Gắp bỏ cho người
Thuở nhỏ, tôi thường được ông nội cho thằng cháu đích tôn đi ăn cỗ. Theo ông đến các bữa cỗ, khép nép ngồi ngoan ngoãn ở một góc cạnh ông. Ông gắp cho miếng nào thì được ăn miếng ấy. Ông dạy: “Ăn uống phải từ tốn. Ăn phải trông nồi, ngồi phải trông hướng”.
Ngồi ăn trên phản giữa nhà, không bao giờ được quay lưng vào bàn thờ tổ tiên. Khi ăn phải trông xem trong mâm có những gì. Phải biết nhường mọi người. Trong mâm có mỗi khoanh giò chia đều làm 6 khúc. Mỗi người chỉ được ăn một khúc. Nếu vô tình ăn 2 khúc tức là đã ăn lạm vào phần của người khác. Thế là kẻ phàm ăn. Vào bữa ăn, món gắp mở đầu phải là miếng rau miếng dưa hay gắp mấy sợi nộm. Không ai vào mâm mà lại chọc đũa ngay vào miếng giò lụa hay gắp luôn cái phao câu gà. Định ăn miếng nào thì gắp miếng ấy. Không gắp lên rồi lại để xuống, cấm kị dùng đũa lật đi lật lại bới đĩa thịt gà đã xếp gọn gàng phần da được lợp lên trên để tìm miếng ngon cho mình. Khi ăn phải nhìn trước nhìn sau, biết nhường các cụ cao tuổi. Các cụ trong mâm luôn “Rước cụ sơi trước, rước cụ dùng chén rượu..”. Ăn canh thì không được húp sùm sụp, ăn nóng không được thổi phù phù… Điều đặc biệt hơn cả là trong mâm, chủ nhà hay người ít tuổi, kẻ bề dưới luôn gắp thức ăn bỏ vào bát khách hoặc bề trên để kính cẩn mời xơi miếng ngon, dầu rằng không biết thực khách có thích hay không nhưng làm thế để thể hiện cái bụng của chủ nhà ân cần với khách khi đãi đằng….
Các nghi lễ ấy cứ từ từ được ông chỉ bảo. Sau mỗi bữa cỗ, có điều gì xử sự không phải, về nhà ông lại nghiêm khắc nhắc nhở. Cứ thế, cái phép lịch sự trong ăn uống nó nhập vào mình từ lúc nào không biết.
Những bài học ăn, học uống cứ thế được ông bà, bố mẹ truyền dạy năm này qua năm khác và nó thấm vào cuộc sống một cách tự nhiên. Sau này va chạm với cuộc đời, cứ như thế mà xử sự thì được mọi người tôn trọng. Ai làm khác đi thì bị thiên hạ chê cười.
Cuộc sống ngày càng trở nên xô bồ. Các dịp hội ngộ ăn uống trong gia đình ngày càng giảm dần. Người ta quen lối hội hè, ăn nhậu ở nhà hàng, ngồi vào mâm là quát tháo chê bai nhân viên. Khi ăn thì thả sức hò hét, thách nhau uống hết két bia này đến két bia khác và luôn miệng đồng thanh gào rõ to “Dzô! Dzô!” như thể phu kéo gỗ dựng cột giữa cánh đồng. Đến dự tiệc cưới chưa cần biết cô dâu chú rể ở đâu, họ nhà trai, họ nhà gái thế nào, cứ bỏ phong bì vào một trong hai cái hòm hình trái tim có rãnh đặt lù lù trước cửa như kẻ soát vé tự động đại diện cho nhà trai và nhà gái rồi kiếm một góc ngồi. Tự động bật bia chạm cốc và ăn uống rào rào, chẳng cần mời mọc ai. Cũng chẳng có ai mời mọc. Lời mời ăn cỗ đã lịch sự in trên thiệp cưới rồi khỏi mời thêm cho mệt. Khi ban tổ chức phát biểu giới thiệu cô dâu chú rể, họ nhà trai, nhà gái ra mắt thì đã khối anh no bụng ngậm tăm xỉa răng ngả người ngắm nhìn và bình luận. Thật chẳng còn gì cái phép lịch sự như ông đã dạy thuở nào.
