Hạt ươm hư [Kết]
Phần 1, Phần 2, Phần 3, Phần 4, Phần 5, Phần 6, Phần 7, Phần 8, Phần Kết,
Chương 24
Buổi sáng, sau khi gặm mấy cái đầu cá luộc chấm với muối mặn chát, Tuấn dắt năm con bò vào sâu trong những lùm cây trên đảo đá có cỏ mọc lưa thưa nơi đầu làng Bình Ba, cho chúng kiếm cỏ ăn.
Khi xưa, không biết người Pháp đến Bình Ba trước dân làng chài hay sau, mà chọn nơi trú đóng cho quân đội Hải quân đầu dãy đảo chỉ toàn là đá.Những người lính Hải quân VNCH kế tiếp trú đóng, đã đào những tảng đá lên, gieo trồng một vài thứ hoa và cây cối nay đã trở thành những cây cổ thụ.Những loại cây không tên và không trái tỏa mát cả khoảng trời gần cái cảng sâu hun hút; nơi ấy, hàng đêm những con cú có bộ lông xù và đôi mắt to, trú ngụ kêu rúc đến ai oán.
Những bụi bông giấy đỏ vàng, những cánh hoa trúc đào đỏ biếc cũng làm không gian trên ốc đảo bớt khô khan.Cuộc sống của những người lính nơi biên đảo xa xôi, cách xa phố thị cũng vơi đi phần nào nổi cô đơn trống vắng, khi nhìn những đóa hoa nở rực vào những tháng hè. Còn những mùa đông u ám trôi qua như thế nào, Tuấn chưa hình dung nổi khi anh chưa kinh qua trên cái đảo vắng vẻ và quạnh hiu này.
Dân làng chài Bình Ba cũng sinh hoạt về đêm như những công an biên phòng. Đêm đêm, những chiếc xuồng con con, những cái thúng chai tròn tròn trôi dật dề trên sóng nước câu mực và đánh bắt những loại hải sản nhỏ trong lòng vịnh Cam Ranh. Những chiếc tàu lớn đi ra biển xa ngoài trùng khơi dậy sóng, bị kiểm soát gắt gao khi ra khơi, bằng những công an biên phòng được gửi kèm đi theo kiểm soát…
Tuấn thả những con bò cho chúng tự tìm cỏ ăn như thường lệ. Nhìn những chú bò ốm đói trơ mảnh xương sườn, anh cảm khái cho kiếp súc vật. Giữa con người và con vật, trong một chế độ đang tự hủy hoại, bằng một chính sách tự cô lập để sinh tồn, chung quanh một thế giới đang mở dần lớn ra theo nhịp độ ánh sáng văn minh. Họ đang giương cao ngọn cờ cách mạng bách chiến bách thắng vẫn còn âm vang của thời đánh Pháp và Mỹ, sao thật thảm thương!
Cái ăn cho con người và con vật, sau chiến tranh là một bài toán nan giải cho một chính sách không cởi mở và ép dân đến đường cùng. Hay đó là một chính sách đang được thực thi theo chủ trương của người CS?
Nhiều người đã cho rằng như vậy.
Con người khi đói, thì sự phản kháng sẽ kém phần mãnh liệt, vì chỉ nghĩ đến cái ăn, sao cho no bụng, từng ngày nối tiếp nhau. Khi sự chịu đựng không còn nữa, người người chỉ nghĩ đến con đường vượt thoát ra khỏi một đất nước đã sinh ra mình. Đến cái cột đèn vô tri, vô giác còn muốn ra đi, huống chi con người! Người ta đồn thế.
Trăm, ngàn năm sau, miệng bia để lại vẫn là sự não nề thê lương cho một dân tộc có bốn ngàn năm văn hiến…
Ngoài xa kia đường ranh lãnh hải của biển, có là: “bên kia biên giới… là nhà”, mà sao nó hấp dẫn đến đổi, mọi con dân Việt Nam sẵn sàng đem cái mạng của họ ra thử thách với trùng khơi? Người ta vẫn đi, ùn ùn đi… dù hằng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn những xác chết trôi dạt trở lại nơi chôn nhau cắt rốn của họ, mà Tuấn đã từng chứng kiến và ghê tởm nơi lòng vịnh Cam Ranh sâu ghê gớm này.
Những thây người mặt mũi, tay chân loang lỗ, vữa ra vì bị cá rỉa, không cho anh cơ hội nhìn, để xác định đâu là thằng Chổng, hoặc giữa đàn ông và đàn bà khi chết đuối, như anh từng biết khi còn ở Diên Khánh thời chiến tranh.
Phóng tầm nhìn ra đại dương xa tít, mù thẳm một màu xanh đen của sóng nước, Tuấn cảm nhận, giá trị của con người sao nhỏ nhoi đến thảm hại với đất trời và đại dương bao la. Tại sao, con người lạnh lùng và tàn bạo đến hợm hỉnh chừng ấy, khi đã nhìn thấy Trời, Biển đã ngàn năm kinh qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử hưng vong, qua nhiều triều đại thịnh suy, để lấy đó làm bài học trị quốc.
Tuấn đi lên một mỏm đá khô và nóng. Anh dựng súng trên vách đá, ngồi xuống nhìn ra đại dương xanh đen, mù khơi và vĩ đại không có dấu chấm của điểm chân trời. Nơi đó là đâu.Bốn phương tám hướng như trong kinh nhà Phật dạy?
Biển sâu lắm. Nó rộng lớn vô cùng tận. Nhưng lòng dạ (nhỏ bé) của con người cũng sâu không kém gì biển. – Nó mênh mông, vô thủy, vô biên… không thể đo, đếm, dù nhỏ hơn biển.
