WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Người con gái suy tư cho tổ quốc

Trong “Lời nói đầu” cuốn chính luận “Suy tư và Ước vọng” xuất bản ở nước ngoài cách đây hơn chục năm tôi đã viết:

… Dẫu rằng, vì những dòng Suy tư này mà tôi từng chịu bao nhiêu lao lung, khổ ải, tôi vẫn không thể quên lời nhà chí sỹ Phan Bội Châu:

 

Sinh vi nam tử yếu hy kỳ

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di!

Ư bách niên trung tu hữu ngã

Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy

 

(Đã sinh ra làm trai thì cũng phải khác đời

Lẽ để trời đất muốn xoay vần tới đâu thì tới

Trong khoảng trăm năm đã có ta (thì ta phải gánh vác lấy công việc)

Còn như chuyện ngàn năm sau thì có người sắp tới) .

… Tôi vẫn Suy tư để tồn tại, để được Ước vọng cùng Nhân dân tôi, Đất nước tôi”.

 

Không thể nói tôi không kiên trì, không nhẫn nại nhưng, cho đến nay hầu như Suy tư của tôi chẳng đi đến đâu và Ước vọng hầu như chẳng còn gì. Chỉ còn lại “Mối sầu như tóc bạc/Cứ cắt lại dài ra!”.

Vui sao, bỗng nhiên tôi gặp một người đồng hành, một “Phượng hoàng sơ sinh” khi tôi đã là “Lão ô bách tuế”. Huỳnh Thục Vy cùng tuổi Tý với tôi nhưng sinh sau tôi non nửa thế kỷ (chính xác là 4 giáp = 48 năm).

Vy có tuổi thơ cũng gian nan khốn khó như tôi.

Vy: 7 tuổi mồ côi mẹ, 9 tuổi cha đi tù, phải đi làm công nhân kiếm sống, không được học đại học chính quy mà phải học đại học từ xa song vẫn là một cử nhân luật cừ khôi, có trình độ tiếng Anh trội hơn hẳn đa số cử nhân luật chính quy. Hiện nay Vy phải đi dạy tiếng Anh chứ không được hành nghề luật sư.

Tôi: 10 tuổi phải ngồi bán nước vối ở đầu chợ phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa; khi gặp lại cha, chỉ được đi học hơn một học kỳ nhưng đã đỗ Primaire năm 1947, lúc 11 tuổi, (thuở ấy nếu 6 tuổi vào lớp 6 thì phải học 7 năm gồm các lớp: 6, 5, 4 3, nhì đệ nhất, nhì đệ nhị và lớp nhất, mới được vào thi Primaire bằng tiếng Pháp); vậy mà, mãi đến năm 44 tuổi mới được bảo vệ luận án tiến sỹ vì … lý lịch gia đình!

Đại học từ xa cũng giống đại học tại chức. Người ta thường bảo “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”, nhưng chỉ qua những gì đọc được đã làm tôi thán phục sự uyên thâm, uyên bác của vị cử nhân không chính quy này. Đội ngũ luật sư danh giá với những Trần Lâm, Lê Chí Quang, Nguyễn văn Đài, Lê thị Công Nhân, Trần Quốc Hiền, Lê Trần Luật, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Cù Huy Hà Vũ, Phan Thanh Hải, Tạ Phong Tần, Huỳnh Thục Vy … làm cho hàng ngũ những người đấu tranh cho sự nghiệp dân chủ hoá ở Việt Nam trở nên sáng giá không chỉ bởi đức dấn thân mà còn bởi chất trí tuệ.

Tôi cũng ý thức như Huỳnh Thục Vy:

“Tôi cho rằng một người đấu tranh cho dân chủ ít nhất phải biết dân chủ có điều kiện, mục đích và đặc trưng nào. Phải có hiểu biết nhất định về một vấn đề ta mới có thể nhiệt thành mà dấn thân vì nó. Không phải bất cứ ai phản kháng với chính quyền độc tài đều là những người có khả năng kiến lập nền dân chủ. Vậy muốn thành công trong công cuộc xây dựng dân chủ chúng ta phải là những người tôn trọng và đấu tranh cho cái mà tôi gọi là “những giá trị thật” chứ không phải là những giá trị được thổi phồng bởi số đông” (1).

Bởi vì “Như tất cả chúng ta có thể thấy, trong lịch sử nhân loại cũng như trong các sự kiện thế giới gần đây, việc loại bỏ một nền độc tài luôn tương đối dễ dàng hơn và cần ít những phẩm chất tích cực của những người đấu tranh cũng như người dân sở tại hơn việc xây dựng một thể chế mới tốt đẹp. Một cách tương đối, có thể nói rằng nếu việc loại bỏ một thể chế phản động chỉ cần hội đủ những điều kiện dường như tiêu cực hơn như: suy thoái hay sụp đổ nền kinh tế, lòng dân phẫn uất cùng cực, tình hình thế giới biến động, chiến tranh…; thì việc xây dựng nền tự do luôn đòi hỏi ở chúng ta những điều kiện tích cực hơn nhiều: hiểu biết và niềm khao khát tự do, sự thắng thế của văn hóa dân chủ, sự lớn mạnh của các định chế dân sự…Nếu sự ra đi của một chế độ độc tài là một biến cố, thì việc xây dựng nền dân chủ là cả một quá trình liên tục và không có điểm dừng. Một sự nghiệp to lớn như thế cần ở chúng ta- những người đang đấu tranh sự nghiêm túc trong cả suy nghĩ và hành động. Không có tòa nhà to đẹp nào được xây dựng bởi những kẻ lười biếng học hỏi, chểnh mảng và thiếu chín chắn (1).

