Cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960
1.- TÌNH HÌNH CHUNG TRƯỚC ĐẢO CHÁNH
Sau khi thành lập năm 1955, tình hình an ninh và chính trị Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) khả quan được vài năm thì bị xáo trộn trở lại vào đầu thập niên 60, có thể vì nhiều lý do:
Thứ nhất, tại Hà Nội sau hội nghị Trung ương đảng ngày 13-5-1959 và Đại hội III đảng Lao Động (từ 5-9 đến 10-9-1960), Bắc Việt Nam (BVN) quyết định tấn công Nam Việt Nam (NVN) mà CS nói là”giải phóng” miền Nam bằng võ lực. Theo hiệu lệnh nầy, du kích cộng sản nằm vùng tại NVN từ năm 1954, hoạt động trở lại, quậy phá và tấn công khắp nơi. Miền Nam bắt đầu mất an ninh.
Thứ hai, hiến pháp VNCH ngày 26-10-1956 thừa nhận quyền tự do lập hội (điều 15), tự do nghiệp đoàn (điều 23), nhưng không đề cập đến quy chế chính đảng, quyền lập chính đảng và quyền đối lập chính trị. Chế độ Ngô Đình Diệm không chấp nhận bất đồng chính kiến và đối lập chính trị. Các đảng phái bị đánh dẹp trừ đảng Cần Lao do Ngô Đình Nhu lãnh đạo. Đảng Cần Lao là đảng duy nhất có quân ủy tức ủy ban đảng trong quân đội, ngược với truyền thống đứng ngoài các đảng phái chính trị của quân đội VNCH. Những lãnh tụ đối lập với chính quyền Diệm lần lượt bị bắt giam. (Sau nầy có một số tướng lãnh và sĩ quan gia nhập đảng phái là cá nhân bí mật vào đảng, trong khi tập thể quân đội đứng ngoài đảng.)
Ông Diệm đi vào con đường sùng bái cá nhân. Rõ nhất là ngay từ năm 1955, mỗi lần chào cờ bất cứ ở đâu, bản nhạc “Suy tôn Ngô tổng thống” đều được trình diễn tiếp ngay sau bản quốc ca. Bài hát xưng tụng “Ngô tổng thống, Ngô tổng thống muôn năm...” Ông Diệm biết, nghe, và chứng kiến việc suy tôn mình trong các buổi lễ, mà không ra lệnh sửa sai, dẹp bỏ, nghĩa là ông Diệm đồng lòng với sự suy tôn nầy. (Bản nhạc “Suy tôn Ngô tổng thống” do Thanh Nam đặt lời, Ngọc Bích phổ nhạc.)
Sau khi củng cố được địa vị, trong công việc cai trị, tổng thống Diệm chỉ tin tưởng và trọng dụng những người trong gia đình, những đảng viên Cần Lao và những thủ hạ thân tín chung quanh gia đình của ông. (Vĩnh Phúc, Những huyền thoại & sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, California: Nxb. Văn Nghệ, 1998, tr. 24.) Ngoài ra, “Sau khi đã vững chỗ ngồi, ông [Diệm] quay qua thanh toán những người đã từng sát cánh với ông, đã từng phò tá ông trong những lúc hoạn nạn khó khăn…” (Vĩnh Phúc, sđd. tr. 446), nên nhân tài lần lượt tránh xa ông Diệm, nếu không bị ông thanh toán.
Thứ ba, lúc đó dân chúng than phiền về nạn tham nhũng và lạm quyền của một số viên chức chính phủ hay đảng viên Cần Lao, càng ngày càng gia tăng, làm tổn hại đến uy tín chính trị của chế độ Diệm. Sách hồi ký của các tướng lãnh hay các nhân vật chính trị đương thời đều đề cập đến nạn tham nhũng thời kỳ nầy. (Ví dụ: các sách của Đỗ Thọ, Trần Văn Đôn, Nguyễn Trân, Nguyễn Bá Cẩn …) Tham nhũng thời ông Diệm còn giới hạn chứ không tràn lan như cộng sản ngày nay.
Quốc hội lập pháp khóa 2 được bầu ngày 30-8-1959. Cũng như quốc hội khóa trước, đại đa số đắc cử đều thân chính quyền. Tại Sài Gòn, Nguyễn Trân đắc cử ở quận I và Phan Quang Đán đắc cử ở quận II, nhưng cả hai đều bị “Ủy ban hợp thức hóa” của Quốc hội loại bỏ, vì cho rằng các ông vi phạm luật bầu cử. Ai cũng biết ông Diệm sử dụng Ủy ban hợp thức hóa của Quốc hội để loại bỏ những nhân vật đối lập. (Đoàn Thêm, 1945-1964, Việc từng ngày, Hai mươi năm qua, California: Xuân Thu tái bản, tr. 260.)
Chính phủ Diệm kiếm cách ngăn chận đối lập chính trị, nhưng cũng không cản được 18 chính khách trong Ủy Ban Tiến Bộ và Tự Do, hội họp tại khách sạn Caravelle ở Sài Gòn ngày 26-4-1960, cùng ký kháng thư công khai phản đối chế độ Diệm. Kháng thư nầy thường được gọi là “Tuyên ngôn Caravelle”, phản đối việc kiểm soát báo chí, tố cáo nạn bè phái và yêu cầu tổng thống Diệm nới rộng chính phủ, tái lập các quyền tự do căn bản. (Nguyễn Trân, Công và tội, những sự thật lịch sử, California: Nxb. Xuân Thu , 1992, tr. 324.) Mười tám người nầy là (theo thứ tự A, B, C, họ, chữ lót, tên): Hồ Văn Vui (linh mục), Huỳnh Kim Hữu, Lê Ngọc Chấn, Lê Quang Luật, Lương Trọng Tường, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Phạm Hữu Chương, Phan Huy Quát, Phan Khắc Sửu, Tạ Chương Phùng, Trần Lê Chất, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Hương, Trần Văn Lý, Trần Văn Tuyên, Trần Văn Văn. (Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, California: Nxb. Xuân Thu, 1989, tt. 168-169.) Mười tám chính khách nầy thuộc nhiều tôn giáo khác nhau và có nhiều người đã từng giúp đỡ hay cộng tác với ông Diệm.
Các nhân sĩ ký tên vào bản “Tuyên ngôn Caravelle” không bị chính phủ Diệm bắt giam, một phần vì các nhân sĩ nầy uy tín khá lớn, thuộc nhiều thành phần xã hội, tôn giáo và chính trị, kể cả một số đã từng cộng tác với ông Diệm, và một phần khác vì áp lực của Tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Lúc đó, về phía Hoa Kỳ, tòa đại sứ ngầm yêu cầu chính phủ Diệm tìm cách cải cách chính trị. Có lần đại sứ Elbridge Durbrow thúc đẩy tổng thống Diệm nên gởi cố vấn Ngô Đình Nhu ra nước ngoài, nhưng tổng thống Diệm không nghe theo những yêu cầu về phía Hoa Kỳ. (Thomas L. Ahern Jr., CIA and the House of Ngo, tr. 138.)
Để đáp ứng tình thế mới, tổng thống Diệm cải tổ chính phủ ngày 18-10-1960, không nới rộng mà chỉ thay đổi các chức vụ sau: bộ trưởng Quốc phòng: Nguyễn Đình Thuần thay Trần Trung Dung; bộ trưởng Nội vụ: Bùi Văn Lương thay Lâm Lễ Trinh; bộ trưởng Tư pháp: Nguyễn Văn Lượng thay Nguyễn Văn Sĩ.