Tuấn ngồi xuống trên mỏm đá xù xì. Anh khoan thai xếp hai chân bắt chéo nhau kiểu kiết bán già, hai tay đặt lên hai bắp vế chân. Anh nhìn về phía chân trời của biển, nơi đó, ánh hồng quang đã bắt đầu lên từ từ, rừng rực đỏ, như một cái thúng nhỏ, rồi dần dần lớn. Một vòng tròn lan dần, lan dần màu đỏ óng ánh trôi lênh đênh trên sóng nước dập dềnh.
Tuấn hít thật sâu không khí thấm đẫm tươi mát của biển, vừa bừng mở của một buổi sáng nơi ốc đảo xa xôi, vào buồng phổi, đưa xuống tích tụ nơi đơn điền. Tuấn hít, thở… bằng những động tác đối nghịch thường hằng của con người.
Bụng anh phình to ra khi hít không khí vào. Anh giữ không khí thanh thoát, tươi mát của buổi sáng ấy, nơi đơn điền trong vài giây, như thưởng thức một món ăn ngon thú vị…
Và, Tuấn từ từ thở ra. Bụng anh thóp vô thật sâu, đẫy trượt điển lên, qua hai lỗ mũi, đưa thanh điển tung lên não bộ, và giữ lại nơi đó. Anh đưa hai ngón tay cái, bịt chặt hai lỗ tai, hai ngón tay trỏ bấm vào hai sợi gân trên hai màng tang và thở ra hít vào thật sâu. Cứ thế, Tuấn ngồi sâu cả giờ, như đã… một mình trên ốc đảo, mỗi sáng sớm, khi dẫn năm con bò cho chúng kiếm cỏ ăn, từ khi về trú đóng làm kiếp lính thú nơi cái đồn hoang vắng này.
Ôi, một lắng dịu tinh thần! Anh làm một vài động tác của thiền mà khi còn trẻ anh chẳng bao giờ tin, vì lý trí chưa đủ khôn để hiểu về đời và đạo. Cũng có thể, khi chưa cùng mạt tận, nó chưa hẳn là niềm tin!
Mọi thứ đều tịnh lắng đến trong sáng.
Cỏi ta bà ngũ trượt trong anh, dần dần biến mất, ở đó là sự thanh thản của tâm hồn, không còn những ý niệm tranh chấp và hận thù.
Có thật không, khi dòng sống với những tranh chấp cuồn cuộn trôi như thác đổ, cuốn lấp mọi thứ, như rác rưởi cuộc đời, một nơi mà quyền con người bị đánh mất bởi một chủ nghĩa ngoại lai?
Tuấn nhớ lại tất cả…
&
Buổi trưa hôm sau – ngày, Hưng bị bắt về đồn, sau hai tuần phép vô kỷ luật, như ông thiếu tá trưởng đồn thông báo. Tuấn đang lom khom dắt đàn bò xuống những ghềnh đá cao giữa đảo, thì nghe một loạt súng chát chúa vang lên. Tuấn bỏ đàn bò, ôm súng chạy nhanh về đồn.
Dưới sân cement to lớn của căn lầu, tân binh Hưng ôm cây trung liên RPD, bắn liên tục mấy phát nữa. Hắn gào to:
- Đồng chí thiếu tá trưởng đồn đâu, hả hả, ra… trình diện! Không, tôi bắn chết mẹ đồng chí và cả cái đồn chết tiệt này. Ra, ra đây…
Bọn lính đứng im thin thít sau cánh cửa, dõi mắt nhìn phòng ông thiếu tá đóng chặt, chờ đợi.
- Thằng Hưng điên thật rồi! – Tuấn nghĩ thế. Anh biết, tánh khí Hưng từ khi còn ở quân trường.
- Đ.m… Tôi đếm đến ba tiếng, mà không mở cửa, tôi vào đấy nhé, thiếu tá!
- Một… hai…
Cánh cửa đôi bung ra. Gã Quang, đi ra trước với cây P.38 đeo bên hông.
- Mày bỏ súng xuống. Không, tao bắn! – Hưng ghì cây RPD vào bụng ra lệnh.
Gã Quang riu ríu bỏ cây P.38 xuống bực thềm. Sau gã, là ông thiếu tá trưởng đồn, bước ra mặt tái mét.
Giọng lão run run.
- Từ từ, đồng chí nì. Có gì chúng ta bàn thảo lại, đâu lại hoàn đó.
- Từ từ… cái con buồi! Ông là lính, tôi cũng là lính.Ông là người, tôi cũng là người.Là người, ông cũng biết thấm khi đói no. Tôi cũng vậy! Tôi và ông cùng có tiêu chuẩn mức độ ăn uống, do nhà nước cấp phát khi thi hành phận sự người lính. Tại sao, ông bỏ đói tôi?
- Ôi giời! Cậu đang bị án phạt, mà lại đòi hưởng quy chế nhà nước à?
- Điều lệ đâu, cho tôi coi! Mẹ, ông nên biết, tôi đã từng thấy nhiều tân binh bị giam vì kỷ luật khi còn ở quân trường, họ vẫn có tiêu chuẩn ăn. Tôi nói cho ông biết: thằng lính miền Nam, nó khác thằng lính ở miền Bắc đấy nhá. Nó dám làm và dám chịu, khi chính bản thân nó tự thấy mình không sai. Không như, những thằng lính Bắc, chỉ hùa theo đám đông, vì bị nhồi sọ quá lâu. Hơn nữa, tôi cũng nói cho ông biết: những thằng lính bị đì ra cái ốc đảo này, coi như đời đi đoong như ông thôi. Phải không?Đây là đảo kỷ luật đám lính bất tuân sự lệnh của quân đội mới bị đì ra đây.Ở đây, thằng nào… lỳ, thằng đó làm cha, làm chúa đảo.Tôi biết, ông hiện là chúa đảo. Ông thu tóm mọi nguồn khai thác thủy sản để thủ lợi riêng cho phe cánh. Bọn miền Bắc các ông, coi bọn lính miền Nam chúng tôi, như một thứ tôi tớ để phục vụ các ông. Ông cho bọn lính trên đảo này, ăn những gì… ông nghĩ tôi không biết, vì mới về à?