Huỳnh Thục Vy không chỉ là người phản kháng với chính quyền độc tài mà là nhà bất đồng chính kiến có chính kiến rõ rệt.

Hãy nghe HTV bàn về đặc trưng của Xã hội Dân chủ:

Tuy nhắc đến những giá trị dân chủ tự do, chúng ta không trực tiếp đưa ra những tuyên ngôn cho tinh thần đạo đức nhưng kỳ thực chúng ta đang cổ vũ cho một xã hội nơi đạo đức được trọng vọng. Thật lạ đời rằng trong một chế độ dân chủ tự do, nơi người ta không chính thức đưa đạo đức lên như một giá trị của thể chế, nơi người ta chỉ dành nhiều thời gian và công sức để đề cao và bảo vệ nền pháp trị thì đạo đức lại được phát huy. Bởi xét cho cùng những giá trị như công bằng, tự do, tự thân chúng lại là một vấn đề đạo đức. Không có kẻ vô đạo đức nào yêu chuộng công bằng, tự do. Bởi vậy, không ngoa chút nào khi ta nói xã hội dân chủ được đặc trưng bởi đạo đức (2).

Xã hội dân chủ được đặc trưng bởi đạo đức. Những người đấu tranh cho dân chủ càng cần phải có đạo đức. Thật xấu hổ khi thấy nhiều “nhà dân chủ” xỉa xói nhau bằng lời lẽ rất thiếu văn hóa. Càng đau lòng hơn khi không biết vì lý do gì mà họ sử dụng cả những thủ đoạn bịa đặt, xuyên tạc, vu khống … để bôi bẩn, phỉ báng, triệt hạ nhau!

Từ bình diện đạo đức HTV lý giải khả năng chuyển hóa của Miến Điện so với ViệtNam:

“Ở Miến Điện, văn hóa, đạo đức và tôn giáo vẫn giữ được giá trị nội tại, đời sống văn hóa tinh thần của người dân vẫn nhân văn và thuần phác. Một nền luân lý Phật giáo đúng nghĩa đứng ở vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần của họ. Như những nhà báo quốc tế ghi nhận thì, người dân Miến tuy sống nghèo khổ nhưng rất hiền lành, đa số họ thiền định mỗi ngày. Nghèo khổ và lạc hậu ở họ không đồng nghĩa với sự hèn nhát và sự xuống dốc về văn hóa và đạo đức. Chính vì giữ được sức mạnh tinh thần ấy, chính vì đứng trên cái trụ văn hóa nhân bản, trong đói khổ, đàn áp và sợ hãi, người dân Miến không ngừng phản kháng, đòi tự do, dân chủ.

Trái lại, dưới chế độ cộng sản Việt Nam, văn hóa, đạo đức và các truyền thống tôn giáo tốt đẹp đã gần như bị hủy hoại tận gốc rễ. Một xã hội hiện đại nửa mùa, một nền văn hóa mới theo kiểu Tây phương chưa xây dựng được (mà chỉ bắt chước người ta những thói xấu), còn cội nguồn văn hóa truyền thống thì đã biến thái thành những thứ quái dị. Những nhân đức hiền lành, chất phác, lòng yêu nước thiết tha biến thành những mánh mung, lừa đảo, vị kỷ. Một tôn giáo truyền thống từng góp phần to lớn xây dựng nên khí chất Việt Nam, bây giờ đã trở thành một thứ mê tín dị đoan. Đã mấy mươi năm sống dưới một chế độ độc tài hủy diệt văn hóa, bóp méo ý chí lành mạnh và làm thui chột năng lực tinh thần thì lúc đói khổ chúng ta chỉ lo miếng cơm, lúc sung túc chúng ta chỉ lo hưởng thụ. Mất cái gốc tinh thần (văn hóa, luân lý) chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về ý chí và nhân cách. Cái gốc của mọi hành động là tinh thần, ý chí yếu đuối, tinh thần bạc nhược, thì chẳng thể làm những việc lớn lao (nếu không có những điều kiện đột biến làm đòn bẩy) (3).

Ở một khía cạnh khác HTV lý giải về phẩm chất của chính quyền:

“Ở mức độ nghiêm trọng hơn, các chế độ độc tài được hình thành từ những vụ “cướp chính quyền” như kiểu cách mà những người Cộng sản Việt Nam đã làm để lên nắm quyền, càng không nhìn nhận vai trò của sự trao quyền này bởi cái tâm thức rằng: chính quyền là do họ cướp được chứ không phải do người dân giao phó cho. Có thể đối với những kẻ độc tài dạng này, sự trao quyền trọng đại trong các chế độ dân chủ chỉ mang lại cho họ một cảm quan hài hước, thậm chí là đáng khinh bỉ. Ở đây, quyền lực chính trị chỉ như một hòn ngọc mà họ đã cướp được sau cuộc hạ sát kẻ sở hữu trước đây của nó” (4).

