Nội chiến ở Libya nhìn từ góc độ khác[2]
Tiếp theo phần I
Động cơ của Pháp trong sự can thiệp vào Libya
Sự hăng hái của nước Pháp, một thời là mẫu quốc vĩ đại của một số người An-nam chúng ta, trong việc can thiệp vào Libya lần này, tuy núp dưới danh xưng bảo vệ dân lành Libya, thật ra bắt nguồn vì những lý do đối nội-đối ngoại sau đây:
Về đối nội, không lâu trước khi các cuộc biểu tình đòi dân chủ bùng phát ở Tunisia khiến tổng thống Ben Ali phải từ chức lánh ra nước ngoài, nữ cựu ngoại trưởng Pháp, bà Michelle Alliot-Marie đã từng hứa sẽ ủng hộ cho chính phủ của Tunisia. Alliot-Marie và cha mẹ của Bà đều có quan hệ doanh thương chặt chẻ với giới thân cận trong chính phủ của Ben Ali, nghĩa là với giới mà người biểu tình Tusinian chống đối. Trong khi đó hiện ở Pháp có đến gần 600,000 kiều dân Tunisian và số người này đang rất bất mãn đối với cung cách phản ứng của chính phủ Pháp trong vụ Tunisia, và việc giới chức của chính phủ Pháp có quan hệ mật thiết với chính phủ của Ben Ali sẽ càng tạo ra những dư luận bất lợi cho Tổng Thống Pháp Sarkozy là người mà uy tín hiện nay đang giảm sút, mức thăm dò dư luận thua khá xa các ứng viên TT khác trong cuộc tranh cử sẽ xảy ra trong hơn một năm sắp đến. Để vớt vát, Sarkozy đã tận dụng cơ hội này để can thiệp ở Libya dưới danh nghĩa bảo vệ dân lành vô tội trong việc đòi hỏi dân chủ.
Về đối ngoại, thì lâu nay Sarkozy vẫn thường có thói quen nhảy vào các vấn đề quốc tế để gây uy tín cho bản thân cũng như cho nước Pháp già cỗi. Điển hình là vụ Sarkozy, không ai mời, tự nguyện đứng ra làm trung gian giàn xếp một cuộc đình chiến giữa Nga-Georgia năm 2008. Thật ra thì dù không có sự trung gian của Sarkozy, cuộc đình chiến vẫn diễn ra vì Nga đã đạt được tất cả những mục tiêu của cuộc chiến là trừng phạt và phá huỷ phần lớn tiềm năng quân sự của Georgia mà không gặp phải một phản ứng đáng kể nào từ Mỹ. Sau cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, tại hội nghị G-20, một lần nữa Sarkozy lại “làm nổi” bằng cách đưa ra đề nghị về một hệ thống Bretton Wood Mới! Đề nghị nghe rất kêu, nhưng sức mạnh kinh tế của Pháp khiêm tốn quá so với nhiều cường quốc khác, nên rốt cuộc chẳng ai nghe theo.
Mặt khác, từ sau Thế Chiến Thứ Hai với sự hậu thuẫn của Anh-Mỹ, và do Đức bị chia cắt, Pháp ít nhiều đóng vai trò lãnh đạo của Châu Âu. Nhưng từ sau khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh, vai trò đó của Pháp ngày càng lu mờ dần, bị một nước Đức thống nhất hùng mạnh hơn lấn lướt. Điều đó thể hiện rõ rệt nhất trong vụ khủng hoảng nợ nần năm 2009 của các quốc gia Âu Châu.
Cùng với việc dùng sức mạnh kinh tế và dự trữ ngoại tệ lớn lao của mình để chuộc Hy-Lạp ra khỏi cảnh phá sản, giúp đỡ tài chánh cho Tây Ban Nha, Băng Đảo và các nước khác của khu vực EURO ra khỏi những khó khăn kinh tế, Đức đã tìm cách gây ảnh hưởng để tái định hình các định chế kinh tế-tài chánh của Âu Châu do Pháp thiết lập trước đây, và đã đưa ra nhiều cải cách tài chánh đối với hệ thống ngân hàng Âu Châu. Pháp, do sự yếu kém kinh tế của mình, đành phải chấp nhận các đề nghị của Đức. Đã có lúc giới báo chí quốc tế gán cho Sarkozy là một Merkel’s Yes-man(nghĩa là chỉ biết nói Vâng đối với bà nữ thủ tướng Đức). Điều đó cho thấy uy tín và địa vị của Đức trong Cộng Đồng Âu Châu ngày càng gia tăng, uy hiếp vị trí lãnh đạo của Pháp. Liên minh với Anh, dựa vào danh nghĩa của NATO và sự hậu thuẩn của Mỹ, để đi đầu trong việc can thiệp vào Libya là một nước cờ của Sarkozy nhằm vớt vát và củng cố cho thế đứng chính trị quốc tế đang sa sút của nước Pháp.
Cũng phải kể đến mối lợi về khai thác dầu hoả mà ảnh hưởng gia tăng ở Libya trong tương lai sẽ mang lại cho các công ty dầu hỏa của Pháp. Hiện nay Pháp tiêu thụ đến 14% sản lượng dầu xuất cảng của Libya. Nhưng dầu vậy công ty dầu hoả Total của Pháp vẫn không có ưu thế ở Libya cho bằng công ty ENI của nước Ý. Ngoài ra, về mặt bán vũ khí thì từ năm 2004 đến nay Pháp đã bán cho chính phủ Gadhafi của Libya khoảng 500 triệu dollars; nhưng mới năm ngoái, 2010, Ý lại hớt tay trên Pháp bằng việc ký kết được với Libya một hợp đồng mua bán vũ khí trị giá lên đến hơn 1 tỉ dollars! Đây có lẽ lại là một lý do khác khiến Sarkozy của Pháp lại càng mau mắn hơn trong việc đi tiên phong đánh đổ Gadhafi của Libya.