Một biến chuyển quốc tế ảnh hưởng nhiều đến nền chính trị Việt Nam là vào ngày 8-11-1960, trong cuộc tranh cử ở Hoa Kỳ, thượng nghị sĩ John F. Kennedy, ứng cử viên đảng Dân Chủ, đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, đánh bại ứng cử viên của đảng Cộng Hòa là Richard Nixon. Nixon nguyên là phó tổng thống trong chính phủ Dwight David Eisenhower (tổng thống hai nhiệm kỳ1953-1961). Thay đổi tổng thống mới theo chính đảng đối lập ở Hoa Kỳ, báo hiệu chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trên thế giới nói chung và về Việt Nam nói riêng sẽ có những thay đổi mới.
2.- DIỄN TIẾN CUỘC ĐẢO CHÁNH
Cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 do một nhóm sĩ quan cấp tá lãnh đạo. Các nhân vật chính trong binh biến nầy là các trung tá Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, đại tá Nguyễn Chánh Thi (tư lịnh Lữ đoàn Nhảy dù), và các thiếu tá Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu…
Theo Nguyễn Chánh Thi, thì chính ông ta là người chủ xướng cuộc đảo chánh. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: một trời tâm sự, California: Nxb. Xuân Thu, 1987, tr. 115.) Tuy nhiên, theo luật sư Hoàng Cơ Thụy, hai trung tá Nguyễn Triệu Hồng và Vương Văn Đông (tùng sự tại Đại học Quân sự Sài Gòn) mới là những người chủ xướng cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 và đại tá Nguyễn Chánh Thi hợp tác vào giờ chót. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nam Á, 2002, tr. 2824.) Hoàng Cơ Thụy còn trưng ra bản cáo trạng của chính phủ Diệm sau khi cuộc đảo chánh thất bại, theo đó Vương Văn Đông và Nguyễn Triệu Hồng chủ xướng và ép Nguyễn Chánh Thi phải hợp tác.
Nhân vật chính về phía dân sự tham gia vào biến cố nầy lúc đầu là luật sư Hoàng Cơ Thụy. Trong cuộc họp tại nhà Hoàng Cơ Thụy vào đêm trước ngày đảo chánh, có một nhân viên CIA tên là George Carver. Về mặt nổi, Carver là một nhân viên USOM. (Vĩnh Phúc, sđd. tr. 264-265.)
Lực lượng đảo chánh gồm 4 tiểu đoàn Nhảy dù (1, 3, 4, và 8) và Liên đoàn Biệt động quân. Sáng ngày 11-11-1960, khoảng 3G:30, nhóm đảo chánh bao vây dinh Độc Lập và chiếm nhà Bưu điện Sài Gòn. Viên sĩ quan phụ trách việc phá hệ thống điện thoại Sở Bưu điện thiếu hiểu biết chuyên môn, không phá được hệ thống khẩn cấp đặt dưới hầm nhà Bưu điện, nên từ dinh Độc Lập, nơi tổng thống ở và làm việc, tổng thống vẫn liên lạc được với bên ngoài. (Vĩnh Phúc, sđd. tr 266.)
Lực lượng đảo chánh tấn công thành Cộng Hòa (trên đường Thống Nhất, gần Thảo cầm viên tức Sở thú), nhưng Liên binh Phòng vệ Phủ tổng thống đóng ở đây, chống trả mãnh liệt.
Cho đến 5G:00 sáng ngày 11-11, phía đảo chánh chiếm được các vị trí sau đây: Bộ tổng tham mưu Quân đội VNCH (gần Tân Sơn Nhất), Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, Nha tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia và Nha Cảnh sát đô thành (lúc đó ở vùng đường Nguyễn Cư Trinh -Võ Tánh), Bộ Tư lệnh Quân khu thủ đô (lúc đó ở Hòa Hưng) và bắt giam tư lệnh quân khu là trung tướng Thái Quang Hoàng. Trong khoảng thời gian nầy (5G:00 sáng), một sĩ quan chỉ huy cuộc đảo chánh là trung tá Nguyễn Triệu Hồng bị tử thương ở gần dinh Độc Lập.
Lúc đó, trong Dinh Độc Lập, ngoài tổng thống Diệm, gia đình Ngô Đình Nhu, còn có Võ Văn Hải, chánh văn phòng tổng thống và đại úy Bằng, sĩ quan cận vệ, cùng bộ phận quân đội phòng thủ. (Hoàng Cơ Thụy, sđd. tr. 2843.) Quân đảo chánh tìm bắt thiếu tướng Nguyễn Khánh, nhưng trước đó vài tuần, Nguyễn Khánh đã dọn đến một ngôi nhà mới, nên phe đảo chánh không biết. Khi nghe súng nổ, Nguyễn Khánh kiếm cách trốn vào dinh Độc Lập lúc 3G:30 sáng. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, the Vietnam War, 1954-1965, Cambridge: Cambridge University Press, 2006, tr. 110.)
Khoảng 8G:30 sáng 11-11-1960, Đài phát thanh Sài Gòn phát đi nhật lệnh của đại tá Nguyễn Chánh Thi, tự xưng là tổng tư lệnh quân đội cách mạng, gởi tướng lãnh, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính, tố cáo nặng nề chính phủ Ngô Đình Diệm và kêu gọi quân đội hoàn thành nhiệm vụ cứu nước.
Trong khi đó, về phía chính phủ, tổng thống Diệm giao cho Võ Văn Hải, chánh văn phòng phủ tổng thống, nhiệm vụ liên lạc và nói chuyện với nhóm đảo chánh. Khoảng trước 9 giờ sáng ngày 11-11-1960, ông Hải gặp Nguyễn Chánh Thi, rồi gặp Vương Văn Đông. Ông Đông đồng ý điều đình, nhưng yêu cầu tổng thống Diệm phải từ chức và “Hội đồng Cách mạng” sẽ bảo đảm an ninh cho gia đình ông Diệm ra nước ngoài. (Hoàng Cơ Thụy, sđd. tr. 2847.)
Trong dinh Độc Lập, từ sau 10 giờ sáng, tổng thống Diệm dùng hệ thống vô tuyến riêng, đọc lời kêu gọi các lực lượng trung thành với chính phủ đem quân về thủ đô dẹp cuộc đảo chánh, cứ khoảng 5 phút phát một lần. (Nguyễn Chánh Thi, sđd. tr. 131.) Nguyên văn điện văn như sau: “Đây là Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, ra lệnh cho Bộ chỉ huy các Quân khu: Đêm nay hồi 3 giờ sáng, một số sĩ quan trung cấp đã bội phản và phỉnh gạt binh sĩ để mưu đảo chánh tại Thủ đô. Hiện giờ Tổng tham mưu và Quân khu Thủ đô tạm thời gián đoạn liên lạc, một số sĩ quan cao cấp cũng mất liên lạc. Vậy các Tư lệnh Quân khu phải bình tĩnh và tự vệ cẩn mật để chờ lệnh của sĩ quan liên lạc Phủ tổng thống. Đại tá Trần Thiện Khiêm, Quân khu 5, phải cho đoàn Thiết giáp Mỹ Tho lên ngay đậu tại Phú Lâm chờ lệnh, và đại tá Trần Thiện Khiêm lấy một tiểu đoàn lên ngay tại Phú Lâm đợi lệnh.” (Trích: Nguyễn Chánh Thi, sđd. tr. 131.)
Võ Văn Hải làm con thoi liên lạc giữa dinh Độc Lập và nhóm sĩ quan đảo chánh. Sau khi ông Hải gặp Vương Văn Đông lần thứ 3 tại nhà trung tướng Dương Văn Minh, lúc 12G:30 ngày 11-11-1960, Vương Văn Đông điện thoại và nói chuyện trực tiếp với tổng thống Diệm. Tổng thống Diệm báo cho ông Đông biết là muốn cải tổ chính phủ thì phải theo thể thức hợp pháp, tức phải thông qua Quốc hội, nhưng ông Đông vẫn nhất quyết đòi tổng thống phải từ chức. (Hoàng Cơ Thụy, sđd. tt. 2849-2850.)
