WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Tôi không chống Cộng

toikhongchongcong-nhquocỞ cả hai lần bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam (11/2005 và 4/2009), tôi đều không nhận được lời giải thích thỏa đáng nào từ chính quyền Việt Nam. Nhưng tôi nghe được phong thanh đâu đó: người ta cho là tôi “chống Cộng”. Mà không phải từ phía chính quyền, một số bạn đọc ở hải ngoại, ngay cả những người có vẻ có cảm tình với tôi cũng thường nói: Tôi “chống Cộng”. Riêng tôi, xin nói một cách thành thực: Tôi không hề chống Cộng.

Viết thế, tôi biết nhiều bạn đọc sẽ ngạc nhiên. Tuy nhiên, trước khi đánh giá (hay chụp mũ), xin đọc tiếp phần giải thích phía dưới.

Tôi nói tôi không chống Cộng vì hai lý do chính:

Thứ nhất, tôi không thích chữ “chống”. “Chống”, trong tiếng Việt, khác với các từ hoặc từ tố được xem là tương đương trong tiếng Anh như “fight”, “against”, “counter-” hay “anti-”, thường gợi lên hai ấn tượng chính: một, gắn liền với tổ chức, và hai, có tính chất bạo động. Tôi không thích cả hai. Với bạo động, tôi tuyệt đối không thích. Với tổ chức, tôi trân trọng và nghĩ nó cần thiết, hơn nữa, một nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội, nhưng tôi lại không thích nằm trong bất cứ một tổ chức nào; thậm chí, tôi cũng chưa từng đi biểu tình hay ký tên vào bất cứ một kiến nghị chung nào (1), dù, trên nguyên tắc, có thể tôi đồng tình và ủng hộ những việc làm ấy. Tôi không làm những việc ấy chỉ vì một lý do đơn giản: Tôi không thích ở trong “đội ngũ”, dù lâu dài hay tạm thời, chính thức hay không chính thức. Vậy thôi. Khác với Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ “Khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”, tôi chỉ thích đứng một mình. Khi phê phán bất cứ điều gì, tôi chỉ đứng từ góc độ một người trí thức; mà trí thức, tự bản chất, nói theo Edward W. Said, là kẻ lưu vong, nghĩa là, nói cách khác, một mình. Viết, tôi chỉ nhân danh chính mình và những gì mình tin là đúng. “Lực lượng” của tôi chỉ có sách vở và kinh nghiệm, kiến thức và lý trí, lương tâm và lương thức. Còn phương tiện, trước, với cây bút; sau, với bàn phím: Ở cả hai nơi, tôi chỉ có chữ. Hết.

Thứ hai, quan trọng hơn, ở thời điểm bây giờ, theo tôi, nói chống Cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn, cái không còn hiện hữu nữa.

Lý do thứ hai này cần được giải thích nhiều hơn:

Cái gọi là “chống Cộng” bao gồm hai nội dung chính: một, chống lại chủ thuyết Cộng sản (chủ yếu là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin); và hai, chống lại chế độ Cộng sản. Với cả hai nội dung ấy, trước năm 1975, nói chống Cộng: Được; trước năm 1990, nói chống Cộng: Được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại.

Trong việc chống Cộng, trước năm 1991, hai khía cạnh chống chủ thuyết (hoặc ý thức hệ) và chống chế độ (hoặc một guồng máy) là một. Chế độ, vốn cụ thể, gắn liền với hệ thống chính trị, tức là hệ thống quyền lực, là mục tiêu chống đối trước mắt. Nhưng sức mạnh của chế độ Cộng sản không phải chỉ ở đảng viên, cán bộ, quân đội, công an, súng đạn và các nhà tù. Sức mạnh của chế độ Cộng sản còn ở các lý tưởng tự do, bình đẳng cũng như cái thiên đường Cộng sản chủ nghĩa vốn có sức mê hoặc to lớn đối với mọi người, đặc biệt với giới trí thức vốn khao khát những điều cao cả, có tầm nhân loại. Hơn nữa, nó còn nằm ở các ảo tưởng về tính khoa học của chủ nghĩa Cộng sản hay ở cái gọi là tính tất yếu trong quy luật phát triển của lịch sử. Bởi vậy, người ta không thể chống lại chế độ Cộng sản chỉ bằng các phương tiện vật chất. Người ta phải chống lại chế độ Cộng sản ngay cả trong phạm trù tư tưởng, trong lãnh vực nhận thức, nghĩa là bằng các phương tiện tuyên truyền và giáo dục, nhắm thẳng vào những tên tuổi như Marx, Engels, Lenin và Stalin, những người đã chết; hơn nữa, bằng một bảng giá trị khác, cao hơn, hiện hữu ngay trong đời sống xã hội để mọi người có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, nghĩa là bằng một nỗ lực không ngừng tự do hoá, dân chủ hoá và nhân quyền hoá, như những điều chủ nghĩa tư bản, ở các quốc gia phát triển nhất, từng làm trong suốt thế kỷ 20.

Tuy nhiên, kể từ năm 1991, với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Cộng sản, với tư cách một chế độ, hoàn toàn sụp đổ; và cùng với nó, chủ nghĩa Cộng sản, với tư cách một ý thức hệ chính trị, cũng bị phá sản theo. Trật tự này, thật ra, theo một số học giả, cũng có thể đảo ngược hẳn lại: Vì sự phá sản của ý thức hệ Cộng sản, chế độ Cộng sản, với tư cách một bộ máy chính quyền, đã sụp đổ. Nhưng dù mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi, thực chất của vấn đề vẫn là một: phá sản và sụp đổ.