Đối với Anh Quốc
Chính phủ Anh hiện không có những vấn đề đối nội như Pháp, nhưng Anh đang cùng Pháp dẩn đầu trong việc can thiệp vào Libya vì Anh có những tính toán quyền lợi riêng của mình. Quyền lợi đó gắn chặt với việc khai thác dầu hoả. Cho đến nay các công ty dầu hoả của Anh, đứng đầu là hảng BP, chưa có phần hùn đáng kể, so với Ý, Pháp. Công ty BP của Anh mặc dầu đã ký được hợp đồng khai thác dầu hoả trị giá 1 tỉ dollars với Libya hồi năm 2007, và rồi sau đó vào năm 2009 một hợp đồng khác dài hạn hơn với tổng trị giá đến 20 tỉ dollars cũng đã được ký kết, nhưng việc sản xuất dầu của BP ở đó vẫn chưa tiến triển khả quan. Vụ tràn dầu ở giếng dầu Macondo thuộc vùng Vịnh Mexico ở Mỹ của hảng BP đã gây tổng phí tổn lên đến gần 40 tỉ dollars cùng với nhiều tai tiếng về môi trường khiến cho công việc khai thác và sản xuất dầu của hảng này ở Libya bị chậm lại. Mặt khác vụ dầu tràn đó cũng khiến cho hoạt động tương lai của hảng BP ở Mỹ trở nên bấp bênh hơn. Trong tình trạng như vậy, việc mở rộng được thị trường vào Libya để thay thế cho thị trường ở Mỹ sẽ là một giải pháp tuyệt vời cho BP; cũng có nghĩa là có lợi cho Anh Quốc, vì ai cũng biết mối quan hệ ruột thịt giữa hảng BP và chính giới Anh. Nếu Gadhafi bị phe phiến loạn lật đổ, hoặc chí ít Libya bị chia làm hai, với miền Đông có nhiều mõ dầu thuộc quyền kiểm soát của phe phiến loạn, thì Anh Quốc, và tất nhiên cả BP, sẽ có nhiều cơ hội và ảnh hưởng hơn trong thị trường khai thác và sản xuất dầu hoả ở Lybia. Đó chính là mục tiêu thôi thúc Anh cùng tham gia trong vụ can thiệp này.[12]
Cũng xin nhớ rằng Anh-Pháp, đã cùng với Ý, là những đế quốc đã từng có thời, dài ngắn khác nhau, cai trị các lãnh thổ của dân Arabs ở Trung Đông, trong đó có vùng Libya ngày nay. Ngày xưa, các cường quốc này đã dùng sức mạnh quân sự và ưu thế kỹ thuật áp đặt chế độ thuộc điạ đối với các lãnh thổ đó, khai thác tài nguyên và vắt kiệt nhân lực người bản xứ phục vụ cho sự phát triển kỹ nghệ của mình. Nhưng nay thì lại tỏ ra nhân đạo tột cùng, lớn tiếng kêu gọi can thiệp để bảo vệ cho những người dân Arabs vô tội được thực thi quyền làm chủ của mình, chống lại ách độc tài của Gadhafi. Hệ thống truyền thông Âu Châu không ngớt kêu gào và lặp đi lặp lại khẩu hiệu vì dân lành và dân chủ ấy, quên đi rằng số người được họ cho là “ dân lành” đó chẳng “ lành” chút nào, mà chỉ là bọn phiến loạn, được bên ngoài xúi giục và tài trợ. Bởi vì “dân lành” nào mà lại biết sử dụng thành thạo các loại súng cao xạ tối tân, súng chống chiến xa đắt tiền và hoả tiển mang vai cá nhân? Câu hỏi rất đơn giản là ai đã cung cấp vũ khí cho phe phiến loạn?
Chỉ cần nhìn ra cách Libya không xa, là dải Gaza và West Bank, nơi người Palestine đang sống là thấy ngay sự khác biệt. Tại hai nơi đó, người Palestine dù đã trải qua mấy mươi năm kháng cự, chưa bao giờ họ có được những loại vũ khí tối tân như nhóm phiến quân Libya hiện nay đang dùng. Chính quyền Do Thái, với sự ngấm ngầm tán trợ của các cường quốc, và sự bất lực của Liên Hiệp Quốc, đã phong toả mọi sự vận chuyển vũ khí vào hai vùng đất đó, đẩy người Palestine vào tư thế defenless để dễ bề đàn áp. Có gì khác nhau giữa hai trường hợp? Có gì khác nhau giữa nguyện vọng tự quyết của người Palestine và quyền tự trị của đám phiến loạn ở Đông Libya?