Chiều 11-11-1960, Võ Văn Hải gặp Vương Văn Đông lần thứ tư tại nhà tướng Lionel C. McGarr, người mới thay tướng Williams đứng đầu đoàn cố vấn quân sự Hoa Kỳ. Ông Hải đưa ra giải pháp dung hòa là lưu giữ tổng thống Diệm và giải tán chính phủ, chỉ định một thủ tướng mới nhằm thành lập chính phủ lâm thời. Trung tá Vương Văn Đông đồng ý, nhưng yêu cầu tổng thống Diệm chính thức tuyên bố giải tán chính phủ.
Tối hôm đó, lúc 8 giờ tối 11-11-1960, tổng thống Diệm điện thoại cho đại tướng Lê Văn Tỵ, giao cho ông Tỵ trách nhiệm lập chính phủ quân nhân. Đại tướng Lê Văn Tỵ công bố trên Đài phát thanh một bản nhật lệnh lúc 9 giờ tối 11-11-1960, gồm ba điểm chính, nguyên văn như sau: “Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh sĩ Quân đội Việt Nam Cộng Hòa,/ Giữa lúc cuộc chính biến nghiêm trọng diễn ra tại Thủ đô, hôm nay tôi đã hội đàm với Tổng thống Ngô Đình Diệm và đã đi đến những thỏa thuận sau đây để duy trì sự đoàn kết của Quân đội: 1) Tổng thống đồng ý giải tán chính phủ hiện tại sau khi đã thảo luận về vấn đề quốc sự với Ủy ban Cách mạng. 2) Với sự đồng ý của Ủy ban Cách mạng, Tổng thống ủy thác cho một số sĩ quan trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm thành lập một chánh phủ quân nhân lâm thời. Chánh phủ nầy tiếp tục cuộc chiến đấu chống Cộng sản để bảo vệ Tổ quốc. 3) Ngay sau khi nhận được lệnh nầy, tất cả các đơn vị phải lập tức ngưng bắn, tiếp tục hoạt động trở lại và phải luôn luôn bình tĩnh đề cao cảnh giác đề phòng sự phá hoại của Việt Cộng. KBC 4002, ngày 12 thánh 11 năm 1960 / Đại tướng Lê Văn Tỵ/ Tổng tham mưu trưởng QĐ/ VNCH.” (Trích: Nguyễn Chánh Thi, sđd. tt. 144-145.)
Đến 6G:20 sáng 12-11-1960, bản “Tuyên cáo của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa” được đưa lên Đài phát thanh do tổng thống Diệm đọc. (Mark Moyar, sđd. tr. 112.) Nguyên văn bản tuyên cáo như sau: “Quốc dân đồng bào,/ Tiếp theo cuộc nổi dậy tại Thủ đô tối nay, để cho Quân đội chúng ta được toàn vẹn trong cuộc chiến đấu chống cộng, Tôi, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã quyết định giải tán Chính phủ hiện thời. Tôi kêu gọi các Tướng lãnh Quân đội Việt Nam Cộng Hòa thành lập một Chánh phủ Lâm thời để có thể chiến đấu chống cộng và bảo vệ xứ sở. Đồng thời tôi sẽ phối hợp với Hội đồng Cách mạng thành lập một chánh phủ Liên hiệp. Để tránh đổ máu và trấn an dân chúng, tôi ra lệnh Hội đồng các tướng lãnh tìm tất cả các phương pháp thích nghi chấm dứt mọi cuộc tuyên truyền xuyên tạc và ngưng bắn./ Ngô Đình Diệm.” (Trích: Hoàng Cơ Thụy, sđd. tr. 2855.)
Trong khi đó, đại tá Trần Thiện Khiêm đem quân Sư đoàn 7 từ Mỹ Tho và đại tá Huỳnh Văn Cao đưa quân Sư đoàn 5 từ Biên Hòa về thủ đô cứu viện, đến Sài Gòn sáng 12-11. Lực lượng đảo chánh bắt đầu nao núng. Vào buổi chiều, các tiểu đoàn Nhảy dù rút lui dần dần. Quân trung thành với chính phủ Diệm làm chủ tình thế.
Trước khi phi trường Tân Sơn Nhất được quân chính phủ kiểm soát trở lại khoảng trưa ngày 12-11-1960, các sĩ quan đảo chánh dùng phi cơ C-47 rời khỏi Việt Nam, bắt theo trung tướng Thái Quang Hoàng làm con tin. Qua Cao Miên, trung tướng Hoàng xin trở về Việt Nam, và được Miên trả về Việt Nam ngày 15-11-1960. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 283.)
Khoảng 6 giờ chiều ngày 12-11-1960, tổng thống Diệm tuyên bố trên đài phát thanh rằng chính phủ đã dẹp yên quân phiến loạn, hứa “sẽ tiếp tục phục vụ đất nước và dân tộc theo đường lối Cộng Hòa và Nhân vị...” (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập I-C, Houston: Nxb. Văn Hóa: 2000, tr. 194.) Ngày 15-11-1960, tổng thống Diệm thành lập Uỷ ban điều tra về cuộc đảo chánh 11-11-1960, do thiếu tá Trần Khắc Kính cầm đầu. Uỷ ban nầy làm việc đến cuối tháng 3-1961, thì hoàn tất hồ sơ.
3.- HẬU QUẢ CUỘC ĐẢO CHÁNH
Sau cuộc binh biến, chính phủ bắt giữ nhiều nhà chính trị đối lập như Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lương, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Chữ, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Thành Vinh, Trương Bảo Sơn, Lê Ngọc Chấn … vì liên hệ đến binh biến. Trong số nầy, một số người trước đây đã ký vào “Tuyên ngôn Caravelle” ngày 26-4-1960. Trần Văn Hương bị bắt ngày 12-11-1960, nhưng được thả trong vài tuần. (Hoàng Cơ Thụy, sđd., tr. 2866.) Nhất Linh Nguyễn Tường Tam bị bắt rồi được thả về.
Theo tác giả Nguyễn Tường Thiết (con của Nhất Linh), trong bài “Sự thật về cái chết của Nhất Linh”, nhật báo Người Việt, California ngày 1-2-2012, thì Nhất Linh biết trước cuộc đảo chánh sẽ xảy ra, nhưng Nhất Linh không tham gia và không liên hệ đến cuộc đảo chánh, nên chính quyền Diệm thả Nhất Linh. Theo Vĩnh Phúc, sđd. tt. 220-224, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam vào tỵ nạn trong Tòa đại sứ Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) ở Sài Gòn. (Nhất Linh quen biết với các lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng khi hoạt động ở Trung Hoa.) Đại sứ Vương Tử Kiện nhờ một linh mục Dòng Tên (Jésuite) người Bỉ trình bày với tổng thống Diệm. Tổng thống Diệm chuyển qua ông Nhu. Ông Nhu giao cho Trần Kim Tuyến. Ông Tuyến bảo lãnh với đại sứ Đài Loan. Tòa đại sứ Đài Loan giao Nhất Linh cho Công an Việt Nam. Nhất Linh bị giữ hai ngày, làm thủ tục rồi được thả về. Vĩnh Phúc dựa theo tài liệu của Trần Kim Tuyến.
