Tự do ngôn luận và tự do báo chí trong đời sống cộng đồng
LTS: Thẩm phán Toà án di trú San Francisco trong bài nói chuyện tại St.Paul, Minnesota, ngày 22 tháng 7, 2012 nhân dịp kỷ niệm một năm phát hành báo Người Việt Minnesota và Ngày Truyền Thông Báo Chí Việt Nam tại Minnesota đã nói rằng, “Không ai phủ nhận là cộng đồng người Việt được hưởng hoàn toàn và được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hoàn toàn trong việc sử dụng quyền tự do ngôn luận.
Vấn đề là có những cá nhân và tổ chức trong cộng đồng muốn sử dụng tự do ngôn luận của họ để dập tắt tự do ngôn luận của những ai không đồng chính kiến với họ.
Đăng một bài phỏng vấn hay một lá thư có thể gây phẫn nộ cho độc giả. Sự phẫn nộ có thể được chia sẻ bởi rất nhiều người, và được xem là một sự phẫn nộ chính đáng.
Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lý do chính đáng để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo. Và chúng ta có muốn tiếp tục theo con đường và áp dụng những biện pháp tương tự cho đến khi tất cả chỉ còn những tờ báo đồng một tiếng nói, một luận điệu, một ngôn ngữ với một lời cảnh cáo: ai nói khác sẽ bị tiêu diệt!
Dưới đây là nguyên văn bài nói chuyện:
—————————————–
Kính thưa Quý Vị,
Khi chọn đề tài Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí cho buổi nói chuyện hôm nay, tôi chỉ nhằm mục đích chọn một đề tài thích hợp với ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm một năm phát hành báo Người Việt Minnesota và Ngày Truyền Thông Báo Chí Việt Nam tại Minnesota. Tôi không ngờ đã vô tình mở cánh cửa bước vào một vũ trụ bao la vô tận. Một biển cả mà càng đi tới, chân trời càng xa. Tôi xin giải thích tại sao tôi có cảm tưởng như vậy. 10 ngày trước đây tôi khởi sự ngồi xuống để soạn bài nói chuyện. Tôi vào Google và đánh hai chữ:”free speech”. Trên màn ảnh của máy computer hiện ra con số 63,100,000 tài liệu liên quan đến đề mục tôi muốn tìm hiểu. Con số tài liệu lớn lao này cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tự do ngôn luận và tự do báo chí.
Năm 1993, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày 3 tháng 5 hàng năm là ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới hầu cổ võ cho quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí trên toàn cầu. Thomas Jefferson, tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ công bố vào ngày 7 tháng 4, năm 1776 và là vị Tổng Thống thứ 3 của Hoa Kỳ, đã tuyên bố như sau:
“The basis of our government being the opinion of the people, the very first object should be to keep that right; and were it left to me to decide whether we should have a government without newspapers, or newspapers without a government, I should not hesitate a moment to prefer the latter. But I should mean that every man should receive these papers and capbable of reading them.” “Nền tảng của các chính quyền của chúng ta đặt trên lòng dân, vì thế quyền phát biểu phải là đối tượng được bảo vệ trên hết. Nếu phải chọn lựa giữa một chính quyền không có báo chí và một tình trạng báo chí không có chính quyền, tôi sẽ chọn tình trạng thứ hai. Nhưng tôi cần nói thêm là với điều kiện mọi người đều có cơ hội đọc báo và có đủ hiểu biết để đọc và hiểu các bài báo!” Và đó là lời phát biểu 236 năm trước đây của tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập!
Câu tuyên bố của Thomas Jefferson chỉ nhằm nhấn mạnh đến vai trò không thể thiếu trong một xã hội không có báo chí, không ngờ lại đã xảy ra trong thực tế hơn hai trăm năm sau, không phải tại Hoa Kỳ, mà là tại một quốc gia ở Âu Châu!! Đó là Vương Quốc Bỉ. Thực vậy, sau ngày bầu cử Quốc Hội Bỉ vào tháng 6, 2010 đã không có một đảng phái nào hội đủ túc số để thành lập nội các. Các cuộc thương thuyết nhằm thành lập nội các giữa 11 đảng phái đã kéo dài từ tháng 6, 2010 cho đến khi đạt được thỏa hiệp và một nội các đã được thành lập ngày 5 tháng 12, 2011. Tổng cộng nước Bỉ và dân tộc Bỉ đã có một đời sống quốc gia 540 ngày mà không có một chính quyền. Nhưng tất cả các cơ quan báo chí, truyền thông, hệ thống Internet tại quốc gia này vẫn tiếp tục trong suốt thời gian gần hai năm đó!! Đời sống quốc gia, sinh hoạt hằng ngày của người dân, các phương tiện giao thông, chuyên chở công cộng vẫn tiếp tục trong vòng trật tự cho thấy tầm quan trọng của dân trí và ý thức trách nhiệm của người công dân Vương Quốc Bỉ.
Tuy tự do ngôn luận và tự do báo chí có một vị thế quan trọng như vậy trong đời sống con người, quyền tự do này lại không phải là một quyền sở hữu, gắn liền với con người như con người có tay và chân cùng các bộ phận khác! Tự do ngôn luận quan trọng vì con người là một con vật xã hội. Khi chúng ta sống một mình cô quạnh như Robinson Crusoe trên một hoang đảo chơi vơi giữa biển cả mênh mông xung quanh không có gì khác hơn là một cây dừa lẻ loi thì quyền tự do ngôn luận không cần thiết phải đặt ra.
Theo cuộc kiểm kê dân số vào năm 2010 thì dân số Minnesota hơn 5,300,000 triệu người mà trong đó dân số người Việt có hơn 27,000 người, đứng hạng thứ 13 về dân số người Việt so với toàn quốc. Twin Cities, mà tôi thấy có quý vị địa phương dịch là Song Thành có dân số gần 2,500 người ở St.Paul và 2,000 người ở Minneapolis. Dẫu tỷ lệ dân số nhỏ so với dân số toàn tiểu bang, báo Việt ngữ vẫn là một nhu cầu cần thiết vừa để thông tin, vừa làm nhịp cầu liên lạc giữa cộng đồng người Việt, đồng thời nhằm nuôi dưỡng tiếng Việt, vốn là một nét đặc thù của văn hoá Việt Nam.
Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí được xem là đệ tứ quyền trong hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy gọi là đệ tứ quyền nhưng tự do ngôn luận, tự do báo chí lại không được quy định trong 7 điều khoản chính của Hiến Pháp. Thực vậy tự do ngôn luận, tự do báo chí được quy định trong nửa phần thứ hai của Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ:
“Congress shall make no law…abridging the freedom of speech, or of the press…” “Quốc Hội sẽ không làm luật…hạn chế tự do ngôn luận, hay tự do báo chí”
Chúng ta cần lưu ý đến kỹ thuật thảo hiến điêu luyện của những nhà lập hiến Hoa Kỳ mà các tài liệu lịch sử đều nhắc đến họ như là: the Framers of the Constitution, những con người đã gầy dựng nên nền móng khuôn khổ của Hiến Pháp. Phần lớn các bản Hiến Pháp của các quốc gia trên thế giới đều viết đại loại như: Quốc Gia công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Hay: Công Dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin theo qui định của pháp luật như điều 70 trong Hiến Pháp 1992 của Cộng Sản Việt Nam. Tu Chính Án thứ nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ qui định một cách rõ ràng và vắn tắt: Quốc Hội sẽ không làm luật…hạn chế tự do ngôn luận, và tự do báo chí.
Kỹ thuật thảo hiến của các nhà lập hiến Hoa Kỳ 225 năm trước đây đưa đến hai hệ quả song hành: thứ nhất, xác nhận ý chí của nhà lập hiến không cho cơ quan lập pháp, nghĩa là Quốc Hội Liên Bang, quyền làm luật hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí. Thứ hai, đặt nguyên tắc căn bản cho việc giải thích tính cách hợp hiến đối với những văn kiện luật pháp hay lập qui, cho dầu trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Hệ thống công quyền của Hoa Kỳ được đặt trên nguyên tắc căn bản checks and balances, kiểm soát và cân bằng. Cả ba ngành luật pháp, hành pháp, tư pháp đều có mối liên hệ hỗ tương, ngành này kiểm soát ngành kia. Thí dụ Lập Pháp có quyền làm luật, biểu quyết ngân sách, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế. Hành Pháp có quyền đề nghị các dự luật, phủ quyết các đạo luật do lập pháp biểu quyết. Tư Pháp có quyền giải thích Hiến Pháp, tuyên bố tính cách hợp hiến hay không của các đạo luật của ngành lập pháp.
Nhưng còn tự do ngôn luận, tự do báo chí vốn được xem như là đệ tứ quyền thì sao? Ngoài điều khoản công nhận tự do ngôn luận và tự do báo chí trong Tu Chính Án Thứ Nhất, không có một giới hạn hiến định nào khác được trù liệu để giới hạn hay kiểm soát quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Một sử gia Anh Quốc, Lord Acton, trong thế kỷ 19 đã từng nói:”Power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely”. Quyền hạn dễ đưa đến lạm dụng, và quyền hạn tuyệt đối sẽ đưa đến lạm dụng tuyệt đối.
Quyền lực, hay quyền hành, tự bản chất thực ra không hẳn đối ngịch với đời sống dân chủ. Vấn đề là làm sao để điều hành quyền lực như thế nào cho phù hợp với sinh hoạt dân chủ. Chúng ta đã thấy các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được giới hạn và kiểm soát hỗ tương như thế nào. Trong lãnh vực tư, chúng ta cũng thấy mối tương quan hỗ tương giữa các công ty sản xuất và nghiệp đoàn nhân công, và những giới hạn của cả hai bên bởi luật pháp và các cơ quan hành chánh. Nhưng còn tự do ngôn luận, tự do báo chí được công nhận trong Tu Chính Án Thứ Nhất thì sao?
Ai cũng đồng ý tự do báo chí là điều cần thiết cho tự do chính trị, và nơi đâu mà con người không được chuyển đạt, bày tỏ tư tưởng giữa con người với con người, nơi đó không có tự do. Nhưng nếu tự do này bị lạm dụng thì sao? Và phải chăng tự do bị lạm dụng sẽ đưa đến sự hủy diệt của tự do? Nhưng câu hỏi trên chính là vấn đề khó xử khi thảo luận về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Và đâu là ranh giới phân biệt giữa những điều có thể chấp nhận và những điều không chấp nhận được mỗi khi hành xử quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Không ai có thể nghĩ rằng qua Tu Chính Án Thứ Nhất, những nhà thảo hiến có thể chủ trương rằng tất cả mọi người dân đều có quyền tự do phát biểu không giới hạn về bất cứ vấn đề gì theo ý muốn, bất cứ ở đâu và bất cứ vào lúc nào. Thí dụ, khai gian trước toà hay phổ biến tài liệu khích dục có được bảo vệ như là một phần của tự do ngôn luận hay không? Thí dụ viết bài đặt điều nói xấu người khác, phỉ báng (libel) hay phát biểu nói xấu gây thiệt hại cho người khác (mạ lỵ, slander) có phải là tự do ngôn luận được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hay không?
Khi giải thích những vấn đề liên quan đến tự do ngôn luận và tự do báo chí, án lệ Toà Án thường đối chiếu quyền tự do ngôn luận với những quyền khác cần được bảo vệ trong một xã hội tự do dân chủ. Đó là những quyền như quyền được sống an toàn, quyền được bảo vệ trong đời sống riêng tư, quyền của những người khác trong một xã hội mà mọi người đều có quyền được đối xử bình đẳng. Khi mang đối chiếu với các quyền lợi khác, Toà Án thường đặt quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí vào một điạ vị ưu tiên, preferred position vì đây là hai quyền tự do căn bản cho đời sống dân chủ. Đặc biệt toà án có khuynh hướng bảo vệ tự do ngôn luận trong lãnh vực các phát biểu về những vấn đề chính trị.
Trong lãnh vực này, phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ trong vụ án New York Times v. Sullivan (1964) là một án lệ căn bản trong lãnh vực tự do báo chí. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán rằng giới chức chính quyền phải chứng minh là người chủ nhiệm hay chủ bút tờ báo đăng bài chỉ trích phải biết là điều chỉ trích không đúng với sự thật và người chủ nhiệm có ác ý (malice) khi đăng bài báo chỉ trích. Trách nhiệm dẫn chứng (burden of proof) này đặt một tiêu chuẩn quá cao khó cho các nguyên đơn có thể đạt được. Từ tiêu chuẩn áp dụng cho các giới chức chính quyền (government officials) lý luận của án lệ Sullivan đã dần dà nới rộng cho những người tuy không phải là giới chức chính quyền nhưng vì điạ vị và hoạt động của họ, được xem như là những khuôn mặt công cộng (public figures).
Ngoài tiêu chuẩn “preferred position”, vị trí ưu tiên, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ còn áp dụng 4 tiêu chuẩn khác cần phải chứng minh trước khi một đạo luật giới hạn tự do ngôn luận được công nhận là hợp hiến.