Ngoài các cường quốc nêu trên, những quốc gia trong Vùng trực tiếp dính líu vào cuộc nội chiến Libya là Ai Cập và Arab Saudi, hai đồng minh thân cận của Mỹ.Theo Stratfor thì ngay từ hồi đầu tháng Hai, chính phủ Ai Cập đã âm thầm cùng với Saudi Arabia cung cấp tài chánh, thuốc men và vũ khí cho phe phiến loạn ở phiá Đông Libya. Động cơ của Ai Cập trong công việc này rất dễ thấy. Trước hết, Libya là một thị trường rất tốt cho sự thặng dư lao động rẽ tiền của Ai Cập. Theo ước tính của chính phủ Ai Cập thì có đến chừng 1.5 triệu người Ai Cập qua làm việc ở Libya, cung ứng lượng tiền gởi về gia đình khoảng 250 triệu dollars/ năm. Những năm sau này Gadhafi tìm cách hạn chế người lao động Ai Cập vào Libya và việc đó khiến chính phủ Ai Cập rất bất bình. Kế đến, phần lớn sản lượng dầu hoả của Libya lại tập trung ở miền Đông, giáp giới với Ai Cập, vì vậy từ lâu Ai Cập luôn nổ lực để tăng cường ảnh hưởng lên vùng này; một chính phủ Libya mới thuộc quyền kiểm soát của người Đông Libya tất nhiên là có lợi cho Ai Cập.
Với những lý do vừa nêu, Ai Cập sẽ ngay lập tức can thiệp vào Libya một khi được siêu cường bật đèn xanh. Đó là lời giải đáp cho việc Ai Cập bí mật hậu thuẩn cho phe phiến loạn và giúp giải thích do đâu mà phe này lại vũ khí tối tân với số lượng dồi dào như vậy.[13]
Những động cơ khác của sự can thiệp
Các quan hệ đối ngoại của chính phủ Gadhafi ở Phi Châu là một động cơ khác, và có lẽ là động cơ thầm kín nhưng quan trọng nhất, thúc đẩy các cường quốc Tây Phương, nhân khi thời cơ thuận lợi, tìm cách can thiệp vào Libya, loại trừ Gadhafi.
Trước đây châu Á và châu Phi là hai lục địa bị chủ nghĩa thực dân của các đế quốc Tây Phương dày xéo và bóc lột tàn tệ. Kể từ sau Đệ Nhị TC, song song với sự thoái trào của chủ nghĩa thực dân, các quốc gia trong hai châu này lần lượt giành lại được sự độc lập của mình.Tuy vậy sự độc lập thật sự và mức độ phát triển kinh tế của hai Châu không giống nhau. Một cách tổng quát thì cho đến nay Á Châu tương đối phát triển hơn và phần nào nền kinh tế ít bị chi phối bởi các cường quốc hơn. Trong khi đó thì Châu Phi vẫn còn là châu kém phát triển và lạc hậu hơn cả. Và tuy lạc hậu, nhưng do tài nguyên vô cùng phong phú và lao động dồi dào, Châu Phi đã và đang trở thành thị trường béo bở cho sự khai thác của các cường quốc. Ngoài Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý là những cường quốc đã thâm nhập vào châu Phi từ lâu, những thập kỷ sau này còn có thêm Trung Quốc nhảy vào. Sự cạnh tranh kinh tế, và cùng với nó là ảnh hưởng chính trị, giữa các cường quốc này tại Phi Châu ngày càng gia tăng.
Điều đáng quan tâm là tuy tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, và đã độc lập hơn nửa thế kỷ, châu Phi vẫn lạc hậu về mọi mặt, vẫn nghèo nhất thế giới, nạn đói vẫn hoành hành, bệnh tật lan tràn, nội chiến liên miên và chia năm xẻ bảy. Tình trạng này là mối ưu tư lớn của giới lãnh đạo các quốc gia châu Phi. Gadhafi là một trong số những nhà lãnh đạo ấy. Từ khoảng hơn 20 năm trở lại đây, Libya tuy chỉ là một quốc gia nhỏ, nhưng đã có những đóng góp đáng kể vào nổ lực đoàn kết và phát triển Phi Châu. Chính phủ Gadhafi đã tích cực theo đuổi một chính sách kết hợp toàn Châu Phi (foreign policy of Pan-African integration)[14] trong nhiều năm.
Theo Stratfor Global Intelligence thì về mặt kinh tế, thông qua cơ quan Libyan Investment Authority (LIA), một sovereign wealth fund, và các ngân hàng trực thuộc của cơ quan này, Libya đã mở rộng sự đầu tư vào ít nhất là 31 quốc gia trên toàn Phi Châu với tổng số vốn tới 65 tỉ dollars. Mức đầu tư trung bình lên hàng trăm triệu dollars cho mỗi công trình. Chẳng hạn như công ty viễn thông Zamtel ở Zambia với số vốn đầu tư lên gần 400 triệu dollars; hoặc đầu tư về hệ thống dẩn và chứa dầu ở Congo lên đến hơn 300 triệu dollars.