“Vì thế khi đã nắm được quyền lực trong tay, những kẻ chuyên quyền sẽ sử dụng quyền lực và các nguồn lực Quốc gia như thứ tài sản riêng, bất chấp lợi ích của đại đa số người dân và vận mệnh của cả dân tộc. Chúng ta đang ở Việt Nam và có đủ cơ hội để trải nghiệm điều này” (4).

… Và về giới trung lưu:

“…. Giới trung lưu và cả lớp người có triển vọng bước vào giới trung lưu là những người có học thức và tài sản đã hình thành, lớn mạnh chính nhờ xuất thân gia đình có liên quan đến chế độ hoặc nhờ sự nương tựa vào giới cầm quyền cộng sản. Lớp người này theo sự phát triển của nền kinh tế, giáo dục- xã hội trong hai thập niên qua đang ngày càng gia tăng. Cuộc sống hiện tại và triển vọng tương lai của họ nương theo sự phát triển và “ổn định” của cái thể chế độc tài hiện tại. Vì thế khó tìm được lý do thích đáng và đủ mạnh để họ từ bỏ quyền lợi kinh tế mà dấn thân đòi hỏi tự do chính trị. Đây là kiểu hình thành tầng lớp trung lưu chỉ có ở Việt Nam và Trung Quốc – nơi mà một nền kinh tế dần được cởi mở kết hợp với nền chính trị độc tài, trái ngược hẳn với ví dụ trên về nước Anh. Nền kinh tế còn tiếp tục phát triển, người ta còn tiếp tục im lặng và do đó chế độ độc tài còn có thể trông cậy vào sự hợp tác của họ để tiếp tục nắm quyền. Nhiều chuyên gia trên thế giới vào cuối thế kỷ trước đã hi vọng rằng những cải cách kinh tế sẽ dẫn dắt thay đổi chính trị ở Trung Quốc và Việt Nam. Nhưng chúng ta đang nhận được một kết quả ngược lại. Bởi vì, bản chất của giới trung lưu tư bản xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến phương Tây khác hẳn giới trung lưu được sinh ra từ “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (5).

Cũng từ bình diện đạo đức, HTV ca ngợi sự nghiệp “can thiệp nội bộ” của Hoa Kỳ và các nước Phương Tây để giải phóng người dân khỏi các chế độ độc tái:

“… ngày 19 tháng 3 vừa qua, Liên quân dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ đã tấn công chế độ độc tài Gaddafi giải cứu dân quân nổi dậy ở Libya đang đứng trước nguy cơ một cuộc thảm sát. Vậy là sau những hoài nghi và thất vọng, chúng ta đã có thể khẳng định nhân loại trong thế kỷ 21 này thực sự văn minh, thực sự đã sống và hành xử với nhau trong tinh thần trách nhiệm quốc tế, trong giá trị nhân bản đề cao con người. Sự can thiệp của cộng đồng quốc tế vào Libya đánh dấu một kỷ nguyên mới của nhân loại-kỷ nguyên của lương tri và trách nhiệm. Cộng đồng Thế giới, nhất là Hoa Kỳ và các nước phương Tây đã can đảm vượt qua sự ù lì, vô cảm vì quyền lợi quốc gia. Họ đã đại diện cho Thế giới văn minh đi tiên phong trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ nhân loại khỏi sự đàn áp của các chế độ độc tài. Lịch sử của nhân loại sẽ ghi nhận nghĩa cử cao đẹp này của họ như một đóng góp lớn trong việc bảo vệ Hòa bình,Tự do và Dân chủ cho cả Thế giới” (6).

Rồi, bằng lý lẽ thuyết phục HTV đã biện minh cho những khuyết tật thuộc về nhân loại của xã hội Hoa Kỳ:

“Các nhà lãnh đạo và giới tư bản Hoa Kỳ không hề câu kết nhau tước đoạt quyền tư hữu, không sung công tài sản của người dân Mỹ, không lấy hết đất đai, trâu bò của họ để thành lập hợp tác xã trá hình, không lấy hết ruộng vườn của họ rồi đền bù với giá rẻ mạt, không gom tất cả tài sản quốc gia lại để ăn chia nhau. Vì hệ thống chính trị dân chủ, pháp trị không cho họ cái quyền làm như thế. Cái lỗi của họ là cái lỗi chung của nhân loại – đó là sự tham lam. Họ tham lam, họ dùng tiền để tác động tới chính quyền nhằm trục lợi làm cho kinh tế khủng hoảng và làm cho đời sống người dân trở nên khó khăn. Phản đối sự tham lam của giới tài phiệt và sự hoạt động kém hiểu quả, cũng như thái độ không chú trọng quyền lợi người dân thường của chính phú là một động thái cần thiết. Nhưng người ta nên phản kháng với nhận thức rằng bất cứ định chế chính trị hay kinh tế nào của nhân loại cũng tồn tại khiếm khuyết và có xu hướng tha hóa. Chúng ta không thể có được cái hoàn hảo nhưng chúng ta có thể có được một cơ chế khắc phục sai lầm hiệu quả” (7).

