Dân chủ: Thay dân
Liên-xô và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ . Lịch sử kết thúc một giai đoạn, mở ra thời đại Dân chủ tự do sẽ vĩnh viễn ngự trị thế giới loài người . Đó là lý thuyết của Giáo sư Francis Fukuyama ở Huê kỳ (La fin de l’histoire, Poche, Paris) . Theo ông, lịch sử loài người trong giai đọan qua là cuộc tranh đấu khốc liệt,dai dẳng, giửa những ý hệ, nay chấm dứt . Lịch sử chấm dứt .
Vừa rồi, ông cho phổ biến một bài báo trên Wall Street Journal (Courrier Internatinal, 2015, đăng lại bản tiếng pháp)
để kiểm điểm lại quan điềm 26 năm trước của ông, đối chiếu với tinh hình thực tế trong gần đây .
Tiến sĩ Alexandre Del Valle, nhà nghiên cứu về địa chánh trị ở Viện Choiseul, giảng dạy tại Đại Học La Rochelle, Pháp, trong quyển sách « Le Complexe occidental » của ông, cho rằng khối cộng sản liên-xô sụp đổ, giải thoát cho một không gian khỏi ách đô hộ độc tài và đánh dấu thế giới lưởng cực kết thúc để chỉ còn lại thế giới đơn cực, đứng đầu là cường quốc Huê kỳ, chấm dứt tình trạng xung đột giửa hai khối . Ông đồng ý với ông Fukuyama ở điểm này và chỉ tới đây .
« Khối liên-xô sụp đổ mở ra một kỷ nguyên dân chủ toàn cầu », theo ông Alexandre Del Valle, lại là vấn đề cần phải được suy nghĩ lại . Còn theo học giả Samuel Huntington, khi đề cặp tới « đợt sóng dân chủ thứ ba », thì hiện tượng xuất hiện dân chủ từ sau thề chiến có thể ghi nhận là từ sau khi chế độ độc tài ở Espagne và Portugal sụp đổ trong những năm 70 của thế kỷ trước .
26 năm sau, ông Francis Fukuyama, trong bài viết trên, vẫn xác định lại niềm tin Dân chủ rồi đây cũng sẽ thắng vì mô hình xã hội khi lịch sử chấm dứt chắc chắn phải dẩn tới dân chủ tự do .
Chúng ta sẽ tìm hiểu dựa vào những yếu tố nào mà sự quả quyết của ông vẫn không thay đổi, mà còn đưọc củng cố thêm .
Dân chủ suy yếu
Phong trào Đoàn kết ở Ba Lan thành công chấm dứt chế độ độc tài do Staline dựng lên, thanh niên, sinh viên biểu tình ở Thiên An môn đòi dân chủ, bức tường bá-linh sụp đổ, kết thúc hơn 70 năm cầm quyền cộng sản .
Nhắc lại năm 1974, thế giới chỉ có 35 nưóc dân chủ vì có bầu cử tương đối tự do . Tới năm 2013, có gần 120 nước dân chủ (30% – 60%, theo Giáo sư Larry Diamond, Stanford) . Năm 1989 khởi đầu một xu hướng dân chủ nở rộ và Giáo sư Samuel Huntington gọi đó là « đợt sóng dân chủ thứ ba » . Nó bắt đầu ở Âu châu rồi hơn mươi năm sau, lan qua Nam Mỹ, Phi châu và Á châu . Phải chăng vì vậy mà ông Francis Fukuyama nhận định khi xã hội tiến bộ, tức khi kinh tế và chánh trị cải thiện, thì tiến trình ấy sẽ dẩn tới chánh trị dân chủ tự do và kinh tề thị trường, chớ không thể theo hướng cộng sản như những lý thuyết gia công sản dự đoán . Lịch sử, không cách gì khác hơn, sẽ mở ra một thế giới tự do, với những chánh phủ dân cử, với những quyền cá nhơn được luật pháp bảo đảm, tư bản lưu hành dưới sự kiểm soát tương đối của Nhà nước .