Một trường hợp được dư luận quốc tế nhắc đến nhiều là việc Libya đã giúp phát triển hệ thống thông tin bằng vệ tinh ở Phi Châu. Số là trước đó vào đầu thập niên 1990, khi 45 quốc gia ở Châu Phi họp lại, thành lập RASCOM (Regional African Satellite Communication Organisation) dự trù để điều hành mạng liên lạc vô tuyến qua vệ tinh cho toàn lục điạ. Trở ngại mà RASCOM gặp phải là vốn. Hàng năm RASCOM phải chi trả 500 triệu dollars để thuê vệ tinh viễn thông của Âu Châu( như của hảng Intelsat chẳng hạn). Trong khi đó chỉ cần chừng 400 triệu dollars là đủ để mua một vệ tinh viễn thông như vậy. Đã nhiều năm RASCOM xin vay IMF để mua vệ tinh riêng, nhưng không có kết quả. Cũng không một ngân hàng Âu-Mỹ nào khác sẳn sàng tài trợ cho dự án đó của RASCOM. Cuối cùng vào năm 2007, LIA của Libya đã bỏ ra 300 triệu dollars, African Development Bank và West African Development Bank thêm vào mỗi bank 50 triệu, vậy là lần đầu tiên các nước Châu Phi có riêng vệ tinh phục vụ cho nhu cầu viễn thông của mình, không phải mất 500 triệu dollars tiền thuê vệ tinh phải trả mỗi năm. Sau đó, đến năm 2010, với sự giúp đỡ của Nga và Trung Quốc, RASCOM của Châu Phi đã phóng thêm được một vệ tinh viễn thông khác. Có điều cũng từ đó các công ty viễn thông Âu Châu mất đi mối lợi và chắc chắn các chính phủ Âu Châu không thể quên điều đó.
Với nguồn tài chánh dồi dào thu được từ dầu hỏa, Libya cũng đã đóng vai trò không nhỏ trong việc hình thành các ngân hàng quan trọng của Châu Phi. Trước hết Libya Central Bank đã giúp hình thành African Monetary Fund (AMF), có trụ sở ở Cameroon; African Investment Bank (AIB), trụ sở ở Libya; và African Central Bank (ACB), đặt ở Nigeria. Ba banks này được xem là trụ cột tài chánh cho một Liên Đoàn Phi Châu (African Federation) trong tương lai, và được dự trù sẽ phát hành đồng tiền riêng cho Châu Phi, thay thế dần đồng tiền CFA franc (Colonies Francaises d’Afrique/Communauté Financière Africaine) đã ngự trị hơn 50 năm qua. Afrcian Monetary Fund (AMF) có tham vọng sẽ thay thế International Monetary Fund (IMF) (Quỹ Tiền Tệ Quốc tế) nhằm giúp các quốc gia Châu Phi thoát khỏi những điều kiện khắt khe nổi tiếng (conditionality) của Quỹ này. Cử chỉ tượng trưng đầu tiên của AMF là vào tháng 12/2010 ngân hàng này từ chối đơn xin tham gia của các quốc gia Tây Phương với lý do là Ngân hàng chỉ dành cho các quốc gia Châu Phi.[15]
Libya của chính phủ Gadhafi cũng đã góp phần làm thất bại nỗ lực của các quốc gia Âu Châu, đứng đầu là Pháp của Sarkozy, trong việc thành lập Liên Hiệp Địa Trung Hải (Union for the Mediterranean, UPM) gồm Bắc Phi và 27 nước Âu Châu với thâm ý gây phân hoá lục địa đen này. Tuy được mời tham gia UPM, vì Libya cũng thuộc Bắc Phi, Gadhafi đã từ chối. Do Libya từ chối tham gia, UPM mất luôn sự hưởng ứng của African Federation và cuối cùng không thành hình được.
Cuối cùng, cũng theo Stratfor thì song song với ảnh hưởng tài chánh, chính phủ Gadhafi cũng đã tạo được những ảnh hưởng chính trị rất quan trọng trong cộng đồng các quốc gia Châu Phi. Ảnh hưởng đó lan rộng từ Sudan, Niger, Chad, Mali, Mauritania, Congo, Kenya, Zimbabwe, v.v…và cả Nam Phi.
Lãnh tụ nổi tiếng và rất có uy tín ở Nam Phi, ông Nelson Mandela, cũng có quan hệ rất thân thiện và hết lòng ủng hộ Gadhafi.
Có điều rằng vai trò và những ảnh hưởng quan trọng về kinh tế-chính trị của chính phủ Gadhafi đối với Châu Phi lại là trở lực cho tham vọng của các cường quốc Tây Phương ở lục địa này, và đây mới chính là lý do thầm kín của sự can thiệp mang tính chất quốc tế hiện nay ở Libya.
Sự đối kháng của bản thân Gadhafi đối với các cường quốc không những chỉ ở Châu Phi mà còn ở cả phạm vi thế giới. Tháng Chín năm 2009 trên diễn đàn của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, trong bài diễn văn khá dài của mình đọc trước đại diện của 191quốc gia, Gadhafi đã phân tích tình hình quốc tế, lớn tiếng chỉ trích những bất bình đẳng trong trật tự quốc tế cũng như sự vi phạm đối với bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Một trong những công kích của Gadhafi là quyền Phủ quyết (veto) của các thành viên trong Hội Đồng Bảo An LHQ. Ông cho rằng quyền đó trái với tinh thần của Hiến Chương và nên được huỷ bỏ. Gadhafi cũng cho rằng Hội Đồng Bảo An đã không cung cấp an ninh cho thế giới mà trên thực tế chỉ khủng bố và cấm vận các quốc gia thành viên, và rằng bằng cớ là suốt 60 năm tồn tại của LHQ đã có đến 65 cuộc chiến tranh lớn nhỏ xảy ra trên khắp thế giới![16] Với giọng điệu đó thì rõ ràng ông Gadhafi đã… vuốt râu cọp! Có lẽ chính vì bài diễn văn đó mà Nghị Quyết 1973 đã được Hội Đồng BA/LHQ thông qua mà không ai phủ quyết hết chăng?