- Đồng chí bớt nóng mà nì!
- Nóng, nóng… cái đầu buồi! Lương lính bốn đồng một tháng, chưa đủ ê chề hay sao, mà ông còn ăn trên xương máu chúng tôi. Ông trả một ngày ăn cho tôi không, hả hả… – Hưng dí cây trung liên vào ngực lão trưởng đồn. Gã Quang định che người bảo vệ ông thiếu tá, Hưng thúc cái đầu ruồi của súng vào bụng gã.
- Mày có tin tao bắn mày không, Quang? Tao đã nhịn mày trên đoạn đường hơn trăm cây số về đây rồi nhé. Lui ra, thằng chó!
Chưa bao giờ, Tuấn thấy Hưng liều mạng đến mức độ này.Anh, Hưng và thằng sinh viên từng bị kỷ luật nhiều lần, nhưng chưa bao giờ Tuấn thấy Hưng giận dữ đến liều lĩnh như thế. Đây là thế một mất một còn với Hưng.
Làm sao Hưng biết rõ mọi sinh hoạt trên đảo đá khi về đây mới hơn một ngày? Và ai, đã mở cái cọng dây kẽm cứng cáp bên ngoài “container”, để Hưng thoát ra?
- Ai???
Đó là một dấu hỏi cho cả Tuấn, lão thiếu tá và đám lính bị kỷ luật bị đì ra đảo! Mọi người nhìn nhau đặt dấu hỏi.Bọn lính miền Nam, nhìn nhau hả hê.Lão thiếu tá bảo nhỏ.
- Thôi, đồng chí vào đây. Tôi xin kiểm điểm sai sót. Chúng ta bàn lại chuyện nhẻ!
Hưng lưỡng lự giây lát, rồi bước vào phòng bộ chỉ huy. Nữa giờ sau, hắn đi ra bình thản như chưa hề xẩy ra chuyện gì!
Sau đó, Hưng được phân công về đội tàu tuần duyên, chuyên kiểm soát trên biển để bắt những đám người vượt biên. Một công tác, chẳng một anh công an miền Nam nào được vinh dự đi cùng thủ trưởng!
&
Buổi sáng chúa nhật được nghỉ, Tuấn thả vội những con bò cho chúng đi ăn cỏ. Anh trở vội về đồn đi loanh quanh dọc bờ cầu cảng.Đã ba tuần trôi qua, khi anh đặt chân đến ốc đảo này. Điều Tuấn chú ý nhất, là hai con tàu khá lớn của đồn công an đậu nơi bến cảng. Nhiệm vụ của Tuấn trực thuộc bộ hậu cần, nên anh chưa có cơ hội bước xuống con tàu từ khi về đồn.Tuấn ao ước được bước lên chiếc tàu lần nữa, (sau từ lần đầu tiên được chở về đây). Anh mong ước, khát khao đến nóng chảy cả tâm can sẽ được cầm bánh lái của con tàu, cho một ngày nào đó, trên một hải trình xa xôi. Tuấn bước xuống bến tàu, nhìn những người đàn bà và đám con nít đang ngồi câu mực vào buổi sáng sớm. Anh chăm chú nhìn và thấy là lạ. Lần đầu trong đời, anh thấy một lối câu ngược ngạo! Móc câu không mồi, bốn cái ngạnh sắt cạnh cong cong, được nhử nhử sau đuôi con mực. Những thằng bé, lấy cái dầm bơi đập phía trước những cái vòi đang tua tủa của mực, chúng bơi ngược về sau bằng bộ vi mềm mại. Những con mực phun ra một thứ nước màu mực đen như hăm dọa “đối phương”. Thế là chúng mắc bẫy, bị móc dính vào lưỡi câu nhiều ngạnh. Thì ra loài mực bơi ngược, không như những loài sinh sống dưới biển cả!
Tuấn đang ngạc nhiên, thích thú thì nghe tiếng gọi.
- Tuấn ơi! Lên đây mình nhờ chút. – Thăng đứng sau tay lái của chiếc tàu hai “lốc” đại, đang nổ máy vẫy tay gọi.
Tuấn lần bước, lập cập níu thành tàu leo lên. Thăng nói.
- Hôm nay, chúa nhật nghỉ. Mày đi với tao về Nha Trang chơi?
- Tôi có được quyền đi à?
- Dĩ nhiên. Chúa nhật được nghỉ mà. Nhưng tao, đang đi công tác đây, có bồi dưỡng. Nếu cu cậu thích, về nhốt mấy con bò rồi ta đi.
&
Lần đầu tiên trong đời, Tuấn được cầm bánh lái con tàu, vượt trùng khơi dậy sóng, sau mươi phút Thăng dạy anh cách điều khiển con tàu. Và cũng là lần đầu tiên, Tuấn biết thế nào là bán đảo Cam Ranh, nó to lớn và quan trọng đến dường nào trong thời chiến tranh leo thang Nam Bắc, qua người Mỹ trú đóng. Vị thế của vịnh Cam Ranh quan trọng không những rất sâu, mà nó chỉ có một con đường độc nhất vào lòng vịnh, với hai bên là những những ốc đảo rãi rác chăng kín lối vào, tạo thành một cái Cổng để tàu bè đi vào. Như một cái cổng (hoặc cửa) dĩ nhiên, hai bên là hai cây cột khổng lồ. Đó là hai Cửa Lớn và Cửa Nhỏ. Cửa Lớn nằm phía bên kia Ba Ngòi kéo dài ra, nay Hải quân CSVN trú đóng. Cửa Nhỏ nằm ngay làng Bình Ba, nay do Công an biên phòng cùng quân đội Nhân dân canh gác.