Một nhân vật dân sự quan trọng trong cuộc binh biến ngày 11-11-1960 là Hoàng Cơ Thụy nhờ người Mỹ sắp đặt, giúp ông trốn thoát ra nước ngoài. (Mark Moyar, sđd., tr. 114.) Trong sách Việt sử khảo luận cuốn 5, Hoàng Cơ Thụy cho biết ông lưu vong từ 4-12-1960 đến ngày 20-11-1963 mới trở về sau khi chính phủ Diệm sụp đổ, nhưng không cho biết nơi lưu vong. Có tài liệu cho rằng ông Thụy trốn vào Tòa đại sứ Mỹ, qua Phi Luật Tân, rồi qua Nhật Bản.
Số thiệt hại nhân mạng trong cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 là: 20 thường dân và 23 quân nhân thiệt mạng, trong đó có trung tá Nguyễn Triệu Hồng; số bị thương khoảng 54 thường dân và 214 quân nhân. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 283.)
Về phương diện chính trị, trong thời gian quân đảo chánh làm chủ Đài phát thanh, chính phủ Diệm bị chỉ trích nặng nề. Trên đài Phát thanh, những sai lầm của chính phủ lâu nay bưng bít, nay có cơ hội được đưa ra ánh sáng và truyền đi công khai khắp nước.
Trong khi thương thuyết với phe đảo chánh, tổng thống Diệm công khai hứa trên đài phát thanh sẽ giải tán chính phủ, thành lập chính phủ lâm thời, nhưng khi lật ngược được tình thế, ông Diệm không giữ lời hứa, quay qua đàn áp những người đảo chánh và các nhóm đối lập mạnh mẽ hơn. Tổng thống, kiêm nhiệm tổng tư lệnh quân đội VNCH, còn hứa hẹn với đại tướng tổng tham mưu trưởng để ông nầy ra nhật lệnh trấn an các sĩ quan đảo chánh. Vì nghe lời thượng cấp, các sĩ quan nầy bị đàn áp. Dân chúng và quân đội nghĩ gì về việc nầy? Lúc đó dưới quyền lực của chế độ Diệm, không ai dám nói ra, nhưng sự thất hứa của tổng thống đã phải trả giá ba năm sau: Khi đảo chánh bùng nổ trưa ngày 1-11-1963, từ dinh Gia Long, tổng thống Diệm điện thoại cho trung tướng Trần Văn Đôn trong nhóm đảo chánh lúc 3G.30 chiều hôm đó, hỏi lý do động binh và yêu cầu các tướng đảo chánh đến dinh Gia Long điều đình, nhưng phía đảo chánh không chấp thuận, vì sợ bị sập bẫy như cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960. (Mark Moyar, sđd., tr. 268.)
KẾT LUẬN
Như thế, tổng thống Ngô Đình Diệm gặp nhiều chống đối vào khoảng cuối nhiệm kỳ đầu; những người tài giỏi giúp ông Diệm lần lượt tránh xa ông; những bất mãn về nạn tham ô của các quan chức; và nhất là sự chống đối của những đảng phái đối lập và những nhà bất đồng chính kiến.
Thông thường, một chế độ không chấp nhận bất đồng chính kiến, tiêu diệt đối lập chính trị, thì giới đối lập chính trị bị dồn vào thế phải hoạt động bí mật và vì sự sống còn của chính mình, kiếm cách lật đổ chế độ để tự giải thoát. Trong giai đoạn 1954-1955, Ngô Đình Diệm đã từng nhờ đại tá CIA Mỹ là Edward G. Lansdale để ổn định tình hình, thì lần nầy các sĩ quan đảo chánh cũng nhờ người Mỹ, tạo cơ hội cho người Mỹ can thiệp vào chuyện nội bộ VNCH.
Như thế, có thể nói cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 là tiếng chuông báo động công khai cho chế độ Diệm về những phản đối tiềm tàng trong các tầng lớp dân chúng khác nhau, nhưng rất tiếc sau khi dẹp yên cuộc đảo chánh, tổng thống Diệm chẳng mấy quan tâm đến tiếng chuông báo động nầy. Phải chăng vì vậy mà cuối cùng chế độ Diệm kết thúc một cách bi thảm năm 1963?
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 01-11-2012)
Đàn Chim Việt
Chà, Chưng Sơn ở Mỹ còn Con Mèo thì ở Việt Nam đó nghen. Thiên Tài Việt Cộng cứ đưa mặt cho người ta đập. Dốt mà còn chỉ chỗ…mấy ông ơi! con ở bụi này. Không đánh mà khai.
Mấy người gọi là chống cộng, chống cộng qua bàn phím và chống cộng bằng mồm cũng chẳng xong, vì sao? Vì chưa thấy mấy người này chống được cộng nào, cộng ở đâu mà chủ yếu là chống nhau, hic, đọc ý kiến của quý vị thì tôi nhận ra hai điều quan trọng là tại sao các vị lại thua cách đây gần 40 năm và tại sao mà từng ấy năm, quý vị thì tàn lụi đi mặc dù rất to mồm, còn chính quyền và đất nước VN càng ngày lại càng mạnh. Tất nhiên là quý vị sẽ rất khó chịu khi nghe nói vậy, tuy nhiên điều đó lại là sự thật, mà sự thật có cay đắng thì cũng cố gắng mà chấp nhận, chịu đựng, tôn trọng sự thật để có thể sống chung với những thực tế đó.
Chống Cộng qua…bàn phím?
Chống Cộng qua bàn phím để được cái gì, thầy ba?
Mắc cười quá…
Ở đây, người ta chỉ trình bày cái…láo. cái ác, cái gião quyệt lừa dân ngu của lũ Cộng mà thôi. Nghe ra hay không là tuỳ…đối tượng.
Cộng ở VN mà…bền, thì dân VN phải chịu…láo bền, cả dân và cán Cộng phải chịu Tàu Cộng nó…dìu dắt. Dân và cán tính chuyện lòn lách qua mặt Tàu Cộng, sẽ bị chúng….tát vô mặt, không dám ho. Đôi lúc có…xin phép Tàu, đóng kịch ra vẽ Việt Cộng không ngán Tàu, chửi bới nó chút chút để…giựt le lối xóm. Nhưng thời buổi này, ai tin các cú lừa này nữa?
Theo thầy ba thì chống Cộng…qua bàn phím, nói thẳng nói thật về các mánh lừa của VC, bịnh lắm sao?
Chưng Sơn ở Mỹ, nick Conmeo ở VN, hai người khác nhau nhưng một quan điểm về vấn đề Catô lích, vì thế mà ngưu tầm ngưu mã tầm mã, hợp nhau phá thối, ăn nói xấc xược, bổ báng đạo giáo.
“Nick Conmeo ở VN, còn Chưng Sơn ở Mỹ, San Francisco là hai người khác nhau. Sao biết rõ về conmeo thế. Còn Lên Đời, Việt Quốc, Lê Lai ở đâu?
Bố khỉ, chưa ai đánh đã khai!
à thì ra thế,bố khỉ tội nghiệp cho nước Mỹ và những đồng tiền thuế của dân khi phải đi nhận một gã thuộc hàng đá cá lăn dưa.Chả ai lẫn lộn các cụ được,cá mè một lứa cò mồi vc đúng như lời bác Tiên Ngu hôm nào,loại đâm sau lưng như các cụ thì còn đầy rẫy và cũng cùng cái quan điểm rất chó má nghiã là bôi tro trát trấu lên tôn giáo bạn,báng bổ thần thánh,hỗn láo với người đã khuất.
Theo thống kê của bạn đọc ĐCV thì nick Tien ngu lập kỷ lục là đã công kích nhiều người nhất, chỉ còn chừa lại vài người và cũng theo dự báo của bạn đọc thì số người này sẽ được tiên ngu chăm sóc chụp mũ trong thời gian tới, mọi người hãy đón đọc nhé!