Phe nổi dậy là những ai?
Phe nổi dậy không phải là một khối thống nhất. Cái chung nhất mà họ có đối với nhau là chống lại sự cầm quyền của Gadahfi và các con ông ta. Có một bộ phận chống đối tự phát, không được tổ chức chặt chẻ, gồm những người dân thường chống lại tính chất độc đoán của chế độ và sự thối nát của các viên chức chính phủ. Một số khác chống lại Gadhafi do những tranh chấp bộ lạc đã có từ lâu; trong số này có cả những viên chức cao cấp trong chính phủ của Gadhafi, nay ly khai và muốn làm đảo chánh. Phần đông số viên chức này cũng thuộc loại tham ô thối nát và không có sự hậu thuẩn của dân. Những nhân vật được biết đến nhiều trong phe đối kháng là Mustafa Abdul Jalil, Aref Sharif và Al-Yunnis đều đã là những bộ trưởng trong chính phủ của Gadhafi. Một nhân vật khác là Abdel Moneim Al-Honi, cựu đặc sứ của Libya trong Liên Đoàn Ả rập ở Cairo. Al-Honi từng cùng tham gia đảo chánh năm 1969 với Gadhafi, nhưng sau đó ông ta âm mưu lật đổ Gadhafi và thất bại phải trốn ra ngoại quốc, đến năm 1990 được Gadhafi ân xá cho trở về Libya, nay lại chạy qua Benghazi theo phe đối kháng. Các viên chức này đều không được sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.
Nhóm chống đối quan trọng nhất là những thành phần Hồi giáo cực đoan và những chính khách bảo hoàng lâu nay đang lưu vong ở ngoại quốc, nay được ngấm ngầm đưa vào Libya qua ngã Ai Cập. Nổi bật trong nhóm có hậu thuẩn từ bên ngoài này là vài tổ chức sau:
National Front for the Salvation of Libya, FNSL: Đây là một tổ chức do Mỹ và Israel huấn luyện từ những thập niên 1980s, gồm chừng 2000 người Libyan, có căn cứ ở Chad. Saudi Arabia cũng đã từng cho tổ chức này 2.7 triệu dollars trợ cấp. Tình báo của Pháp cũng đã bí mật giúp huấn luyện tổ chức này. Cùng phối hợp với FNSL còn có một tổ chức gọi là National Conference for the Libyan Opposition, NCLO), có trụ sở ở Anh Quốc.
Quan trọng nhất là tổ chức Libyan Islamic Fighting Group (LIFG): Đây là nhóm Hồi Giáo cực đoan, rất gần gũi với các nhóm Al-Qaeda, là nguồn cung cấp nhân lực thâm nhập vào Iraq trong những năm qua để chống lại quân Mỹ ở đó. Các thành viên của nhóm LIFG này đã bị Gadhafi trấn áp, bắt bớ, giam cầm trong suốt nhiều năm qua. Mới đây, do nổ lực hoà giải của các con trai Gadhafi, hàng trăm thành viên của nhóm đã được phóng thích ra khỏi các nhà tù sau nhiều năm bị giam cầm.
Một điểm khác đáng chú ý khi bàn về thành phành của phe phiến loạn là các hồ sơ lưu trữ cho thấy rằng hai thành phố Darnah và Benghazi, căn cứ địa của phe này, cũng là căn cứ điạ của các nhóm Hồi Giáo cực đoan, từng có nhiều thành tích đối kháng vũ trang với chính quyền Gadhafi, là nơi xuất phát của những nhóm cảm tử quân xâm nhập vào Iraq, qua ngã Syria và Egypt, để tấn công quân đội Mỹ.[17]
Khía cạnh pháp lý
Theo đề nghị của Anh, Pháp và Lebanon, ngày 17/3/2011, Hội Đồng Bảo An LHQ đã xét và thông qua Nghi Quyết 1973 về tình hình ở Libya. Có 10 phiếu thuận, không phiếu chống, và có 5 thành viên không bỏ phiếu(abstention). Trong số 10 phiếu thuận thì có 3 là thành viên thường trực: Mỹ, Anh và Pháp. Trong 5 thành viên không bỏ phiếu thì có 2 thành viên thường trực là Nga và Trung Quốc.
Nghị quyết nhận định rằng tình hình Libya đã trở thành mối mối đe doạ đối với an ninh và hoà bình thế giới(Determining that the situation in the Libyan Arab Jamahiriya continues to constitute a threat to international peace and security).Nhận định đó được viết ra để cho phù hợp với quy định trong Chương Bảy của Hiến Chương LHQ liên quan đến các biện pháp quân sự, hoặc không quân sự, mà Hội Đồng Bảo An LHQ (HĐBA) được quyền uỷ quyết (mandate) để áp dụng đối với những hành vi của một quốc gia đe doạ hay phá vỡ hoà bình và an ninh quốc tế, hoặc các hành động xâm lăng của một quốc gia đối với một quốc gia thành viên.[18]
Với nhận định trên, Nghị Quyết đề ra những biện pháp cần thiết để bảo vệ thường dân (necessary meassures to protect civilians), thiết lập No-fly zone trên toàn lãnh thổ Libya, phong toả tích sản của chính quyền Libya và của gia đình Gadhafi ở hải ngoại, cấm vận vũ khí, hạn chế sự đi lại của nhiều viên chức cao cấp của chính phủ Liyba, và yêu cầu ngưng bắn.