Tiêu chuẩn thứ nhất, luật giới hạn tự do ngôn luận phải không là một luật nhằm mục đích ngăn chận trước, prior restraint. Điều này nhằm tránh tình trạng kiểm duyệt và tiêu chuẩn này được xem như là trách nhiệm dẫn chứng khó khăn nhất trong phạm vi luật pháp.
Thứ hai, luật giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí phải có nội dung vô tư, neutral. Thí dụ, nếu một thành phố ra quyết định cấm dán giấy quảng cáo trên các cột đèn, thì quyết định này phải nhằm cho tất cả các quảng cáo, không phải cho một loại quảng cáo nào đặc biệt.
Thứ ba, điều giới hạn phải không quá bao quát, too vague, khiến cho ai cũng ngần ngại. Một đạo luật như vậy sẽ có thể gây một tác dụng mà án lệ gọi là chilling effect sẽ làm tất cả mọi người ngần ngại, chùn bước không dám hành xử quyền tự do ngôn luận.
Tiêu chuẩn thứ tư là khi một đạo luật hay một nghị định đi quá xa trong mức giới hạn tự do ngôn luận thì đạo luật hay nghị định có thể bị xem là bất hợp hiến. Thí dụ tất cả mọi người đều có thể đồng ý là trật tự và an toàn lưu thông là cần thiết cho ích lợi chung. Nhưng khi một thành phố quyết định cấm hết tất cả mọi cuộc diễn hành hay biểu tình trên đường phố thì quyết định hành chánh này có thể bị xem là bất hợp pháp. Thành phố có thể giới hạn cuộc diễn hành vào một thời gian và trên một số đường phố thì giới hạn này có thể được xem là không vi phạm quyền tự do ngôn luận.
Những tiến bộ trong kỹ thuật thông tin ngày nay, đặc biệt là Internet, cho thấy những khó khăn mà Toà Án gặp phải khi phân biệt thế nào là tự do ngôn luận khả chấp và tự do ngôn luận bất khả chấp. Khi Tu Chính Án Thứ Nhất ra đời 221 năm trưoóc đây nào đâu đã có Internet!! Ngày nay qua Internet, hệ thống liên mạng, tất cả mọi công dân bình thường đều có thể nhận được vô vàn tin tức trong đủ mọi lãnh vực và liên lạc hầu như ngay tức khắc với một số người hầu như không giới hạn mà không cần phải rời nhà của mình. Trong số lượng những tin tức thông tin này có cả những tài liệu, hình ảnh khiêu dâm, bạo hành rất có hại cho trẻ em. Năm 1995, Quốc Hội liên bang đã biểu quyết đạo luật Communications Decency Act, gọi tắt là CDA, xem việc xử dụng Internet để chuyển các tài liệu “indecent material”, xúc phạm công sĩ, là tội hình sự có thể bị phạt 2 năm tù và phạt vạ $250,000 Mỹ kim cho mỗi vi phạm.
Đạo luật CDA đã bị Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tuyên bố bất hợp hiến trong phán quyết Reno v. ACLU (American Civil Liberties Union), 521 U.S.844 ((1997). Phán quyết này được biểu quyết thuận bởi tất cả 9 thẩm phán Tối Cao Pháp Viện, với thẩm phán John Paul Stevens là tác giả thảo ra phán quyết. Reno v. ACLU là phán quyết quan trọng đầu tiên của Tối Cao Pháp Viện đối với những luật lệ quy định cách thức và nội dung các tài liệu gửi qua trên hệ thống Internet. Trong phán quyết này, TCPV đã phán đạo luật CDA bất hợp hiến vì đã không tôn trọng các tiêu chuẩn quá mơ hồ (too vague), nội dung không khách quan (content not neutral), vì đã gộp chung tài liệu khiêu dâm với những tài liệu thuộc loại khác dưới một danh xưng quá rộng “indicent material”, và sau cùng đã không tìm những biện pháp ít cực đoan hơn nhằm bảo vệ các trẻ em không được xem các tài liệu khiêu dâm.
Mặc dầu có phán quyết Reno v. ACLU, án lệ về tự do ngôn luận trong lãnh vực Internet vẫn chưa rõ ràng và TCPV và các toà án còn nằm ở giai đoạn dò dẫm trong lãnh vực mới mẻ này.
Nói chung, luật lệ giới hạn quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí có thể được xếp vào 3 loại: giới hạn về nội dung, content restriction, giới hạn về nơi chốn, place restriction, và tự do ngôn luận có tính chất biểu tượng, symbolic speech. Cộng thêm vào đó là loại phát biểu gây nên mối nguy hiểm rõ ràng và tức khắc, clear and present danger. Thí dụ giới hạn về nội dung là những tài liệu khiêu dâm. Giới hạn vì lời phát biểu có thể gây nên mối nguy cơ rõ ràng và tức khắc là trường hợp trong một rạp hát đông nghẹt có một người đứng lên hô to “cháy, cháy” tạo nên hỗn loạn. Giới hạn về biểu tượng, symbolic speech, như khi chống chiến tranh bằng cách đốt thẻ động viên. US v. O’Brien, 391 U.S.367 (1968) là một phán quyết liên quan đến phong trào phản chiến. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán rằng hành vi đốt thẻ động viên không phải là một hành vi có tính cách tự do ngôn luận được bảo vệ bởi Tu Chính Án Thứ Nhất.
Các mục quảng cáo trên báo chí, truyền hình, đài phát thanh được xếp chung vào loại commercial speech. So với political speech được luật pháp bảo vệ nhiều thì commercial speech được bảo vệ ít hơn. Nói thế không có nghĩa là các mục quảng cáo không được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ. Nhưng nếu quảng cáo sai lạc, thổi phồng quá đáng, gây nên thiệt hại cho người tiêu thụ thì lại là vấn đề khác.
Bài nói chuyện của tôi sẽ thiếu sót nếu tôi không đề cập đến tự do ngôn luận trong công tư sở, hãng xưởng. Đa số chúng ta thường hay nói: tôi có quyền tự do của tôi khi phát biểu về vấn đề gì. Điều này đúng nhưng không đúng cho nơi làm việc, work place. Nguyên tắc chung là quyền tự do ngôn luận rất giới hạn tại nơi làm việc, nhất là khi nơi làm việc là một hãng xưởng hay công ty tư, không phải công sở. Mục đích của chủ nhân thâu nhận chúng ta vào làm việc là để làm việc, không phải để xử dụng tự do ngôn luận. Tu Chính Án Thứ Nhất quy định: Quốc Hội không làm luật … hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tu Chính Án này không hề quy định là chủ nhân không được sa thải một nhân viên khi nhân viên này nói quá nhiều, không chịu làm việc!