Bạn biết đọc biết viết song bạn lại không đủ trí tuệ để nhận xét thế nào là công kích và thế nào là tự vệ.Ai đang chụp mũ ai vậy ?
Vậy ông xem trí tuệ của ông ra sao khi đọc một trong hàng trăm cái còm của người mà ông bênh vực nè:
Tien Ngu says:
10/11/2012 at 09:01
Sơn à,
Không nên….tự sướng như Trần dân Tiên, Sơn?
Những cái tràng giang, tự sướng với nhau của giáo điếm, mang lên đây…mần chứng, thiên hạ bất nhẫn, bỏ qua, không phải là…chiên lờ tịt.
Bởi những cái chứng của Sơn nó…thúi quá xá, phun liền tù tì thế, chịu sao thấu?
Chuyện Sơn…hiện thân từ giao điếm dot com, ngậm phân phun Ngô đình Diệm từ mấy năm nay, dân net chằng có ai là không rành.
Chơi cái trò mua dầm thúi đất, theo kiểu cò mồi VC hát bền, bơm Hồ chí Minh lên thánh, coi bộ hơi xưa. Xí gạt dân net dâu được, kiếm mánh khác đi Sơn.
Chúc em may mắn.
Ông Tiên Ngu viết như vậy vẫn còn lễ phép và văn hoá đấy. So sánh những gì Tiên Ngu viết mà Bạn đọc ĐCV trích dẫn ở trên còn không bằng 1/100 của Chưng Sơn viết, nó vừa xấc xược, hỗn láo và chửi rủa vô văn hoá, xúc phạm cả tôn giáo.
Vậy mà ông Bạn đọc ĐCV dường như vừa mũi, lại đi chỉ trích phản hồi của Tiên Ngu. Lạ thiệt?
Hi, kính hai vị Choi và Bút thép, tôi chỉ thống kê người có nick trên ĐCV này công kích nick khác mà thôi, ai đó công kích chế độ hay nhân vật lịch sử không thuộc vấn đề tôi đề cập. Hai vị đôi khi cũng có công kích người khác nhưng ít hơn Tien Ngu, những ý kiến hay bài viết của Chưng Sơn là quan điểm của vị đó và cũng ít trực tiếp đến một nick khác trên Diễn đàn này, chuyện đúng sai nội dung của lời công kích tôi cũng không nói ở đây, vậy vui lòng chưa hai vị thân mến!
Tiên Ngu chuyên….công kích, chụp mũ các nick trên DCV?
Hỡi ơi, đúng là….gáo tra dài cán, í quên, giáo đa thành oán…
Công tình mình nhín thì giờ, bỏ công ra, chỉ bảo tận tình, nhỏ nhẹ, lâu lâu giận lũ điếm nó ngu….bền quá cũng có…la lai rai chút chút, but not thing is serious…
Ai dè nó mang…lòng oán. Suy bụng….tiểu nhân ra bụng….Tiên Ngu..
Thiệt…chán mớ đời….
Chúng ta có thể tranh cãi về Tổng thống Ngô Đình Diệm để biết sự thật về lịch sử một cách quang minh để từ đó người Việt Quốc gia không còn chia rẽ nhau như đã từng chia rẽ nửa thế kỷ qua. Tranh cãi để tìm ra chân lý để rồi đoàn kết chống Cộng sản Việt Nam đang ngày đêm dày xéo trên quê hương và có thể đi đến làm nô lệ cho giặc Tàu. Xin quí vị hãy để cao cảnh giác những người lợi dụng cuộc tranh cãi này mà thóa mạ lẫn nhau cũng như có “kẻ thứ ba” nhảy vào ăn có đó là “con mèo sắp lòi đuôi cáo”.
Nói như ông Đại Nghĩa thì người Việt Quốc gia chia rẽ nửa thế kỷ qua là vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm?
Còn đây nữa những lời tưởng nhớ. Nhớ người anh hùng vị quốc vong thân: NGÔ ĐÌNH DIỆM.
Hoa thơm, vắng bóng cũng thơm
Hiền nhân quân tử ngàn phương cũng tầm
Trách ai tạo cảnh thăng trầm
Giết Ngô Đình Diệm, tan bành miền Nam
Hải Đăng
————–
Tiếc Thương
Một ánh sao băng tắt giữa trời
Giang sơn từ đấy tối thêm thôi.
Thương người nghĩa khí tàn giấc mộng
Tiếc bậc tài hoa úa mãnh đời.
Khinh bọn túi cơm loài rắn rít
Giận phường giá áo lũ đười ươi.
Nếu không phản phúc không tham vọng
Đất nước bây giờ hẳn kịp người.
NGÔ Minh HẰNG
(Bình Minh Magazine NJ )
Sao băng để tắt, sáng để tối
Đời là thế đấy, các ”cha” ôi !
Xưa nay lịchsử không có ”nếu”
Răng rụng mất rồi, ”nếu” dư thôi !
Chuá cũng đồ tồi !!!
Sao băng sáng lặn đêm cười
Để soi nhân thế người người thương nhau
Răng rụng thì ắt phải sầu
Thương thay Tạ Tốn có đầu vô tâm
Bài viết hay, xin chuyển đến để các bác đọc:
http://www.bacaytruc.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2179:i-nh-n-chi-s-ngo-inh-dim-&catid=34:din-an-c-gi&Itemid=53
Ngô chí sĩ, người anh hùng vĩ đại ,
Đã ra đi còn để lại tiếng thơm
Như mặt trời, người ngự trị trong tim
Lòng thế hệ muôn ngàn năm tưởng nhớ .
Ngô Tổng Thống, đệ nhất người dân cử
Đã khai sinh nền móng sử Cọng Hòa,
Làm vẽ vang dân tộc Việt Tự Do
Xây dựng nước Việt cơ đồ nhung gấm .
Ngô Chí Sĩ , người anh hùng chết thảm
Do bàn tay nhóm phản loạn phi nhân.
Vì tham tiền, đành bán rẻ lương tâm,
Gây xáo trộn dâng miền Nam cho Cọng.
Cầu Thượng Đế cho linh hồn Tổng Thống
Vị anh hùng vì tổ quốc vong thân,
Được đời đời vui tận hưởng Thiên Nhan,
Và sống mãi trong lòng dân bất tử.
Nhân kỷ niệm ngày tang chung quốc giổ,
Toàn quân dân đoàn kết nhớ ơn Ngài
Xin dâng lên nén hương qúy lòng người
Lời cảm tạ với cả trời thương nhớ ./.
NGUYỄN ĐÌNH HOÀI VIỆT
(Thơ Máu Và Nước Mắt )
Qua comment của bạn D.Nhật Lệ ở dưới, TK tôi cố gắng tìm hiểu ông Trần Gia Phụng là ai. Vì rằng “Sử Gia” thì phải viết những điều trung thực, khách quan, đồng thời phải phân tích, nhận định sự việc cho rõ ràng…không thể dựa vào bài, hoặc copy của người khác được!
Đàng này ông Phụng trích dẫn một chiều của những kẻ bất mãn, chống đối, đảo chánh ông Diệm, giống như luận điểm của nhóm Giao Điểm vậy!
Như thế thì không phải là viết sử, mà là “giết sử” đồng thời ông Phụng toa rập, đồng loã với những kẻ chống phá, bôi nhọ ông Diệm, dù rằng ông đã bị thảm sát cách nay đã 49 năm!
Một vài thí dụ điển hình:
1) “Tham nhũng thời ông Diệm còn giới hạn chứ không tràn lan như cộng sản ngày nay” (sic). Nói như thế là đồng hoá ông Diệm với chế độ csvn?