Và, những biện minh mang tầm triết lý sau đây của HTV hẳn đủ khả năng đánh bại những luận điểm tuyên truyền lập lờ đánh lộn trắng đen:

“Mùa Xuân Ả Rập” là động thái giết chết một con bệnh ung thư, còn “Chiếm phố Wall” là cách người ta cảnh báo và chữa trị cho một người mắc bệnh thông thường. Cũng cần phải nhận thức rõ rằng trên thế giới này không có kẻ không có bệnh mà chỉ có những kẻ hết thuốc chữa. Thật vậy, con người trở nên cao quý không phải vì anh ta hoàn hảo mà vì anh ta biết đổi mới và đứng lên mạnh mẽ hơn từ những sai lầm. Và để tránh những ngụy biện không cần thiết cho điều này ở những trường hợp khác, tôi muốn nói thêm rằng: Có một sự khác biệt cơ bản giữa sự thối nát hệ thống và sự sai lầm cục bộ (7).

Chào đời sau năm 1975, được hưởng hòa binh, được hun đúc trong hệ thống giáo dục XHCN, được khống chế bới cả một hệ thống tuyên truyền đồ sộ với trên 700 tờ báo, nhẽ ra nếu không thực lòng biết ơn Đảng thì HTV cũng không thể nào không thần phục công trạng của Đảng, nhưng, tự chiêm nghiệm thực tế khách quan, HTV đã có nhận thức riêng không dễ gì bác bỏ:

“……“sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước” đã không khiến Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn; mà đơn giản chỉ là biến một miền Nam trước “giải phóng” hơn hẳn Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?” (8)

“Đó là khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ ràng. Cái mà người ta gọi là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” ấy thực chất chỉ là để giúp Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Hay như Lê Duẩn từng nói: “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước XHCN, cho cả nhân loại”. Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt” (8).

“Đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày “giải phóng”, giải phóng miền Nam khỏi mối quan hệ đồng minh với Mỹ để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng” (8).

Trở thành chư hầu hèn mọn thông qua Tuyên bố của ông Nguyễn Phú Trọng giao kết xả thân vì “tầm cao chiến lược” của ông Hồ Cẩm Đào; trở thành chư hầu hèn mọn thông qua tiếng xưng hô “Đồng chí”:

Dễ gì gọi nhau bằng hai tiếng “Đồng chí”! “Đồng chí là những người có cùng giá trị, quyền lợi, lý tưởng, mục tiêu, hoài bão…..Phải chăng những người Cộng sản Việt Nam có cùng lý tưởng, mục tiêu, hoài bão, chia sẻ cùng một quyền lợi, giá trị với Trung Cộng?!

Nguyên nhân duy nhất và khả dĩ nhất để một Nhà nước tồn tại là để quản lý, phát triển xã hội, bảo vệ quyền lợi đất nước và người dân, phát huy các giá trị của dân tộc…. Nếu chính quyền cộng sản Việt Nam không cùng chia sẻ quyền lợi và giá trị với dân tộc Việt Nam mà chia sẻ quyền lợi với ngoại bang thì có lý do nào để họ tiếp tục tồn tại?!” (9)

Trên cơ sở nhận thức rằng “chính quyền cộng sản Việt Nam không cùng chia sẻ quyền lợi và giá trị với dân tộc Việt Nam mà chia sẻ quyền lợi với ngoại bang” HTV trở nên thật sự quyết liệt:

“Những nhà đấu tranh cho dân chủ Việt Nam trong và ngoài nước hiện nay đang cổ vũ cho phương pháp đấu tranh bất bạo động. Phải công nhận rằng đây là một phương pháp đấu tranh nhân bản. Ngày trước, Marx đã cổ vũ cho “bạo lực cách mạng” trong những thể chế mà ta có thể đạt được sự thay đổi và giải quyết mâu thuẫn xã hội một cách ôn hòa bằng đấu tranh bất bạo động thông qua các tổ chức dân sự hoặc các phong trào quần chúng. Đó chính là một sai lầm to lớn của ông. Ngày nay, người dân Việt Nam đang sống dưới một chế độ độc tài, không có xã hội dân sự theo đúng nghĩa, thì chúng ta lại cổ súy cho đấu tranh bất bạo động (tôi không muốn nói chúng ta phải đấu tranh bạo động) thì tôi cảm thấy ở đây rõ ràng có một trục trặc rất lớn” (10).

 

Đọc những dòng này, tôi cũng sững sờ như đọc câu thơ mới đây của Trần Khải Thanh Thủy: “Không đổ máu đâu còn là Tổ quốc”.