Việt Nam nằm dọc bờ Thái Bình Dương, vì thế, tỉnh thành nào cũng kề cận biển và vô cùng đẹp nhờ thiên nhiên ưu đãi.Vịnh Cam Ranh cũng thế. Nó như một cái lòng chảo được vây tròn, kín kẽ bao bọc ngoài đường biên, từ Thái Bình dương đi vào cái cổng vĩ đại có hai Cửa Lớn và Cửa nhỏ. Dường như, sự ưu đãi của thiên nhiên, cũng có cái giá phải trả của nó: Cam Ranh là con bài mà mọi quốc gia trên thế giới đều chú ý đến, trên thương trường lẫn chính trị, nếu muốn thâm nhập vào lãnh thổ của các nước Á châu Thái Bình Dương.
Đây là sự may mắn hay đại họa cho một dân tộc nhược tiểu ở Đông Nam Á, như VN?
Tuấn rú ga xăng, lượn một vòng tròn lớn từ Cửa Nhỏ qua Cửa Lớn, để nhìn cho rõ hơn vùng biển đảo của Tổ Quốc, trên đầu những ngọn sóng bập bềnh bao la.
- Về thôi Tuấn ơi! – Thăng gọi.
Tuấn giảm ga xăng, trực chỉ Bình Ba.
Trong ca-bin tàu cơ man nào là: đồ ăn, quân dụng và cả đôi lợn do Tỉnh đội cung cấp, để mừng ngày chiến thắng 30 tháng 4 sắp tới.
Nhìn những thức ăn khô và đôi lợn khao thưởng cho ngày 30/04, Tuấn chợt cảm khái vô vàn. Bao nhiêu người vui và bao nhiêu người đau khổ cùng tận, trong ngày lịch sử này?Dân tộc VN, hình thành từ thời sơ khai, cổ đại đã là nổi buồn day dứt. Vừa mới thành hình từ trứng, năm mươi đứa con lên núi và năm mươi đứa con xuống biển, chia lìa Cha, Mẹ đã là điềm báo không lành cho thế hệ nối tiếp!
- Anh Thăng này.Anh nghĩ gì về ngày 30 tháng Tư?
- Cậu hỏi gì. 30 tháng Tư ư?
- Ừ. 30 tháng Tư!
- Lúc đó, mình vui. Đất nước hòa bình, chấm dứt chiến tranh.Ông già mình làm Xã trưởng, bảo mình đi vào quân đội bảo vệ Tổ quốc, mình đồng ý ngay. Nhưng khi tham gia vào một guồng máy, mang nhiều bí mật tính quốc gia, mình dần thấy, những cái xấu xa lộ dần…
- Ví dụ… anh Thăng?
- Lẽ ra, đây là một cơ hội lớn cho dân tộc này hòa giải, sau hòa bình với những mâu thuẫn chiến tranh và ý thức hệ. Nhưng, họ đã làm ngược lại…
- Tôi cũng nghĩ như anh. Nhưng, bây giờ, tất cả, đã muộn… khi họ đã giam nhốt, hàng trăm ngàn quân, cán, chính… VNCH, trong đó có những người thân của chúng ta.
- Ừ…
- Anh có bao giờ nghĩ, người CS… chúng ta, sau này, sẽ nghĩ lại điều này, để hòa hợp, hòa giải dân tộc?
- Không bao giờ Tuấn ơi!
- Vì sao?
- Ở tuổi cậu, chắc cũng còn nhớ? Hiệp định Paris người CS cũng đã đưa ra ra Hòa hợp, Hòa giải dân tộc… rồi cũng chính họ, phỉ báng những gì họ cam kết sau đó không lâu, thì làm sao tin!
- Tôi cũng biết điều đó hồi còn rất trẻ, nhờ, đọc báo cho ông Cậu nghe mỗi buổi trưa khi sửa ảnh.
Tuấn kể lại thời thơ ấu của anh cho Thăng nghe.Anh kể luôn về câu chuyện của một ông Cậu khác khi đi tập kết đất Bắc về, vỡ mộng.Thăng đứng, im lìm nghe.Anh chợt nói.
- Mày dám vượt biên, Tuấn?
Tuấn nghe lạnh toàn thân.Anh ú ớ.
- Anh nói gì kỳ vậy, Thăng?
- CÓ DÁM VƯỢT BIÊN KHÔNG!?
Có lẽ, lúc này, mặt Tuấn tái mét. Anh nhìn Thăng đăm đăm, dò dẫm.
- Ông định gài tôi à, ông Thăng? Ông nên nhớ rằng: những thằng lính, như tôi với ông; nói thật, đéo mẹ… là những thằng từng bị kỷ luật trong quân trường hoặc ở đại đội là hết thuốc chữa, mới bị đưa về cái đồn hẻo lánh này. Trời nước mênh mông này, chỉ hai thằng mình, ai sống, ai chết… chưa biết chắc là ai nhá!
- Tao nói thật mà! – Thăng đưa tay trái đặt lên vai Tuấn. Anh hất tay Thăng, nói.
- Đừng đùa nữa!
- Tao nói thật mà, Tuấn. Tao coi mày như một thằng em trai! – Thăng nghiêm nghị nói.