Nếu cần so sánh, thì phải nói cho rõ “cường độ tham nhũng” với dẫn chứng cụ thể ở thời ông Diệm, thời ông Thiệu và thời csvn hiện nay…
2) “Chính phủ Diệm kiếm cách ngăn chận đối lập chính trị, nhưng cũng không cản được 18 chính khách trong Ủy Ban Tiến Bộ và Tự Do, hội họp tại khách sạn Caravelle ở Sài Gòn ngày 26-4-1960, cùng ký kháng thư công khai phản đối chế độ Diệm. Kháng thư nầy thường được gọi là “Tuyên ngôn Caravelle”, phản đối việc kiểm soát báo chí, tố cáo nạn bè phái và yêu cầu tổng thống Diệm nới rộng chính phủ, tái lập các quyền tự do căn bản. (Nguyễn Trân, Công và tội, những sự thật lịch sử, California: Nxb. Xuân Thu , 1992, tr. 324.)”
Không lẽ cả miền Nam (VNCH) lúc đó chỉ có 18 trí thức hoặc “chính khách”?
Nếu thực sự là “chính khách” tức những người có khả năng, thực lực dấn thân vì đất nước với những thành tích cụ thể thì mới đáng nói, còn những “chính khách salon”, ganh tương đố kỵ, tranh giành quyền lợi, đả kích thì nhiều, góp ý xây dựng thì ít…thì liệu có xứng đáng được gọi là “chính khách”, hay những kẻ phá hoại, thưa ông Phụng?
3) Quốc hội lập pháp khóa 2 được bầu ngày 30-8-1959. Cũng như quốc hội khóa trước, đại đa số đắc cử đều thân chính quyền. Tại Sài Gòn, Nguyễn Trân đắc cử ở quận I và Phan Quang Đán đắc cử ở quận II, nhưng cả hai đều bị “Ủy ban hợp thức hóa” của Quốc hội loại bỏ, vì cho rằng các ông vi phạm luật bầu cử. Ai cũng biết ông Diệm sử dụng Ủy ban hợp thức hóa của Quốc hội để loại bỏ những nhân vật đối lập. (Đoàn Thêm, 1945-1964, Việc từng ngày, Hai mươi năm qua, California: Xuân Thu tái bản, tr. 260.)”
Tôi thấy câu này quá khiên cưỡng!
“Ủy ban hợp thức hóa” của Quốc hội loại bỏ các ông Trân + Đán vì cho rằng những ông này vi phạm luật bầu cử! Nếu đúng như thế thì ông Nguyễn Trân và Phan Quang Đán chẳng có gì để phàn nàn!
Còn như nếu “thật sự” không vi phạm luật, thì các ông Đán và Trân có thể khiếu nại…”Ủy ban hợp thức hóa” và quốc hội, hoặc đưa ra toà!
Tại sao lại đổ lên đầu ông Diệm với câu:..”Ai cũng biết ông Diệm sử dụng Ủy ban hợp thức hóa của Quốc hội để loại bỏ những nhân vật đối lập“…nghe chói tai nghịch nhĩ thế!…Đã vậy lại còn viết…”đại đa số đắc cử đều thân chính quyền“!
Theo nguyên tắc DÂN CHỦ, đa số “thắng” thiểu số. Trong trường hợp “đa số” trong quốc hội “không loại bỏ ông Đán và Trân”, thì chắc rằng các ông sẽ gọi họ là “không thân chính quyền” chăng ???
Với tôi thì bài viết này của ông Phụng quá tệ, không xứng danh là “sử gia”, và càng không đúng với những gì mà ông Nguyễn Quý Đại viết trong:
Sử gia Trần Gia Phụng
cuộc đời và tác phẩm
Trong đó có câu tâm sự của ông Phụng:…”Viết là một nhu cầu ,tôi may mắn đào tạo chuyên môn về môn sử, nên tôi nghĩ trong phạm vi khả năng của tôi viết nghiên cứu là cách tốt nhất tôi có thể tạ ơn quê hương, tạ ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và tạ ơn dạy dỗ của các thầy cô…”
Ông Phụng “may mắn được đào tạo chuyên môn về môn sử” mà viết lách thế này thì quá bết!
Mong rằng lời thật không mất lòng…
Trong cuộc bầu cử QHLH ngày 4-3-1956, 123 người đắc cử dân biểu, đa số thuộc các tổ chức hay đoàn thể thân chính phủ và một số ít độc lập, chia ra như sau: Phong trào Cách Mạng Quốc Gia 66 ghế. Tập đoàn Công Dân 18 ghế. Đảng Công Nhân 10 ghế. Phong trào Tranh Thủ Tự Do 07 ghế. Đảng Dân Chủ Xã Hội 02 ghế. Đảng Đại Việt 01 ghế. Độc lập 19 ghế.
Khối thân chính phủ từ Phong trào Cách Mạng Quốc Gia đến Phong trào Tranh Thủ Tự Do, chiếm 101 ghế, trên 82% tổng số ghế trong quốc hội. Đảng Dân chủ Xã hội và đảng Đại Việt chỉ được 3 ghế. Quốc hội xem như không có đối lập. Ngô Đình Nhu, em của tổng thống Diệm, đắc cử ở Bình Thuận, và bà Ngô Đình Nhu, tên là Trần Lệ Xuân, đắc cử ở Tân An (Long An).
Quốc hội họp phiên khai mạc ngày 15-3-1956 do niên trưởng Dư Phước Thuận (sinh năm 1889) chủ tọa. Ngày 22-3-1956, quốc hội bầu Trần Văn Lắm làm chủ tịch quốc hội, sau đó bầu Trần Chánh Thành làm chủ tịch Ủy ban lập hiến. Ông nầy là chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia, một vệ tinh của đảng Cần Lao.
Dựa trên căn bản sơ thảo hiến pháp do Ủy ban thảo hiến đưa ra (năm 1955), Ủy ban lập hiến của QHLH do Trần Chánh Thành đứng đầu, soạn xong tân hiến pháp sau bảy tháng làm việc. Bản hiến pháp nầy được QHLH thông qua ngày 20-10-1956 và được tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành ngày 26-10-1956.
Điều 95 hiến pháp quy định rằng sau khi hoàn thành soạn thảo hiến pháp, QHLH sẽ trở thành Quốc hội lập pháp đầu tiên của VNCH. Tân quốc hội sẽ khai mạc ngày 9-11-1956, và sẽ được bầu lại vào ngày 30-9-1959. Thành phần QH khóa 2 ngày 30-9-1959 không khác gì khóa trước. Chuyện ông Diệm và gia đình khống chế quốc hội là quá lộ liễu, ai sống vào thời nầy cũng biết cả thưa ông Trung Kiên. Không biết lúc đó ông có nghe các dài ngoại quốc tường thuật hay không? Nếu không, mời ông đọc Công và tội của Nguyễn Trân, một nguòi Công Giáo, lúc đầu ủng hộ Diệm nhưng sau phản đối gia đình trị của Diệm nên mới bị Diệm trù dập.
TS
Cám ơn ông Từ Song đã phản hồi! Tuy nhiên, TK thấy lý luận của Ông khá lạ lùng. Vì rằng:
1) Nếu khối “thân chính phủ” chiếm được “trên 82% tổng số ghế trong quốc hội”, thì thiển nghĩ, số còn lại đương nhiên là đối lập rồi.
Tại sao Ông cho là “Quốc hội xem như không có đối lập” ???
Hơn nữa, trong hoàn cảnh của VNCH lúc ấy, một nền dân chủ mới được khai sáng, hình thành. Không ai dám khẳng định rằng trong số 82% kia hoàn toàn không có đối lập, có thể vì một lý do nào đó mà họ đã thoả hiệp với nhau để ủng hộ chính quyền?
