WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Cờ đỏ, cờ vàng và hòa giải

HHHGTháng 8-2001, tôi ghé thăm một phóng viên báo Tuổi Trẻ đang học báo chí ở đại học Fullerton, California. Cô khoe, nhóm sinh viên đến từ Việt Nam vừa đấu tranh thành công để cờ đỏ sao vàng được treo ở trại hè do trường tổ chức.

Cuộc tranh giành màu cờ tại Fullerton trở nên kịch tính trong năm 2004 khi nhóm sinh viên gốc Việt tuyên bố không tham dự lễ ra trường nếu cờ đỏ sao vàng được sử dụng theo yêu cầu của các sinh viên đến từ Việt Nam. Trường Fullerton phải chọn giải pháp không treo cờ của nước nào trong lễ tốt nghiệp.

Phần lớn người Việt đến Mỹ phải lao động, học tập để vươn lên, họ không có nhiều thời gian để “care” (quan tâm) đến chính trị Việt Nam. Tháng 7-1995, khi Hà Nội và Washington thiết lập bang giao, cờ đỏ sao vàng chính thức được kéo lên trên đất Mỹ. Thật dễ hiểu khi những người Việt vượt biển trên những chiếc thuyền con, những người Việt đã nằm 15 năm, 17 năm trong các trại cải tạo, từ chối đứng dưới cờ đỏ sao vàng.

Nhưng phản ứng chỉ bắt đầu quyết liệt vào năm năm 1999, khi một người đàn ông sống tại Little Sai Gon, tên là Trần Văn Trường, cho treo trước cửa tiệm ảnh Hồ Chí Minh cùng cờ đỏ sao vàng. Cộng đồng người Việt đã biểu tình liên tục trong suốt 53 ngày để phản đối. Từ California, “chiến dịch Cờ Vàng” bắt đầu, dẫn đến việc 14 tiểu bang, gần 100 thành phố công nhận cờ vàng ba sọc đỏ như một biểu tượng của cộng đồng gốc Việt.

Cờ vàng không chỉ xuất hiện ở Mỹ.

Từ giữa thập niên 1990, nhiều nhà lãnh