Tôi vừa trình bày cùng quý vị về tự do ngôn luận và tự do báo chí dưới khía cạnh hiến pháp, luật pháp, trong đời sống quốc gia. Bây giờ chúng ta thử xét vấn đề trong đời sống cộng đồng. Cộng đồng đây là Cộng Đồng người Việt tại Hoa Kỳ, không phải là cộng đồng người Việt tại Twin Cities Song Thành ở đây.
Theo cuộc kiểm tra dân số thực hiện năm 2010 vừa qua thì dân số người Việt tại Hoa Kỳ là 1,548,449 người, xếp hạng thứ tư trong dân số người Á Châu. Bốn thành phố có người Việt đông nhất là San Jose, Garden Grove, Westminster và Houston.
Tôi sẽ đơn cử 4 trường hợp liên quan đến quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí trong đời sống cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Bốn trường hợp này đều xảy ra tại 4 thành phố nói trên.
Trường hợp đầu tiên là trường hợp tờ Thời Báo xuất bản ở San Jose, California. Vào khoảng đầu năm 1984, tờ Viêtnam, nhật báo đầu tiên của người Việt tại hải ngoại ra đời. Sau đó, người chủ báo tách ra làm tờ Thời Báo, phát hành 5 số một tuần, số báo ra cuối tuần có trên 80 trang. Năm 1986, số Xuân Thời Báo đang hai bài phỏng vấn xếp cạnh bên nhau, một bài phỏng vấn thẩm phán Phan Quang Tuệ, một người quốc gia, một bài phỏng vấn Nguyễn Xuân Phong, lãnh sự Cộng Sản tại San Francisco. Ngay lập tức có phản ứng chống đối tờ Thời Báo vì đã đăng bài phỏng vấn viên lãnh sự Cộng Sản. Các người chống đối tổ chức biểu tình 86 lần, kéo dài hơn 100 ngày. Ngày ngày họ kéo đến trước toà soạn tờ Thời Báo chửi rủa. Họ điện thoại đến toà báo chửi rủa. Họ làm áp lực với các thân chủ quảng cáo trên tờ Thời Báo chấm dứt quảng cáo. Họ đòi hỏi tờ báo phải công bố tên người ký giả đã phỏng vấn trực tiếp 2 nhân vật cho hai bài phỏng vấn. Tờ Thời Báo cho tới nay vẫn còn tồn tại nhưng không còn mạnh mẽ như trước.
Vụ thứ hai xảy ra gần đây tại Houston, Texas. Luật sư Hoàng Duy Hùng nộp đơn kiện cựu Đại Tá Trương Như Phùng đã phỉ báng ông qua những lời tố cáo LS Hùng đã thụt két công quỹ Fema, đã liên lạc với Toà Lãnh Sự Việt Nam tại Houston và đã làm ăn với Việt Cộng. Tin mới nhất cho biết vụ kiện đã được Toà Án bãi nại chiếu theo đạo luật Anti-Slap. Anti-Slap là một đạo luật ở Texas và ở 26 tiểu bang khác cộng với vùng Hoa Thịnh Đốn nhằm mục đích giảm thiểu các vụ kiện về phỉ báng, mạ lỵ giữa các người tố cáo và các nhân vật có khuôn mặt công chúng (public figure).
Trường hợp thứ ba lại cũng xảy ra ở San Jose. Tháng Sáu vừa qua một số người đứng ra tổ chức mời ông Bùi Tín, cựu Đại Tá Cộng Sản, đã ly khai đảng Cộng Sản và từ năm 1990 là một nhà báo sống tại Paris, đến nói chuyện. Một số người Việt tổ chức biểu tình phản đối. Xem cuộc biểu tình trên YouTube, còn thấy một người đi dự buổi nói chuyện bị một người biểu tình nhổ nước miếng vào mặt.
Trường hợp thứ tư là trường hợp mới nhất xẩy ra tại quận Cam vào đầu tháng 7 này. Báo Người Việt phát hành tại Westminster, đăng một lá thư của một độc giả đã viết “..ngày 30 tháng 4 là ngày vui mừng của dân tộc và Việt Nam Cộng Hoà là bè lũ tay sai của giặc Mỹ”! Lập tức có phản ứng ngay từ các cá nhân, hội đoàn, và ngay cả các báo khác. Chủ nhiệm của báo Người Việt quận Cam có thư xin lỗi ngay trên trang đầu, công nhận “đã phạm lỗi nặng nề nên xin lỗi toàn thể cộng đồng”. Thư xin lỗi cho biết tờ báo đã điều tra và cho nhân viên phụ trách chọn đăng bức thư độc giả nghỉ việc. Ban Điều Hành báo Người Việt Westminster đã tổ chức một cuộc tiếp xúc giữa Ban Điều Hành và đại diện cộng đồng để trình bày những biện pháp kỷ luật mà tờ bào đã áp dụng với những nhân viên trách nhiệm trong việc đăng lá thư nói trên.
Khi các nhà thảo hiến soạn thảo Tu Chính Án Thứ Nhất vào năm 1791, hơn 200 năm trước đây, họ nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của người công dân đối với với nhà cầm quyền. Tu Chính Án nhằm đến chính quyền và quy định: Quốc Hội sẽ không làm luật hạn chế tự do ngôn luận và tự do báo chí. Các nhà thảo hiến đã xem chính quyền là nguồn gốc chính đe dọa quyền tự do báo chí.
Trong 4 trường hợp đơn cử, không có một trường hợp nào có sự can thiệp của chính quyền, dẫu cho là cấp liên bang, tiểu bang, quận hạt, hay thị xã, để giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí của cộng đồng người Việt. Không ai phủ nhận là cộng đồng người Việt được hưởng hoàn toàn và được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hoàn toàn trong việc xử dụng quyền tự do ngôn luận. Vấn đề là có những cá nhân và tổ chức trong cộng đồng muốn xử dụng tự do ngôn luận của họ để dập tắt tự do ngôn luận của những ai không đồng chính kiến với họ. Đăng một bài phỏng vấn hay một lá thư có thể gây phẫn nộ cho độc giả. Sự phẫn nộ có thể được chia xẻ bởi rất nhiều người, và được xem là một sự phẫn nộ chính đáng. Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lý do chính đáng để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo. Và chúng ta có muốn tiếp tục theo con đường và áp dụng những biện pháp tương tự cho đến khi tất cả chúng ta chỉ còn những tờ báo đồng một tiếng nói, một luận điệu, một ngôn ngữ với một lời cảnh cáo: ai nói khác sẽ bị tận diệt!