Mới ngày nào HTV “dịu dàng” thế này kia mà:

“Những ai có lương tâm và trách nhiệm đối với đất nước thì đều mong muốn cuộc cách mạng Hoa Lài tại Việt Nam sẽ diễn ra một cách ôn hòa và triệt để, sẽ không có máu của bất cứ ai phải đổ xuống trong những giờ phút hấp hối của chế độ, để xã hội Việt Nam không phải bị tàn phá, lòng người dân Việt Nam không phải bị tổn thương, để con cháu chúng ta thanh thản và trong sáng, vui vẻ sống bên nhau như những người bạn, những người đồng bào ruột thịt. Không ai muốn tội ác làm hoen ô thế hệ trẻ Việt Nam. Đất nước Việt Nam đang âm thầm kiên nhẫn tích trụ năng lượng cho một mùa hoa nở rộ…giống như cây mai đang tích tụ những dòng nhựa sống, những dinh dưỡng cần thiết trong cả một năm để chờ đến mùa xuân, dâng cho đời những đóa hoa thơm ngát và rực rỡ” (11).

Tôi nhớ nhà báo Lê Diễn Đức đã từng nhận xét Huỳnh Thục Vy là “một cô gái trẻ mà hiểu biết rộng, thông minh, có nhân cách trong sáng, can đảm, mãnh liệt nhưng rất ôn hoà trong các bài viết xuất sắc về các giá trị dân chủ, quyền công dân hay xã hội dân sự, được sự mến mộ và cảm phục của đông đảo người Việt trên khắp thế giới… ” (12)

Nhưng, phải chăng vì bọn giặc phương bắc không chỉ như ký sinh trùng xâm nhập nhan nhản trong lục phủ ngũ tạng ta mà đã ngang nhiên cướp đảo, cướp biển của ta rồi nên những suy tư cho tổ quốc của cô gái trẻ xinh đẹp này đã bừng bừng cháy lên. Và, tôi càng thêm quý mến, trân trọng.

Tôi mong độc giả chuyển giúp bài viết này đến các nhà lãnh đạo và lưu ý họ đọc, nhằm: (1) Cải tạo nhận thức cho họ; (2) Nhắc họ chớ nên giở trò tàn bạo với những con người xuất chúng như thế này bởi vì chính kiến của người ta, tư tưởng của người ta chắc chắn đã được quảng đại tiếp nhận, được khắc vào lịch sử. Những phiên tòa quấy quá, những bản án lếu láo chỉ như bàn tay quều quào trước mặt trời. Những hôn quân hôn muội sẽ bị nhân dân nguyền rủa trong khi chính những người như cô gái xứ Quảng này sẽ càng được tôn vinh.

 

Hà Nội 16 tháng 8 năm 2012

© Nguyễn Thanh Giang

© Đàn Chim Việt

 

————————————————————–

Ghi chú:

Các trích dẫn trong bài lấy từ Blog Huỳnh Thục Vy

 

19 Phản hồi cho “Người con gái suy tư cho tổ quốc”

  1. Phan Văn says:

    Trong cuốn sách nổi tiếng nhất gần đây của bà (tiến sĩ) Sophie Quinn-Judge về quãng đời cách mạng của HCM từ lúc đến Paris (1919) cho đến khi đặt chân về lại VN (1941), đã kể lại về những việc làm đầu tiên của ông Hồ khi về đến Quảng Châu lần đầu, lược dịch như sau:

    “Ngày 18 tháng 12, 1924, ông Hồ viết một lá thư gửi Tổng Bộ CS Quốc Tế (T/B CSQT) báo cáo là ông đã tới Quảng Châu vào giữa tháng [...]. Trong phần tái bút của lá thư ông cho biết là ông dùng bí danh Lý Thụy. Khi liệt kê những hoạt động sơ khởi tại đây, ông Hồ đã đưa ra những chi tiết đánh bóng việc làm của mình. Ông viết: ‘Tôi đã gặp nhiều nhà cách mạng quốc gia người Việt ở đây. Trong số đo có một người đã rời khỏi nưóc 30 năm, trong thời gian đó ông ta đã khởi động nhiều cuộc nổi dậy chống lại chính quyền (thực dân) Pháp (ở Việt Nam)… Mục đích duy nhất của ông ta chỉ là bào thù cho đât nước và gia tộc, trong đó có nhiều người bị người Pháp giết. Ông ta không hiểu biết gì về chính trị và càng ít về phương cách vận động quần chúng. Trong những lần tiếp xúc và trò chuyện, tôi đã chứng minh cho ông ta biết sự cần thiết của việc làm có tổ chức, cũng như sự vô ích của những cuộc vận động không có một nền tảng chính trị. Tôi đã thuyết phục được ông ta”. Nếu chúng ta bỏ qua sự sai lạc khoảng 10 năm (’30 năm’ thay vì chỉ là ’20 năm’) thì người mà ông Hồ ám chỉ trong lá thư chính là cụ Phan Bội Châu…” (‘HCM, The Missing Years’, by Sophie Quinn-Judge, p.p. 77-78).

    Sau đó, bà SQJ có đưa thêm nhận xét là, dựa theo chứng từ là những lá thư của cụ PBC gửi vào đầu năm sau, 1925, thì Lý Thụy và cụ PBC chưa hề gặp nhau (Cho đến, ngày 11 tháng 5, năm đó, khi cụ Phan bị mật thám Pháp bắt cóc khi ông đến nhà ga Thượng Hải, có lẽ trên đường đến gặp ai đó ở Quảng Châu. Mật vụ Pháp đưa cụ thẳng lên một tầu chiến, chở về Hà Nội, nơi họ giam cụ trước khi cụ bị đưa đưa ra toà đề lãnh án tử hình. Sau đó bản án được giảm xuống (thành cấm cố chung thân?).