Về phương diện lý thuyết, hầu như ai cũng thấy chủ nghĩa Cộng sản sai. Những người thiên tả, ít nhiều lưu luyến với chủ nghĩa Cộng sản, cố vớt vát khi cho cái sai ấy không xuất phát từ Karl Marx mà từ Lenin, đặc biệt từ Stalin và Mao Trạch Đông; nghĩa là, nó không sai hẳn, nhưng một, nó không được cập nhật để theo kịp những thay đổi và tiến bộ của chủ nghĩa tư bản; và hai, nó chỉ sai trong cách ứng dụng và vận dụng lý thuyết Marx vào thực tế. Tuy nhiên, nói theo Richard Pipes, trong cuốn Communism, a History (2), chủ nghĩa Cộng sản, ngay trong tư tưởng của Karl Marx, không phải là một ý tưởng hay nhưng bị thực hiện sai mà, tự bản chất, nó là một ý tưởng dở; hay nói theo Kolakowski, do Pipes trích dẫn, chủ nghĩa Marx – nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa Cộng sản – là một huyễn tưởng lớn nhất của thế kỷ 20 (3).
Trong vô số những cái sai của chủ nghĩa Marx-Lenin, cái sai này là đáng kể nhất: Họ cho chế độ tư hữu là cội rễ của bất bình đẳng và tin là họ có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ấy để xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, không ai bóc lột ai và cũng không ai thống trị ai. Trên thực tế, khi công hữu hóa mọi tài sản và mọi phương tiện sản xuất, thứ nhất, họ triệt tiêu hầu như mọi động cơ lao động và sản xuất của người dân; thứ hai, họ tạo nên một giai cấp đặc quyền và đặc lợi để nắm toàn bộ việc lãnh đạo và quản lý các tài sản và công cụ sản xuất đã được công hữu hóa ấy. Những người ấy, một mặt, kém khả năng quản lý nên dẫn đến hết thất bại này sang thất bại khác; mặt khác, quan trọng hơn, trở thành một thành phần thống trị vừa ngu dốt vừa độc đoán, vừa tham nhũng vừa tàn bạo. Tất cả các yếu tố ấy không những dẫn đến những sự thất bại nặng nề về phương diện kinh tế mà còn phá hủy toàn bộ nền tảng lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản vốn nhắm đến tự do, bình đẳng và hạnh phúc.
Một cái sai khác của chủ nghĩa Marx-Lenin là họ đơn giản hóa lịch sử nhân loại vào lịch sử đấu tranh giai cấp. Sự phát triển của lịch sử, thật ra, còn tùy thuộc, thậm chí, tùy thuộc chủ yếu vào sự hợp tác của con người trong việc khám phá các quy luật của tự nhiên, từ đó, đẩy mạnh các khám phá về kỹ thuật để nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người. Chủ nghĩa tư bản, trong thế kỷ 20, đã chứng minh điều đó: Giới chủ nhân biết san sẻ trách nhiệm và quyền lợi với giới công nhân, nhờ đó, so với thế kỷ 19, công nhân càng ngày càng được hưởng lương cao và càng ngày càng được hưởng chế độ lao động hợp lý hơn. Hơn nữa, chính quyền cũng can thiệp để bảo vệ quyền lợi của công nhân và, qua chính sách thuế khóa, bảo đảm sự công bằng trong xã hội. Nhiều quốc gia mang tiếng là tư bản nhưng về các chính sách lao động và an sinh xã hội lại không khác gì với cái lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Marx mơ ước. Chưa hết. Yếu tố then chốt trong sản xuất không phải chỉ là công cụ sản xuất mà còn có cả tri thức. Mà tri thức thì không ai độc quyền được.

Một người tị nạn, như người Việt Nam sau năm 1975, chẳng hạn, khi sang nước ngoài, với hai bàn tay trắng, không thể sở hữu các công cụ sản xuất để làm chủ nhân bất cứ thứ gì được. Nhưng bù lại, chỉ cần chịu khó học hành, sau một thời gian nhất định, người đó có thể sở hữu một vốn tri thức khá cao đủ để bước vào thế giới trung lưu, thậm chí trung lưu cao, dễ dàng. Chính trong lãnh vực tri thức, vốn gắn liền với giáo dục, xã hội tư bản đã tạo nên sự bình đẳng thực sự và tối đa: Nếu mọi người không được và không thể bình đẳng khi ra đời (vốn gắn liền với gia đình, thành phần xã hội, chủng tộc và những đặc điểm về trí tuệ riêng – những điều không ai có thể lựa chọn được), họ lại được bình đẳng trong cơ hội để phát triển và tiến bộ. Ai cũng được quyền đi học; bất cứ ai có trí và có nghị lực cũng đều đi học được, và từ đó, có thể thay đổi cuộc đời mình được. Với những đặc điểm ấy, chủ nghĩa tư bản không những thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội một cách hiệu quả mà còn tạo nên sự bình đẳng và dân chủ, tuy không hẳn đã hoàn hảo, nhưng cũng hơn hẳn chế độ xã hội chủ nghĩa đủ để mọi người, kể cả những người đang sống dưới chế độ Cộng sản, cũng nhận thấy không phải kẻ thù mà chính mình mới là những kẻ đang đứng trước vực thẳm. Sự so sánh ấy cũng làm cho người ta nhận thấy những hứa hẹn về một thiên đường Cộng sản chủ nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, chỉ là một ảo tưởng, hơn nữa, một không tưởng. Cái không tưởng ấy lại bị trả giá bằng máu. Không phải máu của một hai người. Mà là của cả một tập thể, có khi cực kỳ đông đảo. Cả hàng triệu hay chục triệu người.

Về phương diện thực tiễn, với tư cách một chế độ, chủ nghĩa Cộng sản có năm đặc điểm chính trên bình diện tổ chức. Một, đảng Cộng sản nắm độc quyền lãnh đạo; hai, đảng ấy được tổ chức một cách chặt chẽ với một thứ kỷ luật thép từ trên xuống dưới; ba, kinh tế hoàn toàn tập trung, mọi quyết định, kể cả về giá cả thị trường, đều do cấp trên quyết định; bốn, mọi phương tiện sản xuất đều nằm trong tay nhà nước; và năm, mỗi quốc gia đều liên kết và, với những mức độ khác nhau, lệ thuộc vào cái gọi là phong trào Cộng sản quốc tế nói chung. Với cách tổ chức như thế, chế độ Cộng sản vấp phải vô số sai lầm. Và những sai lầm ấy rất dễ thấy.