Và nếu như thế thì lợi ích và mục tiêu chính đáng của Tu Chính Án Thứ Nhất có còn cần thiết nữa hay không?
Ngày 3 tháng 5 năm 2012 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức mừng ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới. Ông Ban Ki-moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và bà Irina Bokova, Giám Đốc UNESCO đã ra một tuyên bố chung có đoạn như sau: Freedom of Expression is one of our most precious rights. It underpins every other freedom and provides a foundation for human dignity. Free, pluralistic and independent media is essential for its exercise. Tự do ngôn luận là một trong những quyền quý báu nhất của chúng ta. Nó là căn bản cho các quyền tự do khác và đặt nền móng cho phẩm cách của con người. Tự do, đa dạng và độc lập của báo chí là điều tối cần thiết cho việc thực thi quyền tự do ngôn luận.
Tôi xin mượn đoạn trên trong bản tuyên bố chung làm kết luận cho bài nói chuyện hôm nay.
Xin cám ơn quý vị!
Theo Chuyển Hóa
_________________
(Thẩm-phán Phan Quang Tuệ tốt nghiệp Trường Luật Sài Gòn năm 1965, lấy bằng Tiến-sĩ Luật-khoa tại Trường Luật Viện Đại-học Drake vào năm 1985.Trước đó, từ năm 1986 đến 1988, ông là Thẩm-phán về Luật Hành-chánh rồi Phụ-tá Bộ-trưởng Tư pháp Tiểu-bang Iowa ở thủ-phủ Des Moines, Iowa. Đến năm 1995 ông được bà Tổng-trưởng Tư pháp Janet Reno chỉ-định làm Thẩm-phán Di Dân. Ông là thẩm-phán gốc Việt đầu tiên được cử vào chức-vụ này. Thân phụ ông là Phó Thủ Tướng Phan Quang Đán; trước 1975 ông là Trung Úy của Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa. Ông có một người em phi công bị mất tích trong một phi vụ ở Cam Lộ miền trung VN.)
Bài viết của ông PQ Tuệ rất hay, qua đó ông cũng thể hiện luôn quan điểm của mình về 4 sự kiện đã xẩy ra điển hình trong cộng đồng người Việt, là người cựu sỹ quan VNCH tuy nhiên ông không bênh vực những sai trái của những người từng đã cùng phục vụ chế độ cũ.
Báo chí ở đâu thì tuân thủ luật pháp ở đấy, ở Mỹ thì chấp hành luật pháp của HK là đủ rồi, tại sao lại phải sợ luật rừng của mấy người chống cộng cực đoan?
Về mặt học thuật bài viết của ông Phan Quang Tuệ không có gì sai. Tuy nhiên ông Tuệ chỉ thấy chổ giống nhau giữa các hoạt động của báo chí mà không thấy chổ khác nhau giữa môi trường và trình độ của các nền báo chí. Báo chí của xã hội Mĩ và báo chí của Cộng đồng Việt khác nhau xa lắm. Ý thức, trình độ nghiệp vụ của những ngưòi làm báơ của Mĩ và Việt lại càng vời vợi cách biệt và cái khác biệt lớn nhất, quan trọng nhất là đối tượng phục vụ.
Hoạt động báo chí của Mĩ được bảo vệ bởi hiến pháp, cả người viết báo lẫn người đọc báo, giữa đối tượng khai thác lẫn đối tượng bị khai thác tin tức…. đều bình đẳng trước pháp luật. Vì thế báo chí thì tự do nhưng họ hoạt động thận trọng, chuyên nghiệp và đầy trách nhiệm.
Báo chí cọng đồng người Việt thì không được như vậy dù những người làm báo, đọc báo và các đối tượng vẫn sinh hoạt trong nền pháp luật đó. Trước hết báo chí tiếng Việt không chảy trong dòng chính của nền báo chí Mĩ nên không được lưu tâm thích đáng của luật pháp và cả dư luận dân bản địa. Bản thân cọng đồng thì manh mún, chưa có một đoàn thể nào đủ tư cách là một thực thể chính trị đại diện cọng đồng ra những quyết định thích đáng, chỉ đạo những hành động thống nhất, có tiếng nói đủ mạnh để tạo ảnh hưởng. Đây là kẻ hở lớn nhất cho bất cứ ai có ý đồ khai thác nhằm phân hoá cọng đồng, mà báo chí là một trong những phương tiện đắc dụng. Báo chí cọng đồng hoạt động khá bừa bãi. Đa phần bài vở là chôm, cắt, trích, dịch… vô tội vạ, biên tập thì vô trách nhiệm, người đọc thì thụ động, lười kiểm chứng,
Điều khác biệt sâu sắc nhất là báo chí Mĩ thì dù thiên hữu hay thiên tả họ cũng tôn trọng đọc giả Mĩ, vì quyền lợi của nước Mĩ. Báo chí cọng đồng Việt thì nhiệu khê hơn, rất nhiều tờ báo viết bài không cần quan tâm đến cảm xúc của đọc giả, không vì quyền lợi của cọng đồng. Công việc duy nhất của họ là gây nhiễu, là tạo hoả mù, là duy trì tình trạng phân hoá trong cọng đồng càng lâu càng tốt. Họ triệt để khai thác quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của nước Mĩ để duy trì sự tồn tại của tờ báo. Trước luật pháp, trước dư luận bản điạ họ là nạn nhân, là nhà báo bị bức hiếp nhưng thực tế họ là những tên biệt kích văn hoá cực kì nguy hiểm và giảo hoạt. Thật không gì thoải mái bằng hoạt động báo chí trên đất Mĩ bằng ngôn ngữ “xa lạ” của một cọng đồng nhỏ bé để phục vụ cho một thế lực gian trá nhưng lắm tiền
Đọc báo của họ thì biết ngay căn cước của họ, không phải vì họ viết trái ý cọng đồng mà vì họ viết trái sự thật một cách trân tráo, những sự thật được các chuyên gia quốc tế đánh giá, nhân sĩ trong nước lên tiếng, dân oan trong nước phản đối, hay đôi khi là báo chí trong nước “hớ hênh” (?), thậm chí do chính những người cọng sản có lòng hoặc những nghị sĩ quốc hội còn chút tự trọng bày tỏ. Bất cứ chuyện gì họ cũng vo tròn,bóp méo để chỉa mủi dùi vào cọng đồng hay một đoàn thể tích cực nào đó trong cọng đồng. Họ bất chấp nỗi đau của cọng đồng, nhân danh tự do báo chí họ thản nhiên giày xéo lên nỗi đau mất đất, mất nước, mất quyền làm người của cả một dân tộc…
Trước những đòn hiểm ác đó cọng đồng lại trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, hoà chiến lộn tùng phèo. Thưa kiện ư ? tiền đâu lo án phí ? ai đứng đơn kiện ?. Quyên góp thì gian nan, người đứng đơn thì bị phá đám, bôi lọ, trăm sự trần ai. Mà giả như thắng họ thì sao ? được gì ? vì họ sẳn sàng và dễ dàng khai tử tờ báo này để khai sinh một tờ báo khác, lại tiếp tục đánh phá. (Tiền bạc là chuyện nhỏ. Có những tờ báo chẳng có người mua, quảng cáo cũng cực kì khiêm nhường mà vẫn thọ, người làm báo thì khá giả hơn những đồng nghiệp ở các báo khác nhiều). Trong tình thế này ngoài biểu tình, tẩy chay để bày tỏ cảm xúc thử hỏi còn có phương cách nào khác khá hơn ?. Dù vẫn biết những phương cách này đôi khi tạo cảm giác khó chiụ nơi giới trẻ, cái giới quen tự do như hơi thở nhưng lại thiếu kinh nghiệm với CS để so sánh, suy nghiệm. Đây cũng chính là một mục tiêu của họ: phân hoá giữa hai thế hệ
Nếu ông Phan quang Tuệ thật sự quang tâm đến cọng đồng thì nên đem sở học của bản thân giúp cải thiện, nâng cao sinh hoạt báo chí của cọng đồng (cả người viết lẫn người đọc), hoặc giải thích những tình huống uẩn khúc cho dân bản điạ khỏi hiểu lầm hơn là bỏ công viết bài phân bua cho một tờ báo.