- Nếu anh nói vậy, bây giờ, chúng ta đi ngay. Này nhé, trên con tàu này… xăng, nhớt, đồ ăn, thức uống, ngay cả lợn heo… đầy ắp trong khoang, không thiếu thứ gì cho một cuộc hải trình nhiều ngày.Anh nghĩ sao?
- Chưa đúng thời điểm, Tuấn à. Nói thật với cậu, tớ đang bắt đường dây với một người có địa vị trong làng chài Bình Ba, để đi.
- Dân làm sao mà tin công an, để cùng đi vượt biên. Anh lừa tôi chắc?
- Mày nên nhớ: tao đã trú đóng ở cái làng Bình Ba này gần hai năm. Mọi người đều hiểu tao; và, mọi thứ trong cái làng này, tao đều thấu đáo tất cả.
- Ai?
- Mày muốn biết?
- Điều đó dĩ nhiên!
- Bà Năm Chùa là đầu mối của sự việc.Mày hãy tin tao đi. Bà ấy coi tao như con cháu trong nhà, như mày đã từng thấy, tao dẫn mày lần trước gặp bà ấy. Tao có ý định muốn thử mày đấy.
- Bà ấy tu hành, vượt biên làm gì?
- Bà Năm Chùa không đi, nhưng giới thiệu tao qua một người khác.
- Ai?
- Gia đình bà Bảy Hòa! Bà ấy hứa sẽ cho tao một số tiền khi ra ngoại quốc để sinh sống trong những ngày đầu ở trại tị nạn, trước khi đi định cư ở quốc gia thứ ba.Tao đã đồng ý canh bạc cuộc đời này.
Tuấn choáng ngộp với thông tin trên.Anh cũng từng đến thăm gia đình bà Bảy Hòa.Đó là một gia đình giàu có nhất ở làng Bình Ba này, như lời nói của ông thiếu tá trưởng đồn từng cảnh báo lính. Bà có hai người con trai cỡ tuổi Tuấn, và bốn cô con gái nhỏ tuổi hơn. Anh con trai lớn tên Thanh, là một cầu thủ bóng đá trong làng, thường viết thư mời đám lính: quân đội nhân dân và công an biên phòng tranh tài cao thấp hàng tuần.
- Tôi đi cùng anh! – Tuấn gật đầu chắc nịch. Cả hai bắt chặt tay nhau.
&
Chiều nay, đội bóng thanh niên Bình Ba đá thật tệ, không như thường hằng, rất xông xáo và thường hạ đám quân nhân rất sớm ở hiệp đầu. Tỉ số 4-1 do công an biên phòng dẫn đâu là điều lạ!
Khi trái bóng, từ góc phạt trái vừa tung lên cao, bắn vào khung thành, mọi cái đầu đều ngước cao chờ một cú đánh đầu tuyệt diệu… thì một tràng kẻng từ đầu đảo nơi công an biên phòng trú đóng, nổi lên liên tục, báo động giục giã.
Lệnh hành quân!
Đám công an, vơ vội áo quần, giầy dép, khoát vào người có thể khoát. Vừa chạy về đồn, vừa cò cò, nhảy nhảy như những con khỉ làm xiếc, mặc vội áo quần vào. Trên con đường lởm chởm đá, Tuấn lò cò một chân, xỏ đôi giầy, khoát một cái quần, lò cò tiếp, chập choạng chạy về đồn.
Lão thiếu tá trưởng đồn, mặt đỏ gay, giận dữ nói.
- Tôi đã cảnh báo các đồng chí rồi mà nì! Con mụ Bảy Hòa là thứ phản động, phản quốc từ lâu. Không trước, sau, con mụ ấy cũng vượt biên mà nì!
Lão nhìn Tuấn chòng chọc, đôi mắt tóe lửa.
- Đồng chí Tuấn. Con mụ Bảy Hòa đã vượt biên rồi, đồng chí biết chưa nhỉ? Bây giờ đồng chí, có còn cải lời đồng chí thiếu úy không nhỉ?
- Báo cáo đồng chí…
- Báo cáo cái gì nữa mà nì! Tụi hắn đi rùii…
- Báo cáo đồng chí! Làm sao “tụi hắn” đi được, khi hai đứa con trai của bà Bảy Hòa còn đá bóng với chúng tôi?
- Cậu nói thật à. Vậy chúng đâu?
- Báo cáo. Ngoài sân bóng đá!
- Hai thằng ấy vẫn còn ngoài sân bóng, đồng chí thủ trưởng ạ! – Huy, thiếu úy bên bộ hậu cần minh xác.
Lão thiếu tá hằn học nhìn xói vào Tuấn.
…
Tuấn nhìn Huy. Anh nhớ, mới cách đây mấy hôm, khi Huy phân công Tuấn đi vào làng “thị sát” dân vào những đêm về sáng. Anh mệt mỏi đến chán chường. Trước kia, sống trong một xã hội tự do, mạnh ai nấy sống, ngoại trừ đừng tham gia chính trị, mọi công dân của VNCH, muốn đi đâu, muốn làm gì, chính quyền hiện tại không theo dõi sát sao như bây giờ.
Khi thiếu úy Huy, cắt gác Tuấn vào làng Bình Ba hằng đêm. Ban đầu anh tuân lệnh, nhưng sau đó, anh thấy mình thật vô lý, khi kiểm soát từng hành động, sự sinh hoạt của người dân hằng đêm.Cách đây hai hôm, anh chống đối lệnh bằng cách ra cầu tàu ngồi ngắm sao, rồi ngủ quên luôn. Đến khi, Huy đá vào mông Tuấn, gằn giọng ra quân lệnh.
- Tại sao đồng chí không vào làng kiểm soát sinh hoạt dân tình, mà ra cầu tàu ngồi ngủ? Đồng chí đứng lên!