Thứ nhất, các chế độ Cộng sản không những không công bằng hơn các chế độ tư bản, mà thậm chí, còn tệ hại hơn cả các chế độ phong kiến ngày xưa. Xưa, chỉ có vua, nay có cả nguyên một đảng đứng trên pháp luật. Xưa, chỉ có vua là được hưởng mọi đặc quyền và đặc lợi; nay, có cả hàng triệu người nhân danh đảng thi nhau vơ vét lợi và thao túng quyền.

Thứ hai, ngoài chuyện bất bình đẳng, chế độ Cộng sản, qua hơn 70 năm tồn tại, đã chứng tỏ sự tàn bạo vô tiền khoáng hậu. Những nhà lãnh đạo Cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Fidel Castro… không phải giống vua mà là giống các bạo chúa. Vua, còn đỡ. Trong đám vua còn có các minh quân. Trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng sản, được xây dựng quyền lực trên nguyên tắc “chuyên chính”, ngay cả những người có tiềm năng là minh quân cũng trở thành bạo chúa. Hậu quả là chế độ Cộng sản trở thành một chế độ đứng đầu trong danh sách giết người trong suốt cả thế kỷ 20. Họ giết người còn nhiều hơn cả chế độ phát xít và Nazi. Bàn tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhuộm nhiều máu hơn cả bàn tay của Hitler. Trong cuốn The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression do Stéphane Courtois và nhiều người khác biên tập (4), các tác giả ước tính tổng số nạn nhân bị giết chết dưới các chế độ Cộng sản trên thế giới kể từ năm 1917 đến năm 1991 là khoảng 100 triệu người, bao gồm khoảng 20 triệu ở Nga, 65 triệu ở Trung Quốc, hai triệu ở Campuchia, hai triệu ở Bắc Triều Tiên, một triệu ở Đông Âu, v.v..

Thứ ba, chế độ Cộng sản hoàn toàn thất bại về phương diện lãnh đạo và quản lý kinh tế đất nước. Không có nước Cộng sản nào giàu có và dân chúng được no ấm. Từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, kinh tế của các nước Cộng sản bị lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đến thập niên 1980, chỉ số phát triển của nó hầu như chỉ là một con số không to tướng. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa thời ấy, rất nhiều cửa tiệm trống rỗng không có hàng hóa để bán (5). Dân chúng ngất ngư vì đói khát. Nhưng dễ thấy nhất là khi chúng ta nhìn vào các quốc gia bị chia đôi, trong đó, một nửa theo chế độ Cộng sản và một nửa theo chế độ tư bản. Như Đông Đức và Tây Đức. Hay như Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Cái nửa theo chế độ Cộng sản bao giờ cũng có chỉ số phát triển thấp hơn hẳn cái nửa theo chế độ tư bản. Thấp một cách toàn diện. Riêng ở Triều Tiên, thu nhập tính trên đầu người ở miền Nam (32.400 đô la/người/năm) gấp 18 lần ở miền Bắc (1.800 đô la). Cùng một dân tộc. Cùng một lịch sử. Chỉ khác ở chế độ. Mà hai nơi khác nhau đến vậy.

Cuối cùng, nói theo Stéphane Courtois (6), Cộng sản phạm vô số tội ác không phải đối với con người với tư cách cá nhân mà còn đối với cả văn minh nhân loại và văn hóa quốc gia. Ở đâu, các chế độ Cộng sản cũng phá tan tành rất nhiều di tích và di sản lịch sử cũng như các nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ tự. Họ trấn áp các tôn giáo, xóa bỏ nhiều truyền thống tốt đẹp với lý do, theo họ, đó là những tàn tích của chế độ phong kiến.

Với những thất bại hiển nhiên về cả phương diện lý thuyết lẫn thực hành như vậy, chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn toàn bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thoạt đầu, vào năm 1989, với việc đảng Cộng sản Hungary chấp nhận một hệ thống chính trị đa đảng vào tháng 2; việc Công đoàn Đoàn kết thắng phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội Ba Lan vào tháng 6, sau đó, lên nắm chính quyền vào tháng 9; việc Bức tường Berlin bị sụp đổ vào tháng 11 (sau đó nước Đức được thống nhất vào tháng 10/ 1990); kết thúc bằng việc Mikhail Gorbachev tuyên bố từ bỏ chế độ độc đảng vào ngày 7/2/1990; và sau đó, sự tan rã của Liên bang Xô Viết vào tháng 12/1991 (trước, trong và sau sự tan ra ấy, có 16 quốc gia – vốn bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết – tuyên bố độc lập, bao gồm: Lithuania, Estonia, Latvia, Georgia, Ukraine, Belarus, Moldova, Azerbaijan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan, Armenia, Turkmenistan, và Kazakhstan).

Nếu sự ra đời của chủ nghĩa Cộng sản là biến cố lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, sự tan rã của nó ở Nga và Đông Âu là một biến cố trọng đại nhất trong sau thế kỷ 20. Cả hai đều là cách mạng. Cuộc cách mạng đầu nổ ra và, sau đó, tồn tại bằng máu và nước mắt; cuộc cách mạng sau, ngược lại, diễn ra với ba đặc điểm chính: nhanh chóng, nhẹ nhàng và bất bạo động. Có vẻ như giới lãnh đạo Cộng sản (trừ ở Romania) tự ý từ bỏ quyền lực và chế độ Cộng sản tự tan rã. Không có sự kháng cự nào đáng kể cả.

Trước thập niên 1990, trên thế giới có tổng Cộng 23 quốc gia theo chế độ Cộng sản. Trong thời điểm giao thừa giữa hai thập niên 1980 và 1990, có 18 quốc gia từ bỏ Cộng sản: Afghanistan, Albania, Angola, Benin, Bulgaria, Campuchia, Congo, Czechoslovakia, Đông Đức, Ethiopia, Hungary, Mông Cổ, Mozambique, Ba Lan, Romania, Nga, Nam Yemen và Yugoslavia. Người ta gọi những nước này (trừ Đông Đức vốn không còn là một “nước” riêng sau khi thống nhất) là “hậu Cộng sản” (postcommunism), một thuật ngữ do Zbigniew Brzezinski đưa ra vào năm 1989 (7). Do một số quốc gia, sau năm 1991, bị chia cắt (chủ yếu là do vấn đề chủng tộc), hiện nay có 28 quốc gia được xem là hậu Cộng sản (8).