Riêng với báo NV tôi vẫn ủng hộ giải pháp mở cho họ một cơ hội trở lại phục vụ cọng đồng, dù sao điều này vẫn tốt hơn là đẩy họ trở thành đối thủ của cọng đồng, trợ thủ của CS
Hoàn toàn đồng ý !
Tóm lại là các báo Việt ngữ phải ca ngợi hết lời cờ vàng, phải nói xấu về VN, thế mới gọi là tự do báo chí, đó mới gọi là nhân quyền. Nói, viết như vậy mà cũng cắm mặt mà viết, đúng là những kẻ bại não!
Thẩm Phán Phan Quang Tuệ rất “thuộc bài”! Ông còn “nói có sách, mách có chứng”, sách đây:” American Government, Roots and Reform”, tác giả, Karen O’Connor và Larry J. Sabato, ấn bản 2009, Chapter 5, Civil Liberties, First Amendment Guaranties: Freedoms of Speech, Press, Assembly, anh Petition, trang 162.
Tuy nhiên đây chỉ là thuộc phạm vi học thuật, không áp dụng được cho trường hợp báo Người Việt.
Tại sao?
1) Hẳn là báo NV biết rất rõ Hiến Pháp HK bênh vực quyền tự do ngôn luận, nghiã là bênh vực họ.
2) Hẳn là Cộng Đồng(VN) không quá dốt nát để không biết rằng, phải tôn trọng “quyền phát biểu chính kiến” cuả người khác. Nhưng tại sao họ vẫn đòi hỏi báo NV phải chấm dứt việc “phỉ báng” Cộng Đồng. Và tại sao báo NV đã phải xin lỗi, nhận rằng đã có những sai phạm “nghiêm trọng” và hứa không tái phạm?
Nếu vì trong lúc “bối rối” và nhất thời, vội vàng xin lỗi cái mà mình không phạm, thì tại sao NV không rút lại lời xin lỗi, hay đơn giản đăng bài viết cuả ông Thẩm Phán để “dạy” cho Cộng Đồng một bài học?
Hoá ra là có những cái còn “cao” hơn Hiến Pháp, “mạnh” hơn quyền Tự Do Ngôn luận, mà đến nỗi mấy ông bà Thẩm Phán cuả Toà Tối Cao cuả nước Mỹ cũng không giải quyết đến nơi đến chốn được. Đó là:
1) SỰ SỐNG CÒN, bất kể vì mục đích gì!
2) LUƠNG TÂM và LIÊM SỈ, nên một số những người chủ trương báo NV nhận ra rằng, trong số họ, có những kẻ “lợi dụng” quyền tự do ngôn luận để phỉ báng một Cộng Đồng mà mình sống dựa vào, nên họ không thể nhắm mắt cãi chầy, cãi cối hay mang Hiến Pháp ra để che đỡ!
Hoá ra là như vậy!!!
Cùng ông thẩm phán:
Hãy nói thẳng vào vấn đề cụ thể mà ông đặt ra là việc liên hệ tới báo “Người Việt”. Trích: “Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lý do chính đáng để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo.”
Tôi xin khẳng định là “yes” với vài điều khác với câu ông đặt: cộng đồng VN tị nạn có quyền làm mọi việc, kể cả tẩy chay, biểu tình, kiện tụng, nhưng áp lực buộc đóng cửa hoặc đe dọa hành hung (physical threat) và gây tổn thương tinh thần (mental abuse) thì không.
Báo chí là phương tiện để ngôn luận được tự do biểu lộ, nhưng nó có căn bản là một sản phẩm (a product) của một tổ chức hay doanh nghiệp nào đó và người chủ phải có trách nhiệm với sản phẩm. Trong báo chí, nhà báo có quyền (rights) và khả năng (capabilites) để kiểm soát và thanh lọc những gì đăng tải trên sản phẩm của họ, kể cả quyền không làm việc đó – nếu họ tuyên bố rõ ràng sự khác từ về trách nhiệm này.
Vì các sản phẩm đều có nhóm khách hàng đối tượng (dù có thể là cả thế giới), nó có trách nhiệm với đối tượng đó, ít nhất là một tuyên bố khác từ trách nhiệm hoặc đề phòng (warning) cho người tiêu thụ.
Vì thế nếu một báo đã tự quảng cáo là phục vụ cộng đồng VN ở Mỹ (như ở quận Cam, Minnesota, SJ, v.v..) mà hầu hết hoàn toàn đều là người tị nạn CS, thì những sản phẩm có tính cách có thể gây tổn thương hay tra tấn tinh thần (mental torture or abuse) là sự vi phạm đến nhân nguyền của người tị nạn (theo Universal Declaration of Human Rights, Article 5: “No one shall be subjected to torture or to cruel, inhuman or degrading treatment or punishment.”). Tôi không là chuyên gia luật nhưng tôi tin là có những điều khoản về vấn đề này trong luật pháp HK.