Bị đá vào mông một phát khá đau, Tuấn nổi cộc.
- Báo cáo đồng chí. Người dân, có cuộc sống riêng của họ, tại sao ta phải theo dõi hằng đêm. Tôi cảm thấy mệt mỏi quá lắm rồi.
- Bọn chúng là một lũ phản động, lúc nào cũng muốn vượt biên!
- Tôi không thấy chúng vượt biên; mà hằng đêm, tôi thấy chúng làm tình dữ tợn hơn, vì cái đảo này cúp điện liên miên! Tôi thủ dâm bằng tay quá nhiều rồi, đồng chí ạ.
- Đồng chí phải tranh thủ sinh hoạt cùng họ, dân vận với họ. Đó là trách nhiệm mà đảng đã giao phó cho chúng ta!
- Báo cáo đồng chí. Từ bây giờ, tôi không muốn thủ dâm… bằng miệng, khi đi vào làng dân vận dân chúng.Chắc đồng chí cũng từng thủ dâm nhiều lần, hằng đêm khi đi tuần, nhìn thấy họ làm tình ở mỗi hộ dân???
- Đồng chí giễu cợt cấp trên à?
- Tôi không giễu cợt đồng chí, mà là sự thật! Đồng chí đã từng thủ dâm khi đi trinh sát hằng đêm. Có không?
- Vô kỷ luật. Đồng chí thật vô kỷ luật! – Gã thiếu úy định sấn tới, nắm cổ áo Tuấn. Anh nói.
- Đ.m. Ông bước tới một bước nữa, tôi bắn thật đấy! – Tuấn chĩa cây A.K về phía Huy.
Gã Huy khựng người, đội cái mũ poncho lên đầu cun cút đi về đồn.
Tuấn bị viết 10 tờ kiểm điểm.Lão thiếu tá bắt đầu gờm đám lính miền Nam. Những bữa cơm có thoải mái hơn đôi chút, nhất là từ khi hằng mấy chục ký cá phơi khô của lão, bị ai đó ném xuống biển, trước đồn công an…
- Đồng chí Huy dẫn mươi đồng chí vào làng Bình Ba phong tỏa hết mọi ngõ ngách cho tôi. Nghe rõ!? Hãy canh gác nhà mụ Bảy Hòa thật chặt chẽ. Đồng chí Thăng, Tuấn cùng năm đồng chí khác hãy đi tuần tra các dãy đảo nhỏ trong lòng vịnh Cam Ranh, tìm cho ra mụ Bảy Hòa đang núp đâu đó trong các hốc đảo, chờ hai thằng con trai của mụ lấy thuyền bơi ra rồi cùng đi. Năm đồng chí này (lão chỉ điểm từng tên) canh cho kỷ cầu cảng, không cho một ai nổ máy rời tàu. Các đồng chí còn lại, theo tôi qua hướng Cửa Lớn. Rõ!!!
Thăng xuống tàu nổ máy. Con tàu lao vút về phía sau vịnh Cam Ranh, nơi đó có hàng trăm mỏm đảo to, nhỏ nằm chen chúc nhau trong lòng vịnh, để tàu thuyền có thể núp vào đó tránh bão. Tuấn lần xuống ca-bin hỏi Thăng.
- Anh định tìm bà bảy Hòa thật à?
- Cậu đừng lo. Tôi chỉ loanh quanh quanh lòng vịnh.Bà ấy đã không tin mình, đành chịu.Cứ để bà ấy đi.Tôi chỉ không hiểu, tại sao bà ấy bỏ lại hai đứa con trai không thương sót.
Quả thật, Tuấn cũng không hiểu nỗi!
Thăng cho tàu chạy nhiều vòng, đến khi trời xuống thấp dần, anh lái tàu về bến cảng báo cáo.
Qua hôm sau, công an biên phòng phát giác, cả hai đứa con trai của bà Bảy Hòa cũng biến mất tiêu! Sau đó, họ phát hiện trên một bãi biển vắng, ở hiện trường, còn vứt lại hai bình hơi dùng để lặn của dân chài, hai đôi giầy bơi và kính chống nước còn mới tinh nguyên được chôn vùi sơ sài dưới cát.
Lão thiếu tá trưởng đồn điên lên thật sự.
- Thì ra, trong cái đồn công an biên phòng này, bọn phản động tay trong phản đảng, vẫn còn tồn tại! Chúng là ai?
Lão càng sợ đám lính miền Nam!
&
Gần mười công an biên phòng đổ bộ lên một hòn đảo nhỏ – Tuấn không biết tên – nằm trong lòng vịnh Cam Ranh như nhiều đảo nhỏ khác, không tên, cùng ông trung tá trưởng đồn và hai chiếc tàu. Tháng tư trời nóng đổ lửa, cát hừng hực, tỏa hơi nóng thấy từ xa.Hai chiếc tàu, chạy sát vào bờ bãi, bọn lính cởi giầy nhảy vội xuống, lội vào bờ. Hai chiếc tàu cũng vội lùi ra, cách bờ khoảng năm mươi mét, để tránh bị sóng đập vỡ mạng tàu.
Bàn chân trần đầu tiên của Tuấn vừa đặt trên bãi cát vàng óng, anh vội rụt lại ngay.Sức nóng của cát thật vô cùng khủng khiếp.Anh nhìn đồng đội xung quanh, cũng thấy họ vội rút chân lại khi vừa đặt xuống.Lão trưởng đồn hét to.
- Chạy. Chạy thật nhanh mà nì!