“Hậu Cộng sản” nghĩa là không còn Cộng sản nữa.

Có thể nói, trên bình diện thế giới, cái gọi là “Cộng sản” đã thuộc về quá khứ. Khi “Cộng sản” thuộc về quá khứ, chuyện chống Cộng cũng không còn lý do hiện hữu nữa.

Thật ra, trên thế giới cũng còn ít nhất năm quốc gia, trên danh nghĩa, chưa từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Bắc Triều Tiên và Cuba. Tuy nhiên, trong năm quốc gia ấy, chỉ có Bắc Triều Tiên là thực sự Cộng sản, Cộng sản theo kiểu Stalin trong thập niên 1930 và 1940. Ở tất cả bốn nước còn lại, kể cả Việt Nam, chủ nghĩa Cộng sản đang dần dần biến chất và biến thể. Nó không giống chủ nghĩa Cộng sản của Stalin và Mao Trạch Đông. Nó cũng không giống chủ nghĩa Cộng sản của Lenin. Và nó cũng không giống chút nào với cái chủ nghĩa Cộng sản mà Mark và Engels quan niệm.

Thứ nhất, về phương diện kinh tế, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều chấp nhận kinh tế thị trường vốn là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Dĩ nhiên, cái gọi là “kinh tế thị trường” ở đây vẫn còn bị giới hạn bởi cái đuôi phía sau “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng cái đuôi ấy chỉ là một cố gắng níu kéo nắm giữ quyền lợi cho một số người thuộc tầng lớp thống trị qua các đại công ty và tập đoàn quốc doanh. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động và sự điều hướng kinh tế vẫn theo quy luật thị trường, nghĩa là tư bản hóa.

Thứ hai, về phương diện chính trị, tất cả vẫn cố thủ, trên danh nghĩa, trong cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng ở đây cũng lại có vấn đề. Cái gọi là chính trị Cộng sản chủ nghĩa vốn bao gồm hai khía cạnh: một, về tổ chức, sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản; và hai, về phương diện ý thức hệ, lý thuyết của Marx và Lenin. Ở tất cả bốn quốc gia kể trên, Cộng sản chỉ nằm ở bình diện tổ chức, còn ở bình diện ý thức hệ, hầu như không ai còn tin, thậm chí, không mấy người muốn nhắc đến ý thức hệ Cộng sản nữa. Ngay ở Việt Nam, giới lãnh đạo cũng thừa hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin không còn sức thuyết phục và sự quyến rũ nữa. Họ phải thêm vào mấy chữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, cho đến nay, họ cũng không biết cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” ấy thực sự là gì. Lý do là Hồ Chí Minh vốn là người thực hành, không viết về lý thuyết, và thật ra thì cũng chẳng có lý thuyết gì ngoài một mớ giáo điều đơn giản và cũ kỹ ông học được ở Nga và Trung Quốc. Những kẻ đang nắm quyền tại Việt Nam sử dụng cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như một huyền thoại chứ không như một chủ thuyết.

Theo chủ nghĩa Marx-Lenin, một hình thái chính trị đúng nghĩa phải tương ứng với, thứ nhất, một hình thái kinh tế nhất định; và thứ hai, một ý thức hệ nhất định. Nền chính trị Việt Nam hiện nay, trên danh nghĩa, vẫn là Cộng sản, nhưng kinh tế lại là tư bản hoặc ít nhất, nửa-tư bản hoặc đang trong quá trình tư bản hóa; còn ý thức hệ thì hoàn toàn trống rỗng: Nó phi-Marx và cũng phi-Lenin. Chẳng giống ai và cũng chẳng là cái gì cả. Đó là một thứ tôn giáo vừa không có thần linh vừa không có điển phạm (canon). Tên nó, ở Việt Nam, nhiều người gọi thẳng: mafia.

Bởi vậy, trong trường hợp của Việt Nam hiện nay, nếu chúng ta nói đến chuyện chống Cộng có lẽ ngay cả những người đang mang danh hiệu đảng viên Cộng sản trong nước – hầu hết đều rất giàu có và sống rất trưởng giả – sẽ cười khì, hỏi: “Cộng nào vậy nhỉ?” Lôi tư tưởng Marx, Engels và Lenin ra phê phán, phần lớn họ – những người chẳng bao giờ thực sự đọc Marx, Engels và Lenin – hẳn sẽ trố mắt lên hỏi: “Mấy người đó là ai vậy? Có phải mấy ông râu ria xồm xoàm gì đó không?” Nói đến đấu tranh giai cấp, đến tầng lớp công nhân và nông dân, đến chuyên chính vô sản, đến công bằng xã hội và đến lý tưởng làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, những vấn đề nòng cốt của ý thức hệ Cộng sản, họ – những người đang sống như giới thượng lưu và thường được gọi là “tư bản đỏ” – hẳn sẽ bịt tai lại, như nghe những chuyện cổ tích vừa xa vời vừa nhảm nhí.

Trong trường hợp ấy, chống Cộng là chống ai và chống cái gì?

Đối với riêng tôi, khi phê phán chính quyền trong nước, tôi không nghĩ là tôi chống Cộng. TÔI CHỈ CHỐNG LẠI ĐỘC TÀI.

Chế độ Việt Nam hiện nay đáng bị phê phán không phải vì nó là Cộng sản. Mà vì nó là độc tài. Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất. Ngay cả khi chúng ta chống lại điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam, chúng ta cũng chỉ chống lại một sự độc tài. Chính quyền Việt Nam hiện nay đang rục rịch muốn đổi tên nước. Có khi họ đổi cả tên đảng. Nhưng dù đổi đảng Cộng sản thành đảng Dân chủ hay đảng Cộng hoà, cái việc nhân danh Hiến pháp để giành quyền lãnh đạo độc tôn như vậy cũng vẫn là độc tài. Tên gọi có thể thay đổi, thực chất vẫn là một. Vẫn độc tài.