Rõ ràng Nghị Quyết 1973 là một sự vi phạm ngay đối với Hiến Chương của LHQ, bởi vì trên thực tế, chính quyền Libya của Gadhafi đã không có hành động gì được xem là đe doạ đến hoà bình và an ninh thế giới, cũng không hề xăm lăng ai cả. Việc chính phủ Gadhafi trấn áp bạo loạn có vũ trang trên lãnh thổ Libya của mình chỉ là sự thực thi nhiệm vụ hợp pháp, căn bản và thông thường của một chính quyền, ở một quốc gia có chủ quyền và là thành viên LHQ, để duy trì trật tự và ổn định xã hội trong phạm vi lãnh thổ trách nhiệm, và đó là công việc nội bộ của Libya.
Một khiá cạnh khác là về vấn đề THƯỜNG DÂN (civilians). Theo định nghĩa của luật quốc tế thì thường dân là một người không không thuộc về các tổ chức quân sự, chính quyền, không được vũ trang, và cũng không phải là dân quân (militia). Ý nghĩa chính của chữ civilian là không chiến đấu (non-combatants). Theo định nghĩa đó thì số người Libyan được vũ trang bằng đủ loại vũ khí tối tân đang đánh nhau với quân chính phủ Gadhafi không thể được xem là thường dân; mà đúng ra phải gọi họ là phiến quân. Nhưng hiển nhiên là việc thiết lập No-Fly zone của Nghị Quyết đã được dùng để bảo vệ những thành phần phiến quân đó, hơn là bảo vệ thường dân.
Ngoài ra cần nhận ra sự mâu thuẩn của Nghị Quyết khi đề ra No-Fly zone để bảo vệ Thường Dân.
Mới nghe qua thì rất hấp dẫn và nhân đạo. Nhưng xét kỹ thì trên thực tế rất khó để thực hiện một lúc hai công tác đó: vừa bảo đảm không một phi cơ nào của phe Gadhafi bay trên vùng trời vừa bảo vệ được thường dân khỏi bị thiệt mạng. Trước hết để áp đặt được no-fly zone, một việc phải làm là cần phải triệt hạ hết toàn bộ hệ thống phòng không gồm các dàn radars và hoả tiển địa không được các dàn radars đó hướng dẩn. Để thực hiện được điều đó cần có nguồn tin tình báo chính xác về vị trí của hệ thống phòng không; đó không phải là việc dễ dàng. Thông thường các máy bay do thám AWACS dựa vào các tín hiệu phát ra của các dàn radars để xác định toạ độ của chúng, và lập tức gọi phi cơ oanh kích để tiêu diệt dàn radar. Đó là một chuỗi công việc xảy ra liên tục với độ phối hợp cao, nhanh chóng và tức thời. Nhưng máy bay AWACS khi xác định vị trí của các dàn radars phòng không của đối phương không có khả năng để biết là dàn radars có nằm lẫn trong khu dân cư. Điều đó có nghĩa rằng việc không kích hệ thống phòng không đối phương để thực hiện vùng no-fly zone không làm sao tránh khỏi việc giết hại dân thường. Nói cách khác, trên thực tế, hai nhiệm vụ thực hiện vùng no-fly zone và bảo vệ dân thường không thể nào tương dung với nhau được, có chăng chỉ là những tuyên truyền để che mắt công luận mà thôi. Bằng cớ là phe phiến loạn đã thừa nhận nhiều lần rằng ngay thường dân trong vùng kiểm soát của họ cũng đã bị thương vong do các cuộc oanh kích của liên quân NATO. Tất nhiên tổn thất nhân mạng của thường dân xảy ra sẽ khiến cho Nghị Quyết của LHQ mất đi tính chính đáng của nó.
Một khía cạnh khác là Nghị Quyết đã vi phạm một điều khoản khác trong Hiến Chương. Chương I, Điều 2, khoản 7 của Hiến Chương quy định rằng sẽ không có điều nào trong Hiến Chương trao quyền cho LHQ để can thiệp vào những vấn đề thuộc thẩm quyền tài phán đối nội của bất cứ quốc gia nào.(Nothing contained in the present Charter shall authorize the United Nations to intervene in matters which are essentially within the domestic jurisdiction of any state).[19] Việc bảo vệ trị an, chống lại bạo loạn của chính phủ Libya rõ ràng là thuộc về thẩm quyền tài phán đối nội đó. Chắc chắn là không có một chính phủ của một quốc gia nào trên thế giới lại không dùng quân đội để dẹp những phần tử nổi loạn có vũ khí cả.
Bản thân Nghị Quyết cũng đã bị ngay các cường quốc thực thi Nghị Quyết đó vi phạm. Đó là trong khi chính phủ Gadhafi chấp hành lời kêu gọi ngưng bắn của Nghị Quyết thì các lực lượng nổi loạn và không lực Anh-Pháp đã không hưởng ứng. Việc cấm vận vũ khí do Nghị Quyết quy định cũng đã không được các cường quốc và đồng minh của họ tuân hành. Nhiều nguồn tin đã khẳng định rằng một số lực lượng đặc biệt của Anh-Pháp đã đổ bộ vào Libya để giúp quân phiến loạn cả về huấn luyện lẫn tham gia chiến đấu, và một số lớn vũ khí từ bên ngoài đã được chuyển vào cho phe đó qua ngả Ai Cập với sự mặc nhiên đồng thuận của các cường quốc.