Cả bọn cắm đầu chạy băng băng, theo lão thiếu tá, đến một khu vườn trồng toàn cây khoai mì. Cát bỏng rát dưới chân.Tuấn hình dung, như đang chạy trên một cái chảo nóng to lớn giữa đất trời. Anh nhìn hai bàn chân đỏ rần; và ngạc nhiên nhìn những hàng mì thẳng lối đang vươn cao sức sống, đang đến thời kỳ thu hoạch. Hưng nói.
- Mẹ nó! Tao cũng dân vùng biển, mà chưa thấy nơi nào cát nóng như ở đây!
Bọn lính suýt xoa những bàn chân đã chai cứng thao trường, luôn miệng chửi tục.Một mụ nạ dòng bước ra, ỏng ẹo.
- Thiếu tá mới tới. Em chờ mấy hổm rày! Đấy, thiếu tá cứ nhổ nữa mảnh vườn khoai, cho em chục ký cá khô là em vui rồi.
Thì ra là mụ nhân tình của lão thiếu tá.Giữa mụ và lão thiếu tá thường có những trao đổi buôn bán những hàng quân tiếp vụ.Bọn lính biết được, nhưng không dám hó hé.Thi thoảng, mụ ghé đồn công an; và lão thiếu cũng thường ghé qua đảo và ngủ qua đêm. Bọn lính đồn rằng, mụ là nhân tình của lão thiếu tá có vợ còn ở ngoài miền Bắc.
Lính bẻ những lá khoai mì, lót chân đứng cho đỡ nóng, mang giày vào.Cả bọn ùa vào vườn, nhổ từng góc khoai.Khoai mì trồng trong cát, củ dài nhưng cũng dễ dàng nhổ cả bụi lên.
Hai tên lính từ ngoài nơi tàu đậu, chèo hai cái thúng chai tấp vào bờ.Họ chất hàng đống khoai mì vào đấy. Tuấn và Hưng bám vào cái thúng chai vừa bơi vừa đẫy cái thúng về hướng nơi tàu đậu. Sóng từ ngoài xa, đánh vào từng nhịp hung bạo. Khó khăn lắm, họ mới ra giữa dòng nơi tàu đậu. Tuấn vừa bơi, vừa đẫy cái thúng chai, bề ngang hai thước, nói nhỏ vào tai Hưng.
- Kỳ này, tụi mình ăn khoai mì mút chỉ rồi ông ơi!
- Điệu này chắc tao đào ngũ quá Tuấn ơi! Lính gì mà khổ như chó.Ăncòn thua chó nữa!
- Mấy hôm trước, lão thiếu tá gọi ông vào văn phòng, chả nói cái gì vậy?
- Thì đại khái chả sợ tao nổ bậy. Chả hứa, sẽ dễ dãi với tao hơn và trả trước cho tao một tháng lương 4 đồng bạc! Mẹ nó! Lương lính 4 đồng mua chỉ được mấy gói thuốc lá Vàm cỏ.Chán mớ đời.Mày thấy đó, bây giờ hết đầu cá, có lẽ là đến gặm khoai mì thôi.
Tuấn đập vào tay Hưng nói.
- Nè, ông tính đào ngũ thiệt hả?
- Chắc vậy quá Tuấn ơi. Mày cũng thấy đó, tụi mình đi đến đâu ai ai cũng ghét, cũng khinh ra mặt. Họ còn gọi bọn mình là thứ Bò xanh, tụi công an nhân dân là thứ Bò vàng. Có nhục không? Ban đêm thì đi rình mò, moi móc từng hộ gia đình, ban ngày gặp họ thì má má, chị chị… tao thấy sao nhục cho cái đảng thổ phỉ này quá. Nhiệm vụ của chúng ta là giữ biển đảo, bảo vệ tổ quốc, chứ đâu có thể làm mấy cái trò bại hoại thế này, của một thằng lính đóng nơi đầu tổ quốc.Chúng bảo mình phải trung với đảng. Mình có là đảng viên đâu mà trung với hiếu với chúng! Cái chế độ này nó mị quân, cán, chính và cả dân… để duy trì sự độc tôn cai trị lâu dài.
Đây không phải là lần đầu Hưng tâm sự cùng Tuấn. Cả hai thường nói về chủ đề này từ khi còn ở quân trường, khi gác những ca về sáng. Người dân miền Nam, đã từng có cuộc sống tự do về mọi mặt, nên khi chính quyền CS vào, họ liền biết ngay, họ đã mất những gì đã có trước kia, nên sự phản kháng phải có, không như người dân miền Bắc, vì vị thế của lịch sử sau gần 100 năm bị đô hộ bởi người Pháp và Nhật không lâu. Tuấn suy nghĩ đắn đo, rồi nói.
- Hưng nè. Nhân danh tình bạn từ thuở còn ở quân trường như bóng với hình, tôi nói điều này, chỉ xin ông giữ kín, nếu ông không muốn…
- Chuyện gì quan trọng vậy, Tuấn?
- Tôi sẽ vượt biên!
- Hả!? – Hưng trợn tròng đôi đồng tử trắng dã.
- Mày nói thật chứ?
Tuấn nhè nhẹ gật đầu.Đoạn anh kể vắn tắt câu chuyện giữa anh và Thăng đã bàn.Hưng bơi bằng hai chân, nắm đôi vai Tuấn thật chặt, nói.
- Tao cám ơn mày Tuấn ơi! Cho tao đi với. Tao không muốn ăn khoai mì và thủ dâm hàng đêm…
Cả hai cùng cười.Tuấn nói.
- Ừ. Nhìn đống khoai mì, tôi ớn đến cuống họng luôn. Nè Hưng, ông không muốn ăn khoai mì dài dài, phải không? Tôi có cách!
- Cách gì cha nội?