- Ở Mỹ, nếu đảng Cộng Hoà lãnh đạo thì đảng dân chủ đương nhiên là đối lập.
- Ở các quốc gia dân chủ khác, đảng nào trúng cử lãnh đạo thì các đảng khác cũng đương nhiên là đối lập. Tuy nhiên họ vẫn có thể thoả hiệp (liên kết) với đảng cầm quyền để giảm bớt đối lập…
2) Trích;…”Quốc hội họp phiên khai mạc ngày 15-3-1956 do niên trưởng Dư Phước Thuận (sinh năm 1889) chủ tọa. Ngày 22-3-1956, quốc hội bầu Trần Văn Lắm làm chủ tịch quốc hội, sau đó bầu Trần Chánh Thành làm chủ tịch Ủy ban lập hiến. Ông nầy là chủ tịch Phong trào Cách mạng Quốc gia, một vệ tinh của đảng Cần Lao“.
Tôi không biết những dòng trên đây do Ông viết, hay trích của ai. Nhưng không thuyết phục, vì những ai ủng hộ TT Diệm thì các ông qui kết là “vệ tinh của Cần Lao”. Nhưng khi họ phản bội, lật đổ ông Diệm thì các ông lại ca ngợi họ!
Xin hỏi, lý tưởng và lập trường của các Ông để đâu???
3) Trích;…”Thành phần QH khóa 2 ngày 30-9-1959 không khác gì khóa trước. Chuyện ông Diệm và gia đình khống chế quốc hội là quá lộ liễu, ai sống vào thời nầy cũng biết cả thưa ông Trung Kiên. Không biết lúc đó ông có nghe các dài ngoại quốc tường thuật hay không? ”
Thiết nghĩ chẳng có gì khó hiểu cả, tình trạng thông tin ngày xưa có hạn, những người đã đắc cử lần đầu thì tên tuổi và hình ảnh của họ thường ngày được nhắc đến trên TV hay báo chí, họ có cơ hội tiếp xúc với đồng bào, vì thế cơ hội vận động và đắc cử cao hơn ứng viên mới là chuyện thường…
Hơn nữa, cá nhân ông Diệm và một vài anh em ông (ông bà Nhu và dăm ba người khác nữa) có chân trong quốc hội cũng chỉ là rất thiểu số, không được 1/10 thì làm sao có khả năng “khống chế” quốc hội?
Còn nói như Ông thì;
a) quá đề cao anh em ông Diệm.
b) Đánh giá quá thấp những nghị viên, những người trong quốc hội!
Có chăng là họ đã có khả năng thuyết phục với những ý kiến xây dựng, đúng đắn để tìm kiếm sự đồng thuận của quốc hội…và họ đã thành công!
4) Tôi chưa đọc bài viết của Nguyễn Trân, nhưng chỉ nghe Ông giới thiệu đã không muốn đọc rồi. Vì rằng, khi ông Nguyễn Trân vì lý do gì đó đã không được chính phủ Diệm trọng dụng nữa, mà còn bị “trù dập” thì..
…làm sao mà trung thực được nữa, khi hận thù đã che mất lương tâm?
Ông Trân là công giáo hay theo tôn giáo nào cũng không quan trọng. Điều quan trọng là người đó có hết lòng với quốc gia dân tộc hay không…hay vì chữ “TÔI” hoặc tham lam ích kỷ, “ham danh” quá nặng…để rồi làm những điều sai trái?
Nó cũng giống như tên loạn tướng, đảo chánh, giết ông Diệm rồi viết hồi ký chạy tội…bịa đặt vu khống và đổ hết lỗi lên đầu ông Diệm?
Những kẻ này thật tiểu nhân bỉ ổi và hèn là ở chỗ đó!!!
Trần Gia Phụng tốt nghiệp môn sử tại ĐH Huế năm 1965,khi NĐD ra làm quan rồi từ chức và lên làm thủ tướng,tổng thống thì TGP còn đang mài đũng quần trên ghế nhà trường,tốt nghiệp môn sử ĐH Huế và nghiên cứu nhưng theo cái cách viết thế này thì người ta đã biết tỏng ông đã nghiên cứu như thế nào.Trung thực và không bị cảm tính là hai điều cơ bản của người viết và nghiên cứu,nhưng đằng này…
Nguễn Văn Trần,Trần Bình Nam cũng vẫn chưa bỏ được chữ thù trong tâm.
SỬ GIA VÀ Ý NGHĨA CỦA LỊCH SỬ
Sử gia là nhà viết sử. Người học môn sử có thể trở thành sử gia mà cũng có thể không. Cũng có thể người không học chuyên về sử, nhưng do ý thức công việc nghiên cứu và viết sử như thế nào đó, vẫn có thể trở thành sử gia. Sử gia như vậy nói chung là người có uy tín, có ý thức, có tâm can, viết sử nhằm trình bày lịch sử qua các biến cố được phơi bày một cách sâu sắc, khách quan, qua nhận thức nghiêm túc, trung thực của mình, hầu đưa ra được những luận chứng, quan điểm, luận điểm cần thiết mà mình có được qua các kết quả nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những ý nghĩa nào đó của các quá trình lịch sử. Trong ý nghĩa như thế, Trần Trọng Kim chính là một nhà sử học, một sử gia nổi tiếng và chân chính mà nhiều người đã biết. Như thế, ý nghĩa của sử gia là giá trị nghiêm túc, tinh thần khách quan, đề cao sự thật, ưa chuộng chân lý. Bởi lịch sử không phải chỉ mang tính cách biên niên, tức kể thuật thuần túy, mà còn phải làm sáng tỏ những yếu tố còn mù mờ, chưa chính xác, không rõ rệt về ý nghĩa và tính chất hoặc giá trị chân thực mà mọi người tìm hiểu hay đọc sử đều cần biết. Ở đây tôi không nói gì về những điều ông Trần Gia Phụng viết, hay tính cách sử gia của ông Phụng là như thế nào, bởi vì tính cách này chính ông Phụng biết và nhiều người nắm rõ các dữ kiện lịch sử khách quan đều có thể đánh giá. Chỉ có điều tôi muốn nói, là người viết sử khác với người làm chính trị. Lịch sử là cái đã xảy ra. Chính trị là cái đang hay sẽ xảy ra. Như thế giá trị của lịch sử luôn luôn khách quan, ổn định hơn ý nghĩa của chính trị rất nhiều. Lịch sử có thể không tạo thành chính trị một cách căn bản. Nhưng ngược lại, chính trị lại tạo thành lịch sử một cách căn bản khi những sự việc chính trị đã đi vào lịch sử. Có nghĩa người viết sử luôn luôn phải vượt lên khỏi mọi nhãn quan chính trị kiểu phe phái, tầm thường, cá nhân riêng lẻ, để đi đến cái chung nhất của lịch sử, tức cái khách quan mà mọi người đều mong muốn rút ra được kết luận đúng đắn cho sự đánh giá, nhận xét của riêng họ. Bởi vậy người viết sử không theo quan điểm lịch sử chân chính, chính đáng, là phản bội lại lịch sử. Viết sử dù ít hay nhiều, một bài hay nhiều cuốn sách, nhưng nếu để các quan điểm chính trị riêng tư chi phối, đều trở thành ti tiện, thấp kém, phản lại người đọc, phản lại lịch sử, bêu xấu lịch sử nói chung. Nói cụ thể, đọc các tài liệu hay các bài viết về lịch sử trên các trang mạng ngày nay, chủ yếu người ta thường thấy hoặc khuynh hướng thân cộng, hoặc khuynh hướng chống cộng, khi nhiều người đề cập tới một giai đoạn liên quan nào đó. Đó