    CL
    TB. Cho đến khi bị bắt cóc ở Thượng Hải, cụ PBC bị nhà cầm quyền thục dân Pháp treo giá cao cho ai cho thông tin để bắt sống được cụ. Để tránh “chạm trán” với mật vụ Pháp, thời gian này cụ Phan chỉ sống ở miền bắc Trung Hoa. Trong chuyến đi “định mạng” đó, cụ Phan chỉ đổi tầu hỏa (xe lửa) ở Thượng Hải, nhưng khi gửi hành lý, rồi bước ra khỏi cửa nhà ga thì cụ bị bắt cóc ngay.

    Từ đó suy ra là Pháp có nội gián, một người biết rõ về chuyến đi này của cụ và báo cho Pháp. Nhưng số người biết chuyện này chắc chắn không nhiều, trong số chắc chắn là thư ký riêng của cụ là nhà chí sĩ Nguyễn Thượng Hiền và người “đệ tử” ruột của cụ là Lâm Đức Thụ. Lâm Đức Thụ lúc đó ở Quảng Châu, tuy mang tiếng là “đệ tử” của cụ Phan, nhưng bí mật làm cho mật thám Pháp và đồng thời cũng là đảng viên đảng CS (Trung Hoa?). LĐT cũng là người thân mật nhất với Lý Thụy (HCM) khi ông ta từ Moscow đến Quảng Châu…

    Không biết là sau này cụ PBC có nghĩ ra ai là người đã báo cáo cho Pháp hay không, nhưng trên wikipedia (http://en.wikipedia.org/wiki/Phan_Boi_Chau) có người trích hẳn một đoạn văn, bảo là của cụ PBC viết (nhưng không nói là trích từ văn kiện nào), trong có cụ Phan nghĩ rằng chính Nguyễn Thượng Hiền là người báo cáo cho Pháp. Rất có thể đầy là một trong những thí dụ cụ thể là nhà cầm CSVN đang thao túng lịch sử VN ngay trên wikipedia, bởi vì mọi đường giấy mối nhợ đề dẫn đến Lâm Đức Thụ, bới vì theo tài liệu của Phòng Nhì Pháp đưọc bạch hóa sau này, thì Lâm Đức Thụ (vửa là đảng viên VN Quang Phục Hội vừa là đảng viên ngầm của đảng CS) lúc đó làm cho Pháp, và thường xuyên báo cáo cho họ về những hoạt động của những nhà cách mạng VN ở Trung Hoa… Chính bà SQJ cũng xác nhận điều này.

    Câu hỏi là tại sao đến lúc đó, LĐT mới “nhẫn tâm” ra tay cho Pháp bắt cụ Phan. Điều này có liên hệ gì đế tay gián điệp Lý Thụy? Nhiều người VN sau này tin rằng, Lâm Đức Thụ – được cụ Phan tín cẩn và coi như con – phải có một tay nào gian hùng đủ để làm việc đó, và người đó chỉ có thể là Lý Thụy tức HCM. Không ai có bằng chứng, nhưng ai cũng biết là Lý Thụy có nhiều mô-típ chính đáng: thứ nhất là lãnh món tiền lớn (hàng ngàn đô-la lúc đó) , thứ hai là tạo nên làn sóng phản đối nhà cầm quyền thực dân Pháp ở VN – điều đã xẩy ra. (“Ác liệt” nhất là Lâm Đức Thụ đã làm gián điệp nhị trùng – cho CS và Pháp – một cách bình yên bao nhiều năm trời – nhưng đến khi kháng chiến bùng nổ, về quê Thái Binh ở ẩn thì bị “nhân dân ta” xử tử vì tội làm gián điệp cho Pháp! Ai biết chuyện nhiều năm trước ngoài chính Lý Thụy alias HCM?!).

    • Phan Văn says:

      Có phải Lý Thụy alias HCM đã nộp cũ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp?
      Cũng trong quyển ‘HCM, The Missing Years’, tác giả Sophie Quinn-Judge đã bác bỏ tin đồn đến tin đồn là chính Lý Thụy tức Hồ Chí Minh là người chủ mưu nộp cụ Phan cho mật thám Pháp (trang 75-76). Thế nhưng, trái những nghiên cứu cặn kẽ và lý luận sắc bén của bà trong hầu hết vấn đề bà đã đề cập tới trong cuốn sách, về vấn đề “Ai đã nôp cụ Phan cho Pháp”, bà lại chỉ lý luận rất sơ sài, có thể nói là cẩu thả và có vẻ là có thiên kiến (muốn bênh vực cho ông Hồ).

      Bà SQJ viết (lược dịch):
      Những người chống cộng cho rằng HCM đã bán đứng PBC, đối thủ thực sự duy nhất của ông Hồ lúc đó để nắm lấy quyền lãnh đạo (lực lượng ngưòoi Việt chống Pháp ở QuảnG Châu) [...] Lý luận (kết tội HCM) của những người (chống cộng) này, ngoài việc HCM muốn lên làm lãnh tụ, là ông ta nhắm vào món tiền thưởng lớn của người Pháp đặt lên đầu PBC. Theo họ, ông hồ cũng tính toán rằng khi cụ Phan bị bắt, trong nước sẽ dấy lên những cuộc phản đối, từ đó tạo nên những phong trào đối kháng.