Tóm lại, xét về mặt pháp lý, sự can thiệp của Anh, Pháp, Mỹ và khối NATO vào cuộc nội chiến ở Libya, núp dưới danh nghĩa của HĐBA/LHQ, thông qua Nghị Quyết 1973, là không phù hợp hoàn toàn với quy định của Hiến Chương LHQ, xâm phạm đến nguyên tắc chủ quyền quốc gia, tạo thành một tiền lệ xấu trong công pháp quốc tế, và gây tổn hại cho trật tự hiện thời của thế giới. Vắn tắt thì các cường quốc đã xúi giục, tài trợ và trang bị cho kẻ phiến loạn để từ đó có cớ can thiệp vào nội bộ của một chính quyền hợp pháp và vi phạm chủ quyền của một quốc gia thành viên LHQ. Không những thế, bằng việc dùng bom tìm giết Gadhafi và thân nhân ông ta, các cường quốc được uỷ nhiệm thực hiện Nghị Quyết 1973 của LHQ đã công khai tiến hành việc ám sát nguyên thủ của một quốc gia thành viên, người mà mới trước đó vào ngày 23/9/ 2009 đã tham dự và đọc diễn văn tại phiên họp Đại Hội Đồng LHQ có sự tham dự của 191 nguyên thủ quốc gia khác trên toàn thế giới . Rõ ràng đó là một việc làm phi pháp và thô bạo, hoàn toàn trái với mọi công ước và tập tục trong bang giao quốc tế có hiệu lực từ trước đến nay.
Kết luận
Gọi là nhìn từ góc độ khác, bởi vì ngoài kia, trên các hệ thống truyền thông chính thức của cả Mỹ lẫn Việt ở hải ngoại, thông tin và bình luận về tình trạng ở Libya có vẻ như thuận theo một chiều hướng nhất định, dưới ảnh hưởng áp đảo của một phía, cho rằng những biến động hiện nay ở Libya là nằm chung trong phong trào vùng lên đòi dân chủ của quần chúng Ả rập, là “Cách mạng Hoa Lài“, đang lan rộng ở Bắc Phi và Trung Đông, rằng chính phủ Gadhafi là một chế độ độc tài và là một bạo chúa đang đến ngày tàn, và rằng Hội Đồng Bảo An LHQ, vì mục đích cao cả là bảo vệ những thường dân (civilians) cùng đòi hỏi dân chủ chính đáng của họ, đã ra nghị quyết, uỷ nhiệm cho các cường quốc Anh, Pháp, Mỹ thực hiện những biện pháp cần thiết đối với chính phủ Gadhafi.
Luồng dư luận chính thức trên đây bề ngoài có vẻ hợp tình, hợp lý và khả tin; nhất là khi chúng ta chỉ quen được nghe bởi một phía. Nhưng nếu suy ngẫm kỹ dựa ngay chính trên những thông tin nhận được, rồi đem đối chiếu, một cách sáng suốt và tỉnh táo, với kiến thức thông thường về các mặt, với lịch sử của những biến cố tương tự nói riêng và lịch sử chính trị quốc tế hiện đại nói chung, với tình hình kinh tế-chính trị của khu vực và của thế giới, thì một người với tri thức trung bình không khỏi có những hoài nghi nảy sinh trong đầu đối với luồng dư luận chính thức đó, và bắt đầu tìm cách nhận định sự kiện từ một góc độ khác.
Chẳng hạn về kiến thức thông thường thì, như đã đề cập đến ở phần trước, thường dân là những kẻ không chiến đấu (non-combatants). Vậy nhưng sao trên TV thì thấy những người biểu tình chống lại Gadhafi, những người mà Nghị Quyết LHQ quyết tâm bảo vệ, thì toàn là những người được trang bị tận răng, với vũ khí tối tân, e rằng còn tối tân hơn của QLVNCH trước đây? Cũng xét theo lý lẽ thường tình thì trước đây Ý, Anh và Pháp đều đã từng xâm chiếm, biến Libya và nhiều nước Ả rập khác thành thuộc điạ, bóc lột tàn tệ và đàn áp người dân ở đó trong hàng thế kỷ, nay sao cũng các cường quốc đó, vì phép lạ trời ban nào, bổng dưng trở nên nhân ái, quan tâm đến sự an nguy của người Libya và các dân Ả-rập khác nhiều đến vậy, đến mức trong lúc kinh tế của các cường quốc đó đang hồi khó khăn, hàng triệu người dân của họ đang thất nghiệp nhưng không có đủ trợ cấp thất nghiệp, mà vẫn sẳn sàng tiêu tốn hàng trăm triệu dollars cho số bom đạn ném xuống, gọi là để bảo vệ thường dân Libyan?
Còn về lịch sử thì có nhiều những trường hợp tương tự. Điển hình nhất là vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc mùa hè năm 1989. Trong vụ đó hàng chục ngàn sinh viên tay không tấc sắt bị nghiền nát dưới xích xe tanks, nhãn tiền trước mắt toàn thế giới, vậy nhưng sao hồi đó HĐBA của LHQ và những cường quốc của khối NATO lại chẳng có lấy một nghị quyết nào về ” all necessary measures to protect civilians“, về no-fly zone, hay về freezing assets, v.v… áp dụng cho TQ? Trái lại, Mỹ vào lúc ấy tuy bề ngoài cũng theo Ấu Châu cấm vận TQ, nhưng chỉ 3 tuần sau biến cố, một cách bí mật TT Bush (senior) đã gởi một phái đoàn do Cố Vấn ANQG Brent Scowcroft và Thứ Trưởng Eagleburger qua Bắc Kinh để… trấn an![20]
Trường hợp khác, cũng đáng chú ý, là vụ Indonesia cho quân đội, trang bị bằng vũ khí của Mỹ, xâm chiếm và tàn sát Đông Timore năm 1975, giết đến gần 200,000 thường dân (1/3 tổng số dân trên Đảo). Với vụ này thì HĐBA của LHQ cũng… im re!