Mọi sự độc tài đều đáng phê phán. Nhưng khi độc tài đi liền với bất tài thì càng đáng bị phê phán hơn. Và nhu cầu phê phán ấy cũng càng khẩn cấp hơn. Sự độc tài chà đạp lên dân chủ và nhân quyền, nhưng trong một số trường hợp nào đó, dưới một sự độc tài sáng suốt, người ta cũng có thể sẵn sàng chấp nhận hy sinh dân chủ và nhân quyền trong một thời gian nào đó để xây dựng và phát triển đất nước (như trường hợp của Singapore). Độc tài mà bất tài thì bao giờ cũng gắn liền với sự ngu dốt và tham nhũng bởi họ sẽ không có, không thể có, bất cứ lý tưởng nào khác ngoài tiền và cũng không có một thứ trí tuệ nào khác nào thứ “trí tuệ” dùng để làm giàu cho bản thân và gia đình. Sự ngu dốt trong chính sách và tham nhũng trong bộ máy chỉ tồn tại được nhờ hai yếu tố: dối trá trong tuyên truyền và tàn bạo trong quản trị. Tập hợp của tất cả các yếu tố ấy, người ta chỉ làm được mỗi một việc duy nhất là tàn phá đất nước và hành hạ dân chúng. Tính chất độc tài, bất tài, tham nhũng, dối trá và tàn bạo ấy càng trở thành nguy hiểm hơn nữa khi đất nước đối diện với nguy cơ xâm lấn chủ quyền và lãnh thổ của Trung Quốc.

Đối diện với các nguy cơ trên, chữ “chống Cộng”, theo tôi, rất dễ làm lệch vấn đề. Nó dễ gợi lên ấn tượng là, khi chống lại chế độ Việt Nam hiện nay, chúng ta nhân danh hai điều vốn bị xem là đối lập với Cộng sản, nhất là Cộng sản Việt Nam: Một, chủ nghĩa tư bản và hai, Việt Nam Cộng Hoà lúc trước. Nhưng chúng ta chống Cộng không phải vì chủ nghĩa tư bản và cũng không phải vì để trả thù hay để phục hồi miền Nam. Việc chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam cần xuất phát từ những lý tưởng hiện đại, cao cả và phổ quát hơn: quyền tự do, dân chủ và quyền làm người. Hơn nữa, nó còn xuất phát từ cả sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tiền đồ của đất nước nữa. Trong chiến tranh có tính dân tộc chủ nghĩa, người ta có thể huy động lịch sử, hay nói như Tố Hữu, trước năm 1975, “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”; trong cuộc chiến chống độc tài, nguồn sức mạnh không phải chỉ nằm ở quá khứ mà còn, nếu không muốn nói chủ yếu còn, nằm ở tương lai.

Chúng ta chống lại chế độ Việt Nam hiện nay không phải vì việc họ chọn lựa hệ thống xã hội chủ nghĩa, việc họ gây ra cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam, việc họ cưỡng chiếm miền Nam, việc họ trả thù những người miền Nam: Tất cả đều đã thuộc quá khứ.

Người ta cần lưu giữ quá khứ, cần thường xuyên đào xới lại quá khứ và cần viết lại quá khứ, một cách chính thức, bằng lịch sử; hoặc một cách không chính thức, bằng ký ức, từ ký ức cá nhân đến ký ức tập thể. Nhưng không ai thay đổi được quá khứ. Càng không cần phải chống lại quá khứ. Những điều ấy khác nhau.

Chúng ta chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam vì nó ĐANG chà đạp lên quần chúng, ĐANG làm cho đất nước bị phá sản trên mọi phương diện, từ kinh tế đến giáo dục, từ ý thức đạo đức đến cả lòng tự hào dân tộc, từ các giá trị truyền thống đến tinh thần hiện đại với những giá trị về dân chủ và nhân quyền vốn đang, cùng với xu hướng toàn cầu hoá, càng ngày càng trở thành phổ quát, ĐANG kiềm hãm sự phát triển của đất nước khiến Việt Nam, một dân tộc vốn rất nhiều năng lực, bị thua kém không những các nước được xem là những con rồng của châu Á mà còn có nguy cơ thua cả một quốc gia vốn bị rất nhiều tai tiếng, như Miến Điện.
Và chúng ta cũng chống lại chế độ ấy vì, với sự nhu nhược của nó, Việt Nam có nguy cơ bị biến thành một tỉnh lẻ của Trung Quốc.

Cuối cùng, có một điểm cần được nói thêm: Ở Tây phương, ngay trong thời Chiến tranh lạnh, nghĩa là lúc chế độ Cộng sản vẫn còn rất mạnh, nhiều chiến lược gia và trí thức, đặc biệt ở châu Âu, đã chuyển khẩu hiệu “chống Cộng” (anti-communism) thành “chống toàn trị” (anti-totalitarianism). Dưới khẩu hiệu chống toàn trị, người ta không những chống lại chế độ Cộng sản mà còn chống lại cả chế độ phát xít, đồng thời người ta cũng khẳng định được lập trường của họ một cách rõ ràng: Việc chống đối ấy, thứ nhất, không nhắm vào một lý thuyết mà nhắm vào một chế độ với những guồng máy và chính sách cụ thể; và thứ hai, không nhằm bảo vệ hay bênh vực cho chủ nghĩa tư bản mà là để bảo vệ dân chủ và nhân quyền, những lý tưởng vừa có tính phổ quát vừa dễ được mọi người đồng thuận.

Cả tính phổ quát và sự đồng thuận ấy tạo nên sức mạnh cho cuộc tranh đấu, cuối cùng, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa như một hệ thống độc tài đáng kinh tởm (9).