Tôi có mấy dịp được mời đi nói chuyện với các bạn nước ngoài khi mới đến Việt Nam về một vài phong tục tập quán ứng xử trong ăn uống. Cứ theo nếp của ông bà, bố mẹ dạy cho mà truyền lại. Nào là khi ăn chuối phải bẻ đôi và bóc vỏ từng nửa quả nom tựa đóa hoa, không bóc tuột cả vỏ nhai nhồm nhoàm như lũ khỉ trong rừng. Nào là muốn bóc chiếc bánh nếp phải bóc ra sao cho khỏi dính và vỡ nát cái bánh. Khi ăn phải cầm đũa thế nào. Riêng có cái phong cách gắp thức ăn bỏ vào bát để mời người khác thì các bạn nước ngoài thực không thể hiểu nổi. Sao lại gắp vào bát người ta cái món ăn mà không biết người đó có thích hay không? Đặc biệt, người châu Âu có thói quen ăn uống rất coi trọng sở thích tự do cá nhân thì không tài nào hiểu được cái lệ gắp bỏ cho người kỳ khôi ấy. Tôi phải gắng giải thích để các bạn thấu hiểu được cái tục văn hóa này của người Việt chúng ta. Tôi cũng phải giới thiệu một phong cách gắp bỏ cho người đã cải tiến, tức là khi gắp thức ăn tiếp cho người khác thì phải trở đầu đũa chứ không dùng đầu đũa mình đang ăn. Làm vậy cho có lệ thôi chứ cả mâm chỉ có một chén nước mắm thì ai mà chẳng phải chấm chung vào đấy. Chẳng lẽ mỗi lần chấm rau hay thịt vào chén nước mắm lại phải trở đầu đũa ư? Âu cũng là một thói quen sinh hoạt cộng đồng, chia sẻ cùng nhau của người Việt. Nói vậy thì họ biết vậy. Người châu Âu không thể nào hiểu nổi khi ngồi vào mâm cỗ lại được chủ nhà gắp vào bát của mình cái đầu lâu gà, cái còng bới là những thứ mà bên nước họ chỉ dành cho con chó. Các cụ nhà ta thì luôn luôn tấm tắc “nhất thủ nhì vĩ! Ăn chân bổ chân! Ăn thủ bổ thủ! Ăn cổ ăn cánh để cùng nhau tiến cao bay xa có anh có em cùng cổ cùng cánh!”. Trong khi thấy miếng phao câu béo vàng được bỏ vào bát mình thì ông khách Tây sợ mất hồn vì lắm “cô lét xì tê rôn” nhưng nể chủ nhà vẫn nhắm mắt mà cho vào miệng và luôn miệng Thanh kiu! Thanh kiu! Ve ri gút! Ve ri gút!
Tôi có một anh bạn người Nga đã ở Việt Nam trên chục năm nay. Anh là nhà nghiên cứu động vật học và chuyên gia về chuột. Ăn mòn bát trên đất Việt từ Nam chí Bắc, uống rượu cần Tây Nguyên, rượu “quốc lủi” như cơm bữa. Anh tự cho mình là một người rất am hiểu phong tục Việt. Chỉ có mỗi điều anh không có khả năng nói tiếng Việt mà thôi. Hơn chục năm sống ở xứ sở này mà chỉ nói được mấy câu bập bõm. Hễ thấy mấy người ngồi tụ lại với nhau trong phòng to tiếng là anh đi qua nháy mắt nói bập bẹ “Họp! Họp! Phê bình! Phê bình! Kha ra xô ! Kha ra xô!”.
Bẵng đi nhiều năm, sau hàng loạt những chính biến ở Nga, tôi không có dịp gặp lại. Tình cờ, năm ngoái tôi gặp lại Vích- to trong một chuyến thực địa. Lần này chúng tôi cùng nhau kéo về khảo sát ở Đồng Tháp. Vích-to chủ động mời chúng tôi vào một nhà hàng bên bờ sông ở Cao Lãnh. Theo đúng tục Việt, chủ tiệc gọi món mời khách và như một người Việt Nam sành sỏi, Vích-to lấy thực đơn và kêu ra đủ món. Cũng như một người Việt thực sự hiếu khách và lịch thiệp, anh cầm đũa gắp vào bát tôi một miếng thịt đùi béo vàng. Trời ơi! Đấy là món “chuột cống nhum rô ti” – món mà ông tôi chưa hề cho ăn. Cụ chỉ khoái trá kể với thằng cháu nội về cái tục của một làng bên sông “hễ đám cưới mà không có thịt chuột thì không ra đám cưới, rằng người ta luộc thịt chuột để ráo nước, rắc lá chanh rồi lấy hai cái thớt úp vào nhau để ép con chuột cho thịt chắc lại rồi mới chặt ra xếp lên đĩa ..”. Tôi nghe mà sởn tóc gáy vì chẳng hiểu sao từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi hãi nhất là con vật này.
Hôm nay, anh bạn Tây chân tình của tôi đã gắp vào bát mình cái đùi chuột. Theo phép lịch sự mà ông đã dạy, tôi nhắm mắt mà ăn nhưng lòng chỉ mong câu ca dao xưa được thực hiện:
“Muốn ăn gắp bỏ cho người
Gắp đi gắp lại lại rơi vào mình”
Ước gì miếng thịt chuột “cống nhum” này lại rơi trở lại cái bát của Vich- to ?
© Vũ Thế Long
Blog TDN