Khi đối chiếu với thực tế ngày nay, thế giới từ năm 2014 đã thay đổi . Nước Nga có bầu cử nhưng dưới sự kiểm soát chặc chẻ của nhà cầm quyền, trở thành một mối hăm dọa an ninh chung, nhứt là đối với các nước láng giềng . Tàu vẫn là một nước độc tài tuy kinh tế có phát triển mạnh trong thời gian qua .
Vấn đề của thế giờ ngày nay là những chế độ độc tài, vừa trở lại hoặc còn lại, chẳng những mạnh, hung hăn mà nhiều nước dân chủ, kỳ cựu hoặc vừa chuyển đổi, lại có sức khoẻ trên đà suy yếu . Những nước vừa thay đổi dân chủ như Turquie, Sri-Lanka, Nircaragua, …lại trở lại chế độ độc tài hoặc như Bulgarie, Roumanie bị tham nhủng hoành hành, khó thực thi dân chủ .
Nhình chung, từ năm 2005, theo Freedom House, số nước đạt được dân chủ dựa trên cách đo « bầu cử hạn kỳ, tự do báo chí, tự do tập họp, …và phẩm chất dân chủ đã bắt đầu giới hạn trong những năm sau này. Về mặt tâm lý xã hội, Huê kỳ và Tây Âu là mô hình dân chủ tự do, nhưng vì bị hơn mươi năm kinh tề khủng hoảng nghiêm trọng nên lập luận dân chủ tự do là điều kiện nền tảng để kinh tế thị trường phát triển đã mất đi sức hấp dẫn khá nhiều .
Dân chủ vẫn thắng
Dựa trên những xu hướng lớn của lịch sử, người ta ghi nhận thế giới thay đổi sâu xa trong vài thập niên qua. Sản xuất xã hội gia tăng mạnh, ít nhứt từ năm 1970 cho tới năm khủng hoảng 2008 . Mặc dầu bị khủng hoảng nhưng thạnh vượng của thế giới vẫn giử ở mức cao nhờ biết dựa theo hệ thống tự do trao đổi và đầu tư . Ngay cả nưóc cộng sản độc tài như Tàu và Việt nam cũng biết tuân thủ luật thị trường và cạnh tranh để kinh tế phát triển . Mà dân chủ tự do thường nảy sinh từ từng lớp dân chúng khá giả và có học thức . Vì người dân càng có tiền, đóng thuế càng cao thì càng đòi hỏi nhà cầm quyền phải biết tôn trọng quyền lợi của họ . Trái lại, những quốc gia giàu nhờ dầu hỏa như Nga, Vénézuela, các ước vùng Vịnh, ngân sách không phụ thuộc thuế nên dễ trở thành độc tài .
Về mặt tư tưởng, dân chủ định hình thành thể chế thường rất chậm . Nhưng dân chủ cho tới ngày nay vẫn chưa có cạnh tranh tương xứng . Ngước Nga của Poutine, Iran của ayatollahs, Tàu và Việt nam của đảng cộng sản, vẫn khoe khoang mình là nước dân chủ . Chưa bao giờ có nước độc tài nào dám vỗ ngực xác nhận « chúng tôi là độc tài đây » . Nên Poutine mới cho tổ chức trưng cầu dân ý ở Đông Ukraine, ở Việt nam, đảng cộng sản đã quyết định xong mọi việc, vẫn tổ chức bầu Quốc Hội để vổ tay chào mừng chánh phủ mới.
Dân chủ là cái gì mà những người độc tài cần như ánh sáng rọi vào gương mặt âm u của họ để mong làm cho dịu bớt nét rùng rợn .
Xưa nay, người cầm quyền không do dân bầu tự do và có định kỳ, mà do cướp được, như các chế độ cộng sản, thì không bao giờ họ muốn thực hiện dân chủ . Họ phải giữ quyền lực bằng mọi giá như tư hữu của họ và xem dân là kẻ thù nguy hiểm hơn hết vì người dân chính là kẻ lấy lại quyền lực quốc gia. Nên muốn giành chính quyền về mình, giành lại quyền tự mình cai trị chính mình, thì người dân phải tranh đấu . Phải dám quyết định và dấn thân .