© Nguyễn Hưng Quốc

Nguồn: VOA

——————————————
Chú thích:

  1. Trên một số bản kiến nghị lưu hành trên internet, tôi thấy có tên “Nguyễn Hưng Quốc” ở Úc. Đó không phải là tôi. Có thể chỉ là trùng tên hoặc là một sự giả mạo. Bản thân tôi thì chưa từng ký vào bất cứ một kiến nghị nào cả.
  2. Richard Pipes (2003), Communism, a History, New York: Random House, tr. 147.
  3. Như trên.
  4. Do Jonathan Murphy và Mark Kramer dịch sang tiếng Anh, Harvard University Press, 1999.
  5. Xem Stathis N. Kalyvas (1999), “The decay and breakdown of communist one-party systems”, Annu, 1999, tr. 329.
  6. Stéphane Courtois và nhiều người khác (biên tập) (1999), The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression, Cambridge: Havcard University Press, tr. 7.
  7. Leslie Holmes (1997), Post-Communism, an Introduction, Cambridge: Polity Press, tr. 13.
  8. Ghia Nodia (2000), “Chasing the meaning of ‘post-communsm’: a transitional phenomenon or something to stay?”, Contemporary European History, 9 (2000), tr. 278.
  9. Xem bài “From anti-communism to anti-totalitarianism: the radical potential of democray” của Dick Howard trên Government and Opposition số 37, 2002, tr. 551-572.

 

97 Phản hồi cho “Tôi không chống Cộng”

  1. Vân Nam says:

    Hưng Quốc!
    Lão biết tên cậu không phải vậy, nhưng nếu đã lấy nó làm “bút hiệu” thì hẳn có ý tốt.
    Nếu muốn cho quốc gia hưng thịnh mà viết nhảm nhí kiểu này thì …đừng!
    CS hay Phát xít hay cái gì đi nữa thì quan trọng gì ở …chữ nghĩa? Quan trọng là ở chỗ những hệ quả mà nó đem đến cho quốc gia, dân tộc từ hơn nửa thế kỷ nay chứ!

    Đừng ‘ưỡn ẹo’ với chữ nghĩa nữa !!!

  2. Khinh Binh says:

    Trích”Khi phê phán bất cứ điều gì, tôi chỉ đứng từ góc độ một người trí thức;”
    Người trí thức không khi nào viết lố bịch như thế! Nhưng thôi được, vậy xin hỏi “ông trí thức”, khi viết:

    “Thứ hai, quan trọng hơn, ở thời điểm bây giờ, theo tôi, nói chống Cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn, cái không còn hiện hữu nữa..”

    Ông nghĩ cái mà ông cho là “cộng sản” nó tồn tại hồi nào? Có lẽ ông cho rằng Bắc Hàn, Liên Xô, CuBa, Đông Đức…mới là CS ư? Còn VN bây giờ không là CS ư? Cho nó vững rồi ông sẽ thấy ông nó có khác nhau không. Theo ngu ý của ngu binh tôi thì cái mà thiên hạ gọi là “cộng sản” xưa nay là cái chế độ mà đang tồn tại ở VN đó! Nó trước sau là chế độ bịp bợm, dối trá và chỉ đổi màu theo mùa thôi. Lý tưởng chỉ là bình phong để lừa gạt mấy “ông trí thức” thôi. Dân đen đâu cần biết gì về lý thuyết, chủ nghĩa. Bịnh!

  3. Góp ý với t/g says:

    Bài này nói chung tác giả viết khó hiểu, không mạch lạc, theo tôi hiểu là một bài chỉ trích, chê bai chế độ CS cả về lý thuyết lẫn thực tế, sự tàn bạo của CS…
    Phần mở đầu và cái tên của bài viết khiến người ta mất cảm tình, nói về cái tôi hơi nhiều, phân bua với chính quyền trong nước (CSVN) là tôi không chống Cộng mà các anh không cho tôi về nước…
    Phần tiếp theo chê trách chế độ, lý thuyết CS nhưng cách trình bầy rất tối tăm, rườm rà và khó hiẻu, những ý kiến, dữ kiện đưa ra toàn những cái mà ai cũng biết, đã được nói trên diễn đàn quá nhiều
    Về lý thuyết CS, tác giả chưa phân biệt rõ Marx và Lenin hai con người và hai lý thuyết hoàn toàn khác nhau

    Tác giả nói “Một cái sai khác của chủ nghĩa Marx-Lenin là họ đơn giản hóa lịch sử nhân loại vào lịch sử đấu tranh giai cấp.”

    Không đúng lắm, lý thuyết Marx là lý thuyết kinh tế, còn Lenin là nhà chính trị gia, thực hành lý thuyết Marx. Nhưng lý thuyết của Lenin không phải là kinh tế chỉ là chính trị, quân sự, an ninh (xin xem bộ Lenin tuyển tập hoặc Nguyên Lý Căn Bản Của Chủ Nghĩa Lénine)
    Cho nên nếu ghép thành chủ nghĩa Marx Lenin thì không ổn. Bài viết nói tới Marx, Angels, Lenin, Mao… lý thuyết nhiều quá, sự thực người đọc không cần biết về lý thuyết Marx Angels, Lenin nhiều vả lại ngay chính t/g cũng không nắm vững nên có phần rat khó hiểu

  4. trí ngủ says:

    Mao Trạch Đông từng nói: trí thức không bằng cục cức.

  5. Trần văn Nhân says:

    “Chúng ta chống lại chế độ Việt Nam hiện nay không phải vì việc họ chọn lựa hệ thống xã hội chủ nghĩa, việc họ gây ra cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam, việc họ cưỡng chiếm miền Nam, việc họ trả thù những người miền Nam: Tất cả đều đã thuộc quá khứ”.
    Quá khứ à! một đứa con nít trước năm 1975 mà dám lếu láo với cha ông như vậy à!
    Trong cuộc chiến tương tàn nồi da xáo thịt, anh này chỉ là một đứa con nít, nên anh ta không thể nào hiểu được những nỗi đau khổ của hàng triệu gia đình có người hy sinh trong cuộc chiến để bảo vệ miền Nam, bảo vệ tự do để cho anh ta đựợc an nhàn ngồi học dưới mái trường miền Nam. Để bây giờ lớn lối với cái giọng dạy đời!