Một điều kiện thiết yếu có đủ là sự kiện bị hành hạ đã là sự thật (actual events) xảy ra cho đa số dân tị nạn, không phải một sự tưởng tượng (imaginary) hay chỉ suy đoán là thế (assumptive)!
So sánh với trường hợp người da đen và KKK, hoặc Do Thái và Nazis cũng mang đến kết luận tương tự.
Ngay cả sự tự do phát biểu (self-expression) cũng có những điều kiện có thể hạn chế nó: hình ảnh Bin Laden chẳng là gì cả, nhưng nếu anh mặc áo có ảnh hắn đi lại thì sẽ có nơi họ kiện anh (ở New York chẳng hạn) vì gây tổn thương tinh thần cho họ và họ sẽ có phần thắng rất cao.
Do đó, người tị nạn ở quận Cam hoàn toàn chính đáng để khiếu nại và biểu tình. Khi sự trung thực của chủ nhiệm với vấn đề kiểm soát, tái phạm không còn đáng tin cậy, họ cũng có quyền tẩy chay và kiện tụng.
Phải thế không ông thẩm phán?
Ít nhất, báo NV sẽ phải tuyên bố công khai mục đích chấp nhận mọi ý kiến quốc-cộng và sẽ không được dùng “cộng đồng tị nạn” trong mục đích khách hàng đối tượng. Những người đã được “miễn dịch”, không bị “hành hạ” sẽ tự do mua, đọc báo NV! (Hoặc tìm đến DCV, v.v.. như tôi :-) )
Có điều, tôi không hiểu lý do ông lại mang nước VN làm thí dụ về tuyên bố tự do ngôn luận trong bài nói chuyện của ông?!! Trích: “Phần lớn các bản Hiến Pháp của các quốc gia trên thế giới đều viết đại loại như: Quốc Gia công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Hay: Công Dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin theo qui định của pháp luật như điều 70 trong Hiến Pháp 1992 của Cộng Sản Việt Nam.”
Sao ông không tiếp theo đó để xác định thực thể về quyền tự do ngôn luận ở VN – thay vì chỉ nói qua như thế? Có người có thể hiểu lầm (!) là ông ám chỉ VN cũng thực thi tự do ngôn luận như Mỹ, trong khi ông đặt vấn đề sự kiện báo NV mà tôi nghĩ là on-behalf báo NV, dù rằng câu hỏi ông đặt cũng chính đáng.
Với tư cách cựu trung úy VNCH và là một thẩm phán trong chính phủ Mỹ, một người có hiểu biết rộng như ông hẳn ông phải hiểu rõ sự đau khổ tinh thần và thể xác người tị nạn đã chịu, và dù ông có thể có khả năng về trí thức cũng như tinh thần để đàm thoại một cách dễ dàng, rộng rãi hơn với mọi người từ mọi phía, tôi không nghĩ đa số người tị nạn có cùng khả năng đó! Vì vậy, ông khiến tôi khó hiểu (puzzled) trong bài này, vì tôi cho rằng câu hỏi ông đặt tôi nghĩ nó không quá khó giải quyết theo đúng tinh thần luật HK, như tôi đã trình bày!
Nếu có gì sai, xin ông giải bày cho mọi người hiểu. Cám ơn ông.
Xin sửa “miễn dịch” thành “miễn nhiễm” thì đúng ý tôi hơn … như trong “miễn nhiễm dịch tả CS” chứ không phải “miễn dịch quân vụ”.
Hoàn toàn đồng ý. Tài liệu về vụ báo NV cùng ô thẩm phán này có tại blog Chúng Tôi Muốn Tự Do. Ông TP phải nhớ cộng đồng này chỉ có một chiều: đó là chiều chống cộng. Mọi sinh hoạt có nhiều sắc mầu khác nhau nhưng nằm trong chu vi đó. Tôi thách ông kêu gọi báo Mỹ ca tụng một tên khủng bố nào đó vì nó đã tham gia vụ 911, nhân danh tự do ngôn luận. Tôi cũng thách ông kêu gọi báo Mỹ, nhân danh tự do ngôn luận để ca tụng một tên nào đó bước vào nhà thờ Do Thái với hình xâm Đức Quốc Xã. Ông là thẩm phán , con ô Phan Quang Đán nhưng lý luận của ông đã phản bội lý tưởng người tị nạn.
Tự do xuất phát từ quyền lực. Người có quyền càng nhiều, tự do càng lớn. Muốn cho tự do không đối đầu với nhau phải có hệ thống giáo dục đạo đức xã hội thật tốt….
Trước hết muốn nói tới tự do ngôn luận thì phải có nhận định về TỰ-DO vì tự do ngôn luận (TDNL) được bao hàm trong cụm từ tự-do. Cụm từ này có hằng hà sa số ý nghĩa vì thế hết sức trìu tượng. Bao nhiêu luật bao quanh tự-do để hỗ trợ và hạn chế. Xin mạn phép lấy thí dụ ở Saigon ai cũng thấy ” CẤM.. BẬY tại đây”, hơn nữa chạy xa lộ US thường có những REST AREA, nếu chẳng may dừng xetrên đường dùng bờ cỏ cũng vi phạm, bao nhiêu tự do bị hạn chế, vì thế TDNL cũng không thể có ngọai lệ như đã có những áp dụng qua cụm từ tự-do. Hiến pháp US có điều khoản TDNL không có hạn chế, từ đó nhiều nơi trên thế giới triển khai và ứng dụng cũng khá linh động. Người viết, hưu rồi, nên cũng đọc nhiều báo Việt, trường hợp báo NV với bài liên quan ngày 30-4, hẳn nhiên tác gỉa SH có quyền viết và nhận định, thuộc quan điểm cá nhân, không ai có thể phản đối, phản đối là vi phạm TDNL. Tuy nhiên đem bài viết lên trang báo là PR nhất là vùng trung tâm người Việt tỵ nạn CS lại hơi khác, vì như thế là vỗ mặt một tập thể hay nói khác đi là xúc phạm. Tự do không cho phép xúc phạm người khác hơn nữa đây là một tập thể. Nhân tiện vì qúa nhiều thì giờ nên đang sưu tầm để đề bạt tới các vị dân cử điạ phương về chuyện VỆ SINH NGÔN LUẬN (hygienic speech, trong sạch hóa ngôn luận) tránh những xỉ vả vô cớ nhất là chuyện thường được gọi là chụp mũ ( dù đã vào qúa khứ). Gần nửa thế kỷ, chuyện đã qúa lâu với một đời người nhưng không gì có thể lâu với giòng lịch sử. Xin hãy công bằng trong mọi nhận thức và quan điểm.