Khi thấy kinh tế quốc gia bắt đầu tăng trưởng, xã hội bắt đầu thay đổi thì sự thay đổi này luôn luôn đòi hỏi, tiếp theo đó, chánh trị mở rộng để mọi người có thể tham gia . Vì dân chủ mới bảo đảm được sự tăng trưởng kinh tế và cải thiện xã hội .
Ai cũng biết Dân chủ là quyền của người dân tự quyết định vận mệnh của mình . Nhà cầm quyền là sản phẩm của dân . Nhưng trên thực tế, không thiếu nhà cầm quyền phản dân, hại nước mà vẫn tồn tại bởi người dân không quyết định thay đổi . Vì không dám hoặc vì thiếu ý thức và vô trách nhiệm .
Thay đổi dân
Người ta chỉ nói thay đổi chánh quyền, chớ chưa nghe nói « Thay đổi dân » . Nay cần đặt vấn đề « Thay đổi dân » khi không thể thay đổi thứ nhà cầm quyền phản dân, hại nước . Ý nghĩ nghe qua rất nghịch lý nhưng đã đặt thành vấn đề khi nói về kết quả bầu cử ở Do Thái vừa rồi, ông Benyamin Nétanyahou tái đắc cử .
Kết luận đầu tiên từ kết quả thăm dò cử tri vừa ra khỏi phòng phiếu rất bi quan : «Dân chúng cử tri phải được thay đổi » .
Dư luận do thái giải thích về hiện tượng đắc cử của cựu Thủ tướng Benyamin Nétanyahou « Chúng tôi không đặt vấn đề tổ chức bầu cử lại để chọn người lãnh đạo khác, mà muốn đem lại cho Do Thái một dân tộc mới, khác hơn, để tổ chức lại tổng tuyển cử . Nhân dân do thái không thể chịu nổi thêm một nhiệm kỳ nữa của ông Benyamin Nétanyahou » .
Bình luận gia do thái Gideon Levy, trên báo Ha’aretz ngày 18/03/2016, mạnh dạng phê bình đồng bào của ông đã chọn ông Benyamin Nétanyahou làm Thủ tướng thêm một nhiệm kỳ nữa . Chẳng khác nào « chọn cách giải quyết hòa bình với Ả-rặp » . Vậy thì chỉ còn cách phải « thay dân » mà thôi .
Ông Gideon Levy tìm liên kết với trí thức á-rặp, những người thất vọng về những cuộc cách mạng vừa qua .
Chính những người Ả-rặp này cũng kêu gọi hãy « thay đổi dân » .
Dưới thời Đông Đức, soạn giả hài kịch người Đức Bertolt Brecht, trong một bài thơ châm biếm, đã đề nghị những người cộng sản nếu thấy nhân dân không đáp ứng được sự mong đợi của họ thì hảy thay bằng một thứ nhân dân khác .
Vấn đề thay dân, tưởng chắc cũng nên thử đặt ra cho trường hợp Việt Nam . Trước nhà cầm quyền cộng sản đại gian, đại ác như vậy mà dân vẫn tỏ thái độ vô cảm . Thanh niên, sinh viên ái quốc đã đứng lên tranh đấu đòi thay đổi chế độ bạo ngược, chịu đàn áp, trù dập, tù đày, nhưng vẫn chưa thức tỉnh được lương tâm xã hội thì còn cách nào khác hơn là thay thứ dân này bằng một thứ dân khác, nhậy cảm về thảm họa mất nước, dân tộc bị diệt vong do đồng chí Bắc kinh của nhà cầm quyền ở Việt Nam hiên nay gây ra ?
Thật đau lòng!
© Nguyễn Văn Trần
© Đàn Chim Việt
DÂN CHỦ VÀ KHÔNG DÂN CHỦ HAY SỰ ĐỘC ĐOÁN ĐỘC TÀI
Dân chủ tự do là chân lý khách quan của xã hội loài người. Mọi sự độc tài đều chỉ là một ý nghĩa chủ quan nào đó. Thời xa xưa trong chế độ quân chủ, chỉ có vua trị vì, vua nào cũng tự cho mình là sáng suôt cả, còn minh quan thật sự hay không lại là chuyện khác. Bởi vậy mọi sự tự phong phần lớn đều không ý nghĩa gì cả, trừ khi nó phù hợp với sự thật khách quan.