Còn nhiều trường hợp tương tự nữa, không thể kể hết, nhưng có lẽ gần nhất, cùng trong luồng gió của “Cách mạng Hoa Lài” là trường hợp Bahrain, một tiểu quốc nằm sát Saudi Arabia. Ở đó trong suốt thời gian qua chính phủ đã cho quân đội bắn giết hàng trăm người biểu tình tay không vũ khí. Vương quốc Saudi Arabia, một đồng minh của Mỹ, còn gởi quân để giúp thêm trong việc đàn áp đó nữa. Vậy nhưng HĐBA của LHQ cũng đã…làm ngơ, và giới truyền thông Mỹ thì không đả động bao nhiêu!
Những so sánh các trường hợp tương tự như trên với trường hợp của Libya, cùng với những tìm hiểu về các chính sách đối nội của chính phủ Gadhafi, mối quan hệ đối ngoại và vai trò của chính phủ ấy đối với Châu Phi trong những thập niên gần đây, và sau cùng là tình hình hiện nay của trật tự thế giới, đã thôi thúc việc tìm nhìn về biến động ở Libya dưới góc độ khác, với một nhận định đơn giản, nhưng thật hơn, rằng các cường quốc, đứng đầu là Mỹ, do nhu cầu chiến lược, xuất phát từ quyền lợi quốc gia của mình, đã tận dụng làn sóng đòi dân chủ của dân Ả-rập, khai thác nhược điểm của chế độ Gadhafi và của xã hội Libya, giúp dựng lên và yểm trợ cho lực lượng phiến loạn, tạo ra bất ổn ở Libya để có cớ can thiệp núp dưới danh nghĩa của LHQ, nhằm hoặc tối đa là lật đổ Gadhafi, lập một chính phủ mới, hoặc tối thiểu cũng phân chia được Libya, làm suy yếu nước này và chế độ Gadhafi; một chế độ không còn phù hợp với trật tự thế giới mới ở trong Vùng và đang có những chính sách đi ngược với quyền lợi của siêu cường.
Điểm căn bản của nhận định vừa nêu là nổ lực tiếp cận sự thật dựa vào nguyên tắc chính trị quyền lực (power politics), theo đó thì quan hệ quốc tế của các quốc gia trên thế giới chỉ đặt trên một nền tảng duy nhất; đó là quyền lợi quốc gia (national interests); mọi quốc gia đều tìm cách thâu đạt và phát huy tối đa quyền lực của mình để phục vụ cho quyền lợi đó. Những giá trị khác: nhân quyền, dân chủ, nhân đạo, pháp lý, v.v… chỉ hoặc là chiêu bài tuyên truyền, hoặc là lợi khí sử dụng, không hơn không kém. Trên đấu trường chính trị quốc tế, các chính khách không có được những lựa chọn mang tính đạo đức để hoàn toàn bị chi phối bởi những giá trị vừa nêu. Trong một lần phỏng vấn khi đề cập đến Toà Án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court, ICC) và vấn đề Universal Jurisdiction, ông Henry Kissinger đã nói: “ The average person thinks that morality can be applied as directedly to the conducts of the states to each other as it can to the human relations. That is not for all the cases, because sometime statemen have to choose among evils.“[21] Có thể hiểu là chính khách nói chung (cũng như chính phủ Mỹ nói riêng) không phải là người bình thường(average persons), mà là những biệt lệ (exceptionalists), và đạo đức không áp dụng được trực tiếp cho mối quan hệ giữa các quốc gia như thường được áp dụng cho các mối quan hệ nhân sinh giữa cá nhân với nhau! Thiết nghĩ đó là một câu nói đáng suy ngẫm, tiêu biểu nhất cho quan điểm chính trị Quyền lực (power politics) trong quan hệ quốc tế, rất thích hợp đem dùng để nhìn về cuộc nội chiến hiện nay ở Libya.
California 20/9/2011
© Trương Đình Trung
© Đàn Chim Việt
[12] http://www.stratfor.com/analysis/20110323-europes-libya-intervention-france-and-united-kingdom
[13] http://www.stratfor.com/analysis/20110318-egyptian-involvement-libya.
[14] http://www.stratfor.com/analysis/20110311-libyan-foreign-investment-and-foreign-policy-africa
[15] http://www.herald.co.zw/Jean-Paul Pougala.
[16] http://www.un.org/ga/search/view_doc.asp?symbol=A%2F64%2FPV.3&Submit=Search&Lang=E
[17] Blanchard, Christopher M., US Congress Report Service, August 2009.
[18] http://www.un.org/News/Press/docs/2011/sc10200.doc.htm
[20] Kissinger, Henry. On China, p.418. Newyork: Penguin, 2011.
[21] http://www.bbc.co.uk/bbcfour/documentaries/features/feature_kissinger.shtml.