  6. Olympia-Washington says:

    Vu cáo Việt Cộng bị phạt 300 ngàn mỹ kim
    Thứ hai – 13/05/2013 21:02 – Đã xem: 333
    Công lý phục hồi bản án bồi thường bị vu cáo là Việt Công

    Associated Press – 9-5-2013

    Olympia, Washington – Toà tối cao cuả tiểu bang Washington đã phục hồi tiền bồi thường 310 ngàn mỹ kim cho một cư dân Olympia trong một bản án do bồi thẩm đoàn quyết định cho ông thắng kiện 5 người Mỹ gốc Việt về tội vu khống ông là Cộng Sản.

    Báo The Olympian tường trình (http://is.gd/drmF2U) như sau, Đức Tân thưa nhóm vu khống năm 2004. Ông cáo buộc nhóm này đã gửi đi nhiều email và bài viết trên hệ thống điện tử là ông được điều hành bởi nhà cầm quyền Việt Cộng.

    Nhóm này nói ông đã treo cờ CSVN trong trường học dậy Việt ngữ, và ông cũng như tổ chức cuả ông , Ban đại diện cộng đồng Việt Nam quận hạt Thurston County “tổ chức một đại hội cộng đồng với mục đích chào mừng CSVN”

    Môt trong những người bị thua kiện còn trắng trợn tố cáo ông là một gián điệp Việt Cộng.

    Một toà kháng án đã huỷ bỏ quyết định cuả bồi thẩm đoàn, nhưng toà thượng thẩm đã tái phục hồi quyết định này với số thăm 6-1, toà tyên bố rằng vu cáo không nằm trong hiến định được bảo vệ tự do phát biểu.

    Hai trong số những bị cáo đã có lời vu cáo từng ở tù nhiều năm trong trại tù Cộng Sản sau khi Cộng Sản chiếm được Saigon năm 1975.

    • Bob Vu says:

      Tan’s daughter, Thanh Tan, a journalist, has said that the allegations against her father were particularly painful because communism is what he hates most. She said that as a child, she learned to sing the South Vietnamese national anthem, and was taught that the true flag of Vietnam is the yellow flag with three red stripes, not the communist flag recognized internationally today.(http://is.gd/drmF2U)

      Theo lời con gái của ông ĐT thì ông ta là người ghét CS, ông dạy con gái phải yêu cờ vàng và Quốc Ca VNCH. Nhóm gọi ông là VC đã không có đủ bằng cớ, vì vậy đã thất kiện. Luật là luật, luật ở Hoa Kỳ không binh ai bỏ ai. Anh tố cáo phải hội đủ điều kiện và bằng chứng.
      Qua vụ này đưa đến kết luận: Việt Cộng là danh từ đồng nghĩa với xấu xa và tội ác, đối với cộng đồng VN tại Mỹ. Vì nếu VC mang ý nghĩa tốt đẹp thì ông ĐT không bao giờ thưa gởi người đã gọi mình là VC.

      • Ôg chống Vc says:

        Nhận xét của Bob Vu đúng!

        “the allegations against her father were particularly painful because communism is what he hates most.”

        Biết “painful” biết “hate” Vc cao độ như đương sự đã hả họng ra ca thán – tại sao KHÔNG CHỐNG CỘNG??

        Cảm ơn Bob Vu

      • Dao Cong Khai says:

        Vấn đề thua kiện là vì họ chụp mũ người ta là VC không bằng chứng. Tôi cũng muốn họ phạt những người chuyên chụp mũ như vậy.

  7. hoàng says:

    hưng quốc là tên xàm sở,nham nhở với mọi người.Phần đông Cộng-đồng người Việt tị-nạn ở Úc đều bị ói mữa với tên nhà mô-phạm nầy.Giống như ma cà-rồng,sợ ánh sáng mặt trời,còn tên nầy thì sợ sự thật.Người sợ sự thật là người luôn sống với gian trá,bây giờ tìm được chủng loại với gian trá của csvn
    nay muốn lân la kề cận để xin xỏ cho được một chân làm đồ tể.csvn thì rất thích những tên đồ tể…như đồ tể giết heo,giết bò,giết gà-vịt và cũng như giết người,và giết luôn cả gia-đình giòng-tộc,giết luôn cả quê hương dân tộc.

  8. hoàng says:

    Tên nguyễn hưng quốc nầy là anh-em cùng mẹ với cái tên kami, chỉ núp trong bóng tối qua ngôn ngữ
    để tìm một chổ dựa cho bản thân.Đã có nhiều người quá mệt mỏi và chán chường với cái tên hưng quốc nầy,tên giết chó bán thịt nai.Những lời hưng quốc nói đều có hại cho công việc ĐẠP ĐỖ chế độ csvn.Hắn đang chống lưng cho bọn csvn đứng lâu hơn nữa để chà đạp dân-tộc và bán nước cho ngoại bang.Xin người dân tị nạn cs ở Úc hảy gạt bỏ tên nầy ra khỏi sự sinh hoạt của Cộng-đồng.Hắn moi tìm tin-tức sơ hở của Cộng-đồng mà bán rẻ cho csvn.Hắn không xứng đáng là nhà mô-phạm hắn không xứng đáng là kẻ tị-nạn cs.Hắn là tên mang băng đỏ ở tay áo vào lúc 30/04/1975

  9. luoibo says:

    Trong các chế độ cs đều dùng ngu dân , nghèo đói , đễ dễ bưng bít thông tin dẫn đến dễ thuần phục với các chiêu bài mị dân ,không có điều kiện sống tốt phải chấp nhận lam lũ tìm kế sinh nhai ,qua ngày đoạn tháng thì không còn thời gian hiểu biết về THỜI SỰ , CHÍNH TRỊ trong nước và trên thế giới . Không có điều kiện sử dụng internet thì VN hiện nay không khác gì những năm 1980 về trước , không khác mấy dân tộc Bắc Triều Tiên đang bị nghèo đói + dễ bề tẩy não …
    Ngày nay nhờ cuộc sống thoáng hơn nên dân chúng đã hiểu và biết nhiều về các CĐ CS nhờ có
    thông tin nhiều chiều = Radio – DT D Đ thông minh , máy tính bản , laptop ,dịch vụ Internet công cộng thì dân VN mới mở mắt , mở mồm nhiều hơn thời bao cấp như Bắc Triều Tiên hiện nay
    Vừa rồi VN họp HN TƯ 7 kín như bưng , nhưng thông tin rò rĩ ra ngoài nhanh hơn báo lề đảng đến 7 ngày nhờ báo lề dân trên mạng …. Người dân VN hiện nay nếu nghèo đói và mù thông tin như hủ nút , vì cđcs sợ thông tin thật như cú vọ sợ ánh sáng , quan chức không bao giờ chịu đối thọại , phản biện với dân chúng giới trí thức từ ông TBT đến ông chủ tịch xã phường . Chỉ có dùng quyền cưỡng bức , đàn áp là thượng sách .
    Muốn cđcs suy yếu trước hết phải tìm cách sống chung với cs mới hiểu rõ sự thật .
    Thượng tá tám Hà sĩ quan cs đã chiêu hồi tết Mậu Thân 1968 đã nói , muốn hiểu biết bản chất cs phải có thòi gian sống chung với cs . Cộng sản nói dzậy nhưng không phải dzậy …

  10. hồlytinh says:

    Có ai nói anh chống cộng đâu mà SỢ mà hùng hổ thanh minh hà anh nguyểnhưngquốc.Anh chống hay không chống ,thì tình trạng vẩn thế. Vẩn có phần đông hay nói rỏ là hầu hết người TNCS vẩn còn mang lý tưởng chống cộng ,đói lại tự do dân chủ cho vn ,đòi công bằng chân lý ,nhân quyền cho người dân vn. Anh không chống cộng thì “chợ chống cộng”vẩn đông . Không có Anh thì củng còn nhiều người khác ,trí thức ,tri thức và có nhiều kinh nghiệm chống cộng hơn anh ,vì lẻ là họ đều đả kinh qua sự cai trị bằng máu và nước mặt từ thơi có cs ,thời 54 và suốt 20 năm miền Nam kiên trì chiến đấu với CS,từ khi anh chưa ra đời,họ đả bảo vệ gia đình anh vá anh và cho các anh được hương tự do dân chủ nhân quyền mặc dù đất nước đang ra sức chống bọn quỉ đỏ (VC) Và phải nói ,một cách tiêu cực ràng ,họ ,nhờ họ ,anh mới có mặt ,có là trí thức ,có là công dân của một nước Úc tự do như hôm nay. Nhưng người vntncs không vì thế mà coi lời anh nói,tuyên ngôn anh đọc viết :”tôi không chống cộng” là một sự việc quan trọng . Không có anh nơi này vẩn thế, Có anh ,con người cao ngạo ,muốn đứng riêng ,muốn không là một trong nhửng người chống cộng ,muốn tách ra ,muốn cao hơn,có lẻ, đôi khi còn làm trở ngại cho người chống cộng ,vì như người đang di trên đương tự do dân chủ mà vấp phải cục đá làm đau chân như nhưng cục đá nguyểnphươnghùng ,.đinhviếttứ,thầy chùa thíchphápcâu,phùngtệch6au và cái nhóm trẻ phản bội lại cha ông chúng đang ở trong báo người việt ,việt weekly…Còn anh tưởng làm vậy là có uy tín với CS,và với nhửng người trở cờ sẻ hoannghinh,coi anh là anhhùng thời đại thì ,xin lổi,cón lâu lắm.
    Không ai nói vi anh chống cộng nên 2 lần dẩn sinh ìên Úc về VN học hỏi với tụi vc (riệng anh thì du hí với bạn bè,ba hoa với bọn cán bộ xả ấp ,ca cs (bạn củng học )đều bị đuồi về Úc (tuị VC khôn ,đuồi anh thôi,còn cho sv nhập cảnh. Có lợi chớ phải không ?)thì người ta biết củng vì anh nói ra ,anh oán trách cs sao không cho anh về mà thôi. Có người nói là anh có lẻ viết một bài về sử cận kim động chạm tới vc (nhạy cảm) chớ có ai nói nhq chống cộng,hayhoạt đông chống cộntrong CĐTN ở Úc đâu. (Úc biểu tình chống cộng không nghe đề cập tớ nhq)Nhưng họ có thắc mắc sau vu6 không cho anh nhập cảnh của vc là sao vc đối xử với con người mà năm nào củng đem sv vè vn ,tuyên truyền cho Vn vây ? VC đối xử tệ vơí anh tệ quá !
    À mà có phải vì vậy ,mà sau bao năm ngậm đắng nuốt cay nay mới tự biện bạch dểgiải được cái oan (dân trí thức bị vc chụp mủ oanuống) này qua ĐCV mà có lẻ người trong nước đọc nhiều ,kể cả CA.(nếu không sao cho CAM “phá”) nên muốn cho lảnh đạo biết,anh củng là như phạmduy chả hạn .Nhưng nếu vậy thì hơi cao ngạo . Có thể trở cờ phản bội qg thì gióng nhưng về danh tiếng caá nhân ,cđ biết nhiều,thì còn lâu .Đợi thơi gian đi anh Hưng.Có ý nghỉ là có lẻ lúc uống say quá,anh viết được bài văn “tuyệtphẩm” thú nhận rằng “tôi,Nghuyểnhưngquốc,gsđhÚc ,là người Úc, KHÔNG CHỐNG CỘNG ĐÂU..
    …..Xin Giải Oan cho GS NHQ là “người” không chống cộng là không chống cộng.”..tt.íx-xờ ơi (chỉ thị dành mọi ưu tiên cho nhq củng như nhliêm,nguyểnphương hùng và đồng bọn)
    (hlt)

Phản hồi