là tính cách ti tiện, ấu trĩ về phương diện lịch sử trong chính trị hay quan điểm ti tiện, ấu trĩ về phương diện chính trị trong lịch sử. Người ta lấy chuyện ăn xổi ở thì của chính trị để phả vào, phủ lên trên lịch sử khách quan, làm móc méo mọi ý nghĩa, giá trị chính đáng mà mọi người đang mong đợi. Có nghĩa những cách viết của kiểu cán bộ cộng sản hay kiểu cán bộ chống cộng sản qua những tư liệu về lịch sử, những phát biểu về lịch sử đều mang tính nô dịch, hạ cấp, không phải tính cách của người hiểu biết chính đáng, có tinh thần và tâm hồn liêm khiết, nghiêm cẩn. Bởi nếu anh là người phát biểu chính trị, đúng đắn, đàng hoàng, anh phải có ý thức tự chủ, độc lập, không phải hồ đồ kiểu tay sai hạ đằng cho khuynh hướng này hoặc khuynh hướng khác. Ngược lại, nếu anh là người có khuynh hướng lịch sử thận trọng, nghiêm túc, anh cũng phải có tinh thần như vậy. Rất tiếc, trên các bài đang thấy hiện nay, những người đưa ra quan điểm, nhất là những bài viết theo kiểu commenter, đều có những trường hợp cho thấy tính cách hạ đẳng, bợ đỡ, thiên lệch, kịch cỡm, tầm thường nào đó, quả là đáng tiếc, và nó chỉ cho thấy tính cách hạ cấp, ít học, không đứng đắn của những người đưa ra các quan điểm như vậy. Đó đúng là sự tự hạ nhục, sự hạ nhục lịch sử, chính trị, lẫn nhân cách cá nhân cùng xã hội nói chung. Tất nhiên không thể nào loại bỏ mọi cái xấu xa ra khỏi các sinh hoạt xã hội, bởi đây chỉ là sự tự giác, nhưng chính điều đáng tiếc và đáng nói nhất lại chỉ là như thế đó. Tại sao nhiều người lại không vượt lên được quan điểm riêng tư về chính trị để nhận định khách quan về lịch sử. Tại sao họ không vượt lên được quan điểm lịch sử thuộc phe phái để đi tới một quan điểm lịch sử khách quan chung của con người Việt Nam nói riêng kể cả con người nói chung. Tính cách hèn kém, ấu trĩ của những trường hợp như thế lộ rõ ra ở đây cũng chính là vậy. Nhiều tay lên mạng càng thể hiện tính cách hạ cấp, dốt nát bao nhiêu, càng tỏ ra coi thường cộng đồng người đọc bấy nhiều, chính là như thế, mà mọi người đều rõ. Bởi vậy, trong tính cách chống lại các loại dạng kiểu như thế, ở bài viết này, thay vì việc làm thơ chơi như vẫn có thông thường, tôi phải viết theo kiểu nghiêm túc để nhằm chơi cũng chính là như vậy.
NON NGÀN
(11/11/12)
Cám ơn bạn đọc NGÀN KHƠI đã góp ý!
Đúng vậy,
Tất cả những gì tôi viết ở trên cũng chỉ cô đọng lại thành ý tưởng như của NGÀN KHƠI để nói với ông Trần Gia Phụng rằng;
“Viết sử nhằm trình bày lịch sử qua các biến cố được phơi bày một cách sâu sắc, khách quan, qua nhận thức nghiêm túc, trung thực của mình, hầu đưa ra được những luận chứng, quan điểm, luận điểm cần thiết mà mình có được qua các kết quả nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những ý nghĩa nào đó của các quá trình lịch sử…”
(chớ không phải theo cảm tính yêu/ ghét)
Một lần nữa, cám ơn NGÀN KHƠI nhiều!
Cám ơn tất cả các bạn đã góp ý và đồng cảm với TK…
TRUNG KIÊN
Trung kiên kiên định ở đời
Phải bênh cái đúng vạch trần cái sai
Đời người chút ánh sao mai
Còn hơn tăm tối như trăng thượng huyền
Nếu đời toàn nói huyên thuyên
Không bằng một phút đạp nghiêng gian tà
Trăm năm giữa cõi người ta
Kiên trì sự thật mới là trung kiên
NGÀN SAO
(12/11/12)
1) “Tham nhũng thời ông Diệm còn giới hạn chứ không tràn lan như cộng sản ngày nay” (sic). Nói như thế là đồng hoá ông Diệm với chế độ csvn?
Nếu cần so sánh, thì phải nói cho rõ “cường độ tham nhũng” với dẫn chứng cụ thể ở thời ông Diệm, thời ông Thiệu và thời csvn hiện nay…” (Trung Kiên)
Nhân tiện xin được góp ý với sử gia Trần Gia Phụng về Hối lộ tham nhũng và đầu cơ các thời như sau:
- Thời ông Diệm: “Ông Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ thời Đệ nhất VNCH tường thuật trong lần “Mạn đàm với Đại tướng Cao Văn Viên”, người mà năm 1963 từ chối không tham dự vào cuộc đảo chính ông Diệm đã nhận định về ông Diệm như sau:
“Mỗi người độc tài theo một cách riêng. TT Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình “thiên mạng” cứu nước. Có lẽ anh còn nhớ vụ ông tỉnh trưởng Bình Tuy săn được một con hà mã, dấu cái sừng tê giác, không khai báo khi hay được, cụ Diệm nổi trận lôi đình, cách chức và đòi giam viên tỉnh trưởng về tội “tẩu tán tài sản nhà nước”” (Ngô Đình Diệm, vị tổng thống còn nhiều tranh cãi/ Đại Nghĩa)
Thời ông Kỳ: xử bắn gian thương Tạ Vinh 1966, vì tội đầu cơ trích trữ (Google.com)
Thời ông Thiệu: Buôn lậu còi hụ Long An 1974 (Google.com)
Thời CSVN hiện nay:
- PMU 18 nổi cộm, cán bộ nhà nước vung tiền xài như rơm rác (Google.com, BBC, RFA)
- Tập đoàn Vinashine được thủ tướng Dũng đỡ đâu, đã làm tiêu hao trên một trăm ngàn tỉ ĐVN (Google.com, BBC, RFA)
- CA chận đường mãì lộ và làm tiền dân hàng ngày và công khai. (Google.com)
- Rất nhiều, rất nhiều vụ rút ruột công trình, ăn chặn, ăn cắp công khai. (Google.com)
- Quan chức ăn bẩn của dân, chủ trương làm sai dể ăn cướp của dân (vụ Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, vụ Ecopark Văn Giang và ở rất nhiều nơi khác với những bằng chứng rành rành, không thể chối cãi. (BBC, RFA, Google.com)
Nói tóm lại:
- Thời ông Diệm chỉ nghe nói tham nhũng nhưng không có bằng chứng cụ thể.
- Thời ông Kỳ và Thiệu, Tham nhũng có nhưng trong phạm vi cá nhân, chính quyền đã ra tay ngăn chận tham nhũng, báo chí thả cưa đưa tin, thêu dệt thêm cũng có.
- Thời CSVN hiên nay, tham nhũng có hệ thống, được chính quyền bao che. Báo chí không được đụng đến.
Những phóng viên nhà báo nào hăng hái đưa tin, sẽ bị trả thù và tống vào nhà giam như PV báo tuổi trẻ Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải trong vụ PMU 18, và mới đây là PV báo tuổi trẻ Hoàng Khương, vì theo dõi gài bẫy bắt tham nhũng mà bị kết vào tội “đưa và nhận hối lộ”.