- Tụi mìn lợi dụng lúc mấy con sóng tràn vào bờ, úp luôn thúng khoai xuống lòng biển là xong chớ gì. Cùng lắm là kiểm điểm, ông ạ.
- Ừ, mày nói chí lí!
Thế là hai đứa, chờ con sóng từ ngoài xa tràn vào bờ. Nương theo lợn sóng, Tuấn ghì chặt cái thúng chai xuống, đầu bên kia Hưng hất tung lên. Thế là chìm lỉm.Cả hai vờ la toáng lên.
-Thúng bị sóng đánh nhồi, chìm rồi, các đồng chí ơi. Tới giúp chúng tớ với!
Làm sao mà giúp, khi mà cái vịnh Cam Ranh sâu hun hút này.Lão thiếu tá từ bờ nhìn ra, đạp chân than trời.
Cả hai cười thích chí.
&
Việt Nam, Cam Ranh, cuối tháng Tư, năm 1977.
Anh Quỳnh kính;
Đã lâu lắm, dường như, gần đúng hai năm, anh em chúng ta chưa hề liên lạc nhau bằng thư từ như trước kia, 1975. Tại sao có chuyện kỳ lạ như vậy, vì đó là thói quen của anh em chúng ta?Và vì sao, lại là sau thời điểm 1975, tháng tư?Chắc anh bận công tác và em cũng bận cho những suy nghĩ của em, sau một cuộc đổi đời.Mỗi suy nghĩ có giá trị riêng tư của nó, khi chúng ta đứng ở một góc độ nào đó để nhìn.Dĩ nhiên, kẻ chiến thắng, sẽ có cái nhìn phiến diện hơn những kẻ mất mát, để hoàn thiện những gì kẻ chiến thắng đang với tới.Anh bận là phải. Em không là kẻ thất trận, hơn nữa em là kẻ được mọi ân sủng cuộc đời do anh và các chú, bác, cô, cậu… đem lại, nếu em thức thời.
Anh là một Luật gia – nghĩa là một trí thức. Không hiểu, anh nhìn cuộc thế xoay vần ra sao, mà vẫn tự tại với chức quyền, khi đã nhìn thấy hằng triệu người bị bỏ tù và đầy đi kinh tế mới trong vòng lao lý? Không như những lá thư, anh từng gửi cho em trước 75, bao điều anh mơ ước cho một xã hội công bằng và tự do.
Tự do gì, khi một công dân rời khỏi nhà mình phải báo cáo tổ, phường, xã? Tự do gì, khi họp mặt ba người trở lên sẽ bị bắt và tù tội? Tự do gì, khi mà tư tưởng con người, bị xới lên bằng những phê và tự phê? Và cái quan trọng nhất: Đó là Tổ Quốc! Tự do gì, khi mà bọn Trung Quốc – kẻ thù muôn đời của dân tộc VN – bảo gì phải làm theo họ!? Và; công bằng gì, khi anh là đoàn, đảng viên thì nhu yếu phẩm lại rất khác nhau với người dân?Công bằng gì, khi nhà người dân đang ở, bị đuổi ra khỏi nhà đưa lên núi rừng sinh sống với loài súc vật hạ đẳng?
Còn nhiều thứ lắm lắm!
Sáu tháng quân trường được huấn luyện thành một công an vũ trang, em biết thân phận bọt bèo của mình, chỉ là những hình nhân bị lợi dụng. Nếu không muốn tiến than, bằng những hình thức không phản lại dân tộc, em sẽ chỉ là một thằng lính quèn muôn đời.
Bởi chỉ vì, em đã nhìn ra cả dân tộc này thật bất hạnh, khi chủ nghĩa CS ngoại lai nhập vào VN.
Nếu muốn là một cán bộ xuất sắc như anh, hoặc nếu muốn là một quân nhân xuất sắc như em, chúng ta chỉ cần tiêm một liều thuốc vào cơ thể mình, thì sẽ thành công ngay.
Đó là liều Máu Lạnh!!!
Tạo hóa sinh ra con người trong một quần thể, gọi là gia đình. Đó là tình máu mủ ruột thịt, anh em yêu thương nhau cho đến chết.Nhưng tạo hóa cũng sinh ra, một cái gọi là Tổ Quốc. Người An Nam chúng ta, theo Ông, Bà; Tổ tiên trên hết. Vì trong Tổ tiên chúng ta gộp lại, còn có nhân dân (còn gọi là quần chúng). Em không thể, chích những liều thuốc phản bội vào cơ thể mình, những lời Tổ tiên đã răn dạy!
Vì thế, em phải ra đi.
Anh đừng nghĩ rằng, đi khỏi cái đất nước đã sinh ra mình, để trốn thoát đói nghèo sau chiến tranh, là một hạnh phúc!
Anh đã lầm!
Một công dân, lìa bỏ cội nguồn, đó là một nỗi nhục nhã nhất của một con người còn biết tự trọng về Tổ quốc mình.
Lẽ ra, lá thư này, em viết thật dài cho anh, trước khi từ biệt quê Cha, đất Tổ. Nhưng em biết… một giọt nước đang nhễu xuống nhiều, rất nhiều, những cánh lá môn.
Thật buồn, cho anh, cho em, và cho cả dân tộc này…
Nhưng điều em vui nhất, là trước khi rời khỏi đất nước này, em không nhìn thấy ngày: 30 tháng tư vào năm thứ ba, người ta tổ chức rầm rộ, tung hô, ăn mừng… khi gần mười triệu con dân Việt Nam đã nằm xuống mọi miền đất nước từ năm 1930!
Chúc anh…
Lịch sử sẽ trả lời tất cả! Như đã trả lời:
Có một Nguyễn Ánh. Cõng rắn cắn gà nhà!