WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Biên Giới Tháng Hai

Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.

“Những đôi mắt”

Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.

Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.

“Cuộc Chiến 16 Ngày”

Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.

Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.

Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.

Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.

Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

Lặng Lẽ Hoa Đào

Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.

Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.

Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.

Nguồn: Facebook Huy Đức

————————————————-

Bài đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 9-2-2009, bản đưa lên báo online bị rút xuống ngay trong buổi sáng.

2 Phản hồi cho “Biên Giới Tháng Hai”

  1. Điên says:

    Và để cám ơn quân đội nhân dân Trung cọng đã giải phóng bớt cho chính quyền Việt nam một số dân và lính thừa (vì nạn nhân mãn) nên sau này bên Việt nam ở tỉnh Lào cai và các tỉnh biên giới miền Bắc đã tạc tượng làm bộ bia cho lính Tàu. Dựng các cổng chào “GHI ƠN” các thây ma lính Tàu cọng đã ngủm cù tèo trên đất mình.
    Anh em 16 chử vàng và 4 tốt phải thế chứ..

  2. Bài này dùng nhiều sử liệu Tàu mà thiếu dẫn chứng sử liệu ta, VC. Bài chỉ dùng những nhân chứng kể tội ác Tàu mà sử VC không thấy nhắc. Nhiều tài liệu cho thấy VC cũng ác ôn không thua kém Tàu khi bắt tù binh Tàu, VC hành quyết tại chỗ, như bắn vào đầu, dùng bả súng đánh vào sọ não tung tué máu. Cái ác ôn của VC đối với Tàu còn gấp trăm lần năm Mậu Thân 68 mà VC dành cho dân Huế.

    Tàu ác Tàu đối với nhân dân VN, đó là điều dĩ nhiên vì Tàu đâu phải là người Việt, nhưng VC ác với nhân dân VN thì phải lên án, trái lại bị dấu nhẹm và từ từ người ta khám phá những tên công an điên rồ đánh người chết từng ngày trên đất nước VN, được VC bao che một cách bỉ ổi. Những người từng vào sinh ra tử trong cuộc chiến tranh biên giới 79 như trung tá Trần Anh Kim thì VC cầm tù. Còn những tên tướng tá khuê môi làm chứng nhân chỉ là thứ hèn để Tàu chọc thủng phòng tuyến. Lúc đó ông Đặng Tiểu Bình thọc thêm 30 cây số nữa thì mây tên tá khoe môi múa kiếm kia sẽ vùi thây trong trại học tập cải tạo, đâu có cơ hội để tỏ ra mình là anh hùng cái thế của thời đại.

    VC tuôn bố thắng, tiêu diệt hàng loạt quân Tàu, nhưng ai tin điều ấy. Sau cuộc chiến 79, Tàu vẫn bị VC ru ngũ bằng những giọng hữu nghị Việt Trung. VC giờ đây đang ra sức tăng quốc phòng và Tàu đang trên đường bị tiêu vong bằng lời nói ngọt lịm của kẻ vong ơn bội nghĩa. Ai tin VC là tự sát, chết không nhắm mắt và sẽ ân hận suốt đời. Khi Tàu hiện đại hóa thì không dám cho bài học lần thứ hai để VC lo sợ, cứ lần lửa như người mơ mộng và VC thấy nhược điểm của Tàu cấu kết với Nga mua vũ khí như tàu ngầm, hỏa tiển phòng thủ biển, có thể bắn tới 3 hoặc 400 cây số. Hơn nữa Tàu làm mất lòng Mỹ và các nước lân cận như Phi Luật Tân, Mỹ, Nhật Nam Hàn, Úc khiến cán cân lực lượng nghiên hẳn về phía VC. Bài học thứ hai dành cho VC, chắc khó khăn gấp bội phần năm 79.

    Năm 79 tại sao Tàu đánh thắng VC, vì thế giới đứng sau lưng Tàu, và VC là mối đe dọa cho toàn thế giới,bọn VC là tay sai đắc lực của Nga. Nay vị trí đe dọa toàn thế giới đang ở về phía Tàu, cho nên thế giới chuẩn bị đề phòng hiểm họa Tàu trong tương lai.

    Chính sách ngoại giao họ Đặng được thế giới hoan nghênh, nay những lãnh đạo kế tiếp không như họ Đặng, tuyên bố rất ư là mạnh mẽ, thiếu tế nhị, trong khi đối với VC thì chơi trò môi hở răng lạnh mà không biết thẹn, bị VC đưa vào thế bí khó gở, tương lai chắn chắn sẽ bị chia năm xẻ bảy vì cái gai trước mắt là VC không lo nhổ mà cứ ám ảnh những những quốc gia hiếu hòa như Đài Loan và Tây Tạng, Nhật Bản, Mỹ, Nam Bắc Hàn, bắt nhốt những nhà bất đồng chính kiến, theo Nga phủ quyết những oan trái của các nước Ả Rập đề ra đối với Syria, không lo giải quyết rốt ráo.

    Theo Nga Trung Cộng sẽ được gì, nhìn năm 79 là bài học đắt giá. Nga đang hợp tác với VC để chế những đầu đạn hỏa tiển nhắm vào những tàu chiến Trung Cộng ở ngoài khơi. Những đầu đạn đó khi được chế xong thì những tàu chiến Trung Cộng sẽ bốc cháy. Lúc đó hối tiếc cũng muộn màn, nhìn quê hương bị bốn bề thọ địch. Ngày xưa Tàu đánh VC, một đánh một. Nay nếu cho VC bài học thứ hai thì một đánh ba, đánh bốn, làm sao mà thắng. Thua là cái chắc. Tại sao thua. Khi Tàu đánh VC, ai là nước đứng sau lưng Tàu để hổ trợ như năm 79. Không có liên minh, lại gây thù oán với nước khác, nước Tàu sẽ đại bại. Tàu mặc dù là kinh tế đứng thứ hai thế giới nhưng Tàu vẫn còn tuỳ thuộc vào vũ khí Nga, vẫn còn bị tây phương cấm vận bán vũ khí cho Tàu. Tàu vẫn nằm trong quỷ đạo Nga nên không đủ sức tấn công ồ ạt như không quân Anh Pháp tấn công Li Bi để giải cứu thành phố Bengazi bị quân Gađafi vây. Phải nhìn sự thật để xứng đáng làm người, nhìn thế giới với con mắt trong sáng hơn. Nếu cứ tuyên bố như VC ta nhất định thắng giặc nhất định thua, thì chuốc lấy trăm nghìn thất bại trong tương lai.

Phản hồi