Khi nền quân chủ chấm dứt trong lịch sử nhân loại, chỉ còn lại thuần túy là nền dân chủ, tức chủ quyền thuộc toàn dân mà không còn thuộc cá nhân, nhóm cá nhân hay giòng họ nào hết, cũng không có nghĩa nền dân chủ tự do đó được hoàn toàn ổn định mà không bị vi phạm. Tuy vậy mọi sự vi phạm đó có khi chỉ là thoáng qua, cục bộ, tạm thời trong những hoàn cảnh nào đó rồi cũng bình thường trở lại.
Chỉ trừ ra có hai trường hợp đặc biệt đều thuộc về ý thức hệ, đó là trường hợp quốc xã, phát xít, trường hợp cộng sản, và trường hợp nhà nước tôn giáo tự xưng ngày nay. Quốc xã Đức, phát xít Ý, hay quân phiệt Nhật trong quá khứ, đều thuộc ý thức hệ mang tính đề cao chủng tộc. Ý thức hệ cộng sản thì nhân danh giai cấp vô sản. Còn kiểu nhà nước tôn giáo tự xưng ngày nay thì thuộc thuần túy tôn giáo.
Nói chung cả ba điều trên đều không mang tính chất khoa học khách quan nào cả. Bởi con người sinh ra là hoàn toàn tự do bình đẳng, đó là chân lý khách quan muôn đời của nhân loại. Như vậy các ý niệm chủng tộc, giai cấp, tôn giáo đều chỉ là sự chủ quan, sự nhân danh lệch lạc, vì các quyền lợi riêng nào đó mà không vì cái chung của loài người, của con người, của xã hội gì hết. Và mọi cái gì lệch lạc không đúng đắn, không khách quan cũng đều gây thiệt hại chung cho loài người như trong quá khứ mọi người đều biết.
Như vậy kết luận lại, chỉ có chế độ tự do dân chủ là mang tính khách quan và nhân văn nhất. Bởi vì nó dựa trên nền tảng chung nhất của con người và xã hội mà không dựa vào bất kỳ sự chủ quan, lệch lạc hoặc thiển cận nào. Bởi Mác dựa vào hoàn cảnh nhất thời của giai cấp công nhân lúc thời kỳ tư bản sơ khai để chủ trương đấu tranh giai cấp theo nghĩa phổ biến là điều không khoa học, không hợp lý. Vả lại ông ta còn mù quáng dựa vào quan điểm biện chứng luận mơ hồ của Hegel để tự cho mình là khoa học và hô hào đấu tranh giai cấp trên toàn thế giới và tự mệnh danh là chân lý khách quan của lịch sử thì càng quá đáng và càng phi khoa học, phản khoa học.
Đó dĩ nhiên là sự thất bại đương nhiên của thế giới cộng sản cũ theo học thuyết của Mác, và ngày nay nền kinh tế toàn cầu cùng hội nhập hoàn toàn chứng minh khách quan cho thấy điều đó. Có nghĩa mọi cái gì không khách quan, không khoa học hay phản khoa học đều không thể tồn tại hay phát triển trên đời này mà không bị đào thải. Bởi vậy việc Mác hô hào phá bỏ nền dân chủ khách quan của nhân loại mà ông phao vu cho rằng kiểu dân chủ tư sản đều đã hoàn toàn thất bại.
Nói tóm lại khoa học thì không thể tùy tiện, không thể một cá nhân nào đó tự cho mình là khoa học rồi đưa ra một ý thức hệ chủ quan, riêng biệt nào đó để áp dung chung cho cả thế giới loài người. Trái lại lịch sử khách quan không ngừng phát triển, khoa học mọi loại không ngừng đi lên mọi mặt, đó là ý nghĩa của dân chủ tự do, của khoa học khách quan về nhận thức trong lịch sử phổ biến toàn cầu mà không bất kỳ ai có thể đi ngược lại hoặc bất chính muốn nhằm đi ngược lại.
ĐỈNH NGÀN
(15/5/16)