      Tuy nhiên, dựa trên những báo cáo mật của Lâm Đức Thụ gửi cho Sỡ Mật Thám Pháp thì HCM khó mà có dình dáng đến vụ nôp cụ Phan Bội Châu cho Pháp. Những bản báo cáo mật (của LĐT gửi cho sở MT Pháp) cho thất Thụ đã làm chỉ điểm cho Pháp ít nhất từ năm 1924. Nếu Pháp muốn băt cụ Phan thì không khó để tìm ra chỗ ở của cụ. PBC bị Pháp bắt tháng 7, 1925 – thay vì tháng 6 như người ta thường tin – và đưa về Hà Nội. Lý do, trong báo cáo của LĐT viết, PBC dự tính về Quảng Châu cuối tháng 7 và (vì thế) PBC không thể bị bắt vào tháng 6… (sđd trang 75-75).

      Thật là một chuỗi lý luận lủng củng, ngờ nghệch một cách khác thường, so với toàn bộ cuốn sách của tiến sĩ Sophie Quinn-Judge. Sư thật là những nghi vấn đã có không lâu sau khi cụ Phan bị bắt. Chẳng hạn, nhà văn Nhượng Tống (một đồng chí thân cận của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học) đã nêu đích danh Lâm Đức Thụ và Lý Thụy là hai người chủ mưu từ năm 1928. Lúc đó Lý Thụy đâu đã nổi tiếng, mấy người biết tới, huống chi biết rõ ông ta là nhân viên của CSQT. Thứ nữa, thời đó làm gì đã có cái gọi là “tư tưởng chống cộng”, phong trào CS thế giới vẫn được coi chung chung như là một lực lượng quốc tế chống thực dân, giải phóng những nước bị trị. Ngay chính cụ Phan, trước khi bị băt không lâu, đã đi gặp nhân viên của phái bộ Xô Viết ở Bắc Kinh để bàn chuyện hợp tác chống thực dân v.v.

      Ngoài tài liệu kể trên (do Nhượng Tống viết, Nam Đồng Thư Xã phổ biến) còn nhiều nhà chính trị khác cũng cho rằng việc cấu kết với Pháp để bắt cụ Phan là do Lý Thụy (tức HCM sau này) chủ trương đưa ra, và Lâm Đức Thụ thực hiện. Vả lại, đây cũng là một trong những thủ đoạn quen thuộc của những người CS, mà HCM sau này cũng đã làm đi làm lại nhiều lần.

      Ông Hồ luôn luôn chối vai trò chủ động của mình, trong những vụ việc kinh tởm như thế (giết Pham Quỳnh, bà Cát Hanh Long, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, đức Huỳnh Phú Sổ, trung tướng Nguyễn Bình… và hàng chục, hàng trăm những vụ giết người khác, kể cả cô vợ Nông Thị Xuân, chưa kể gần hai trăm ngàn nạn nhân của CCRĐ…).

      Đọc thêm: ‘Hồ Chí Minh và vụ bán Phan Bội Châu cho Pháp’ (trích tư cuốn “Hồ Chí Minh – Nhận định và tổng hợp”, Chương 45, của Minh Võ) tại:

      http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/MVo/HCM_banPBChau.htm

  2. Le Binh says:

    Tôi rất khâm phục em Thục Vy, ls Lê Thị Công Nhân, chị Minh Hằng,…, họ với tấm lòng yêu quê hương nồng nàn, chống lại mọi áp bức, bất công, xã hội VN hiện nay là một xã hội người bóc lột người dã man, người dân sống như nô lệ, đất đai, tài sản nằm gọn trong tay bọn vc bán nước, điều thô bỉ là chúng phịa trại phục hồi nhân phẩm, người đâu có nhân phẩm đâu mà phục hồi. Bọn cs đã lừa gạt dân VN rằng đi theo chúng sẽ có một xã hội tốt đẹp hơn, không có cảnh người bóc lột người.

  3. lêphê says:

    Mổi người,hay mổi thế hệ đều có nhửng suy tư trăn trở khác nhau và cách hành động, cách giải quyết khác nhau. Ong ntg sống trong hoàn cảnh chắc chắn là khác hơn bây giờ cho nên nếu có tranh đấu thì chưa hẳn là tranh đấu cho VNdân chủ đa nguyên đa đảng hay chống Tàu vì bon CS bán nước cho Tàu, Việc làm của nguyểnthanhgiang nếu có ,thì củng không thể so sánh với thụcvi .,và thục vi củng không phải so sánh với bất cứ ai,vì nhửng người khác họ không đẹp không giỏi không trẻ bằng nhưng họ là nhửng người có tấm lòng với dân tộc đất nước,Họ củng trăn trở củng tranh đấu củng xuống đường củng hô khẩu hiệu chông TC và nhửng bất công phi nhân của nguy quyền BắcCộng.
    Theo thiển ý Ông nguyển không cần phải so sánh mình với thục vi (và các người trẻ khác đang xả thân bằng cách này hay cách khác trong cuộc chiến với kẻ thù BC và TC) để chỉ coi như là “mấy mươi năm trước tôi củng như cô ,chiến đấu với bọn nó hăng lăm nhé. Tôi không thua cô đâu !”
    Ông nguyển có cần phải tô son trét phấn cho mình qua cô gái trẻ thucvi không ? Mổi thời,mổi lúc,mổi người,mổi hoàn cảnh đều có nhửng “anh hùng,anh thư” (anh hùng hiếm như lá mùa thu,nhưng không phải là không có).Và người ta sẻ đánh giá đúng khi việc làm thành công hay thất bại…(còn viết thì có lẻ có nhiều người cón viết hay hơn ,”phản động” hơn…)
    Nói như thế không có nghỉa là “chê”ai ví bản thân mình củng thua “ai ‘quá nhiều,nhưng chỉ là
    “dưới mát tôi” ai tranh đấu ,xuốngđường chống BC va TCcủng đáng hoan hô,vổ tay cón nói ra nói lên để móị người cùng vổ tay thì chẳng hay gì…
    Như uncle HO (chú HO) lấy tên khác để CA MÌNH thì tránh sao người ta không “dè bỉu”?
    Mà sao không ai nói tôi gióng cùvủ, hay tạphongtrần,bùiminhhằng…hay chaLỳ lêthicôngnhân? Không biết nhửng người tranh đấu (cồndầu/ĐNchẳng hạn) để rối “trốn đi” một cách tỉnh bơ (ủa,bọn CS dể daỉ vậy sao.cho ‘trốn” tự do?)chỉ vì cái hộ chiếu qua Mỷ thì gióng ai?
    Tóm lại,ông tác giả không cần đưa thụcvi lên cao để đưa mình lên cùng tầng cao hơn,vì nhửng ai tranh đấu cho dân cho nước có chính nghỉa nhân dân sẻ không quên,lịch sử củng không quên.(Và cố nhiên ntg ủng có chổ đứng trong lịch sử đấu tranh sau khi nước Việt Nam không còn CS)
    “vùng lên hởi nhửng nôlệ VN!”

  4. Huong Nguyen says:

    “… Ngày nay, người dân Việt Nam đang sống dưới một chế độ độc tài, không có xã hội dân sự theo đúng nghĩa, thì chúng ta lại cổ súy cho đấu tranh bất bạo động (tôi không muốn nói chúng ta phải đấu tranh bạo động) thì tôi cảm thấy ở đây rõ ràng có một trục trặc rất lớn” (10)… ” Theo tôi hiểu, “1 trục trặc rất lớn” ở đây là tính bất khả thi của 1 phương pháp đấu tranh bất bạo động trong chế độ độc tài toàn trị của CSVN hôm nay. Với tất cả quyền lực trấn áp hiện nay, lãnh đạo CSVN lại càng sung sướng và an tâm hơn khi biết chắc rằng mọi người đều mong muốn con đường đấu tranh bất bạo động này.

    Trong 1 suy luận có tính “phản đề” tôi muốn viết lại câu này: “Những ai có lương tâm và trách nhiệm đối với đất nước thì đều mong muốn cuộc cách mạng Hoa Lài tại Việt Nam sẽ diễn ra một cách ôn hòa và triệt để… ” … thì phải chăng những ai không tin 1 cuộc cách mạng ôn hòa như thế là “khả thi” thì sẽ không có lương tâm và trách nhiệm?

    Trong cái chế độ độc tài toàn trị hiện nay, dù bạn muốn đấu tranh ôn hòa nhưng nhà cầm quyền CS có để yên cho bạn hay không? Cứ nhìn vào thực tế chứ đừng lý luận suông trên sách vở nữa! Thế nào là 1 cuộc đấu tranh ôn hòa khi cái gía phải trả vẫn là tù tội, máu, nước mắt và mạng sống? Đã 60 năm qua, những phản kháng ôn hòa, âm thầm tại Triều Tiên, Cuba đã đi đến đâu? Tại Cuba, hằng cuối tuần, người ta lại thấy các bà vợ, mẹ của các nhà đấu tranh tại đây lại tiếp tục mặc đồng phục trắng, tươm tất “diểu hành” đòi chồng, con. Tại Triều Tiên, cái chính sách ngu dân hầu như đã hoàn toàn thành công qua những hình ảnh khóc lóc vật vã của cả nước trước cái chết của nhà độc tài Kim Jong Il. Tại Việt-Nam, cái chính sách ngu dân hóa đó thể hiện 1 cách công khai trong câu thần chú vong thân và đầy ngu xuẩn “còn đảng còn mình” cũng như “chuyện yêu nước thì đã có đảng và nhà nước lo”… bạn muốn ôn hòa kiểu nào?

    • nvtncs says:

      Sự tranh đấu cho tự do, ôn hòa hay không, không phải người dân quyết định, mà do QĐ CS hay CA CS quyết định.

      Nếu QĐ CS đàn áp dân VN bằng súng, nếu dân VN anh dũng như dân Syria, dân VN sẽ trả lời QĐ CS như dân Syria đang trả lời Assad.

Phản hồi