN công nhận Quốc Hội VN là cơ quan quyền lực cao nhất. Mọi quyết định có tính quốc gia phải có phê chuẩn của quốc hội mới có hiệu lực pháp lý.
Làm được điều này là ta đã để những tranh cãi vô bổ này với TQ về quá khứ, ra sau lưng, và tiến lên dành lại Hoàng Sa, Trường Sa.
Nguyễn Nghĩa.