Tự do ngôn luận đúng là một trong những quyền căn bản của con người – nếu không Thượng đế đã không tạo cái miệng để nói – và cần phải được tôn trọng.
NHƯNG, sư tự do này được sử dụng như thế nào thì vẫn là vấn đề tranh cãi, thử nghiệm trong nhiều ngàn năm nay. Các ngôn từ giải thích của luật vẫn chỉ là tương đối.
Đến chừng mực nào thì phải giới hạn ?
Nói đến giới hạn thì sao còn gọi là tự do ?
Đến như vụ wikileaks vẫn chưa có đáp án.
tại Westminster, đăng một lá thư của một độc giả đã viết “..ngày 30 tháng 4 là ngày vui mừng của dân tộc và Việt Nam Cộng Hoà là bè lũ tay sai của giặc Mỹ”(PQT)
Cái gì cũng vừa thôi chứ, thưa ông thẩm phán. Mỹ tự do thật, ông thẩm phán có dám mặc chiếc áo có hình bin Laden với hàng chữ : “Tiêu diệt bọn Mỹ” đi ngoài phố xem người dân Mỹ sẽ phản ứng ra sao? Hoặc, ông cầm biểu ngữ có 3 chữ K đến khu ở của người da đen thử coi, chuyện gì sẽ xảy ra?
Ở đây không phải là quyền tự do bày tỏ nữa rồi, ở đây đụng chạm đế tình cảm bị tổn thương của dân chúng đó thưa ông!
Ông này chỉ chuyên nghiên cứu sách vở luật di trú, thâm nhập thực tế các lĩnh vực khác như lịch sử, xã hội, giao tế v.v… hơi yếu.
HIỂU SAI VÀ HIỂU ĐÚNG
Tự do báo chí và tự do ngôn luận là hai trong số những quyền tự do cơ bản nhất của con người và xã hội loài người. Đó là nguyên lý bao quát, bất di dịch. Ai hiểu và làm theo điều này, đó là cá nhân văn minh, xã hội văn minh. Nếu không phải thế thì ý nghĩa và giá trị hoàn toàn ngược lại. Nhưng hiểu tự do là hiểu về nguyên lý chỉ đạo xã hội, không phải hiểu theo ý nghĩa càm xúc mỗi lúc của quần chúng ô hợp, không chọn lọc. Có nghĩa cách hiểu mọi điều trên đời còn tùy theo nhận thức, tầm nhìn, đạo đức, ý thức lành mạnh của mỗi con người, không phải ai cũng hiểu giống nhau vể mọi sự việc.
ĐẠI NGÀN
(26/712)
Làm gì có cái gọi là “qcôh” hả ông bạn? Ông bạn đứng ở vị trí nào mà dám gọi một người dân là ô hợp? Ngay cả TT Obama cũng còn tự xem mình là một người công bộc ( public servant) nghĩa là đầy tớ cho dân chúng thôi. Cái quan niệm xem thường người dân này của bạo chúa độc tài quá lỗi thời và quá kém văn hóa. Chỉ có trong thành phần cầm bút nô lệ trong các xã hội như Bắc Hàn, TQ hay VN, Libya trước đây thôi. Lúc nào cũng suy tôn bạo quyền để kiếm chút… cháo cặn!
THAN ÔI
Than ôi ông Thiến Heo tri thức cỡ nào mà cũng làm ra vẻ trên diễn đàn công khai khi chỉ đọc duy đoạn ngắn này của người ta viết mà ông cũng không hiểu bao quát được hết để đến nỗi bắt bẻ theo kiểu trẻ con :
“Nhưng hiểu tự do là hiểu về nguyên lý chỉ đạo xã hội, không phải hiểu theo ý nghĩa càm xúc mỗi lúc của quần chúng ô hợp, không chọn lọc. Có nghĩa cách hiểu mọi điều trên đời còn tùy theo nhận thức, tầm nhìn, đạo đức, ý thức lành mạnh của mỗi con người, không phải ai cũng hiểu giống nhau vể mọi sự việc”
Đọc người mà không hiểu thì còn “lý luận” cái mẹ gì nữa phải không ông ? Bởi tôn thờ “quần chúng” kiểu nhắm mắt nhắm mũi tôn bừa mới là thứ hạ đẳng. Trong khi đó quần chúng là khái niệm bao quát toàn xã hội, có vô số thành phần, vô số hạng người thượng vàng hạ cám đều lẫn lộn trong đó. Mọi loại “quần chúng” hạ tiện đều không đáng nói trong xã hội nói chung. Sự phân biệt giữa quan điểm trong sáng và quan điểm mị dân cũng chính phát xuất từ chỗ này. Ông Thiến Heo nên chỉnh lại cái đầu óc còn quá yếu kém lô-gích của mình thì hơn.
NGÀN KHƠI
Nói lại đi, tôi đâu cần đọc ông, Tôi góp ý cho bài chủ thôi. Còn ông mới cần đọc tôi chứ, phải không … ông. Ha ha ha!
TÊN THIẾN HEO
Tên gọi là nickname Thiến Heo này chỉ thuộc loại mạt hạng của thứ chống cộng cực đoan vì quyền lợi riêng, vì thị hiếu cá nhân, vì ân oán gian hồ cá nhân nào đó với cộng sản. Chẳng phải là người VN thật sự có nhận thức, có tình cảm yêu nước trong sáng, có cái nhìn chung vì quyền lợi của đất nước, dân tộc. Những thứ mạt hạng kiểu đó cũng chỉ giống như mọi loại mạt hạng khác dùng chúng có tự xưng mình là gì. Bởi cái chính ngày nay là lực lượng cả nước đối phó lại hiểm họa xâm lăng toàn diện của TQ, không phải sự bày tỏ tính cách cá nhân rách nát, ô uế kiểu như tâm địa của tên Thiến Heo.
NGÀN KHƠI
(29/7/12)
@ Me Xừ Cõi Trên Ngàn
Ông viết lung tung quá, đang góp ý bài chủ này ông lại chạt xọt qua tới bên Tàu lận he! Cở ông thì thằng Tàu nó búng nhẹ là té nhào không kịp thở. Mới sơ sơ đã nói năng kém văn hóa rồi làm sao nói chuyện tiếp hử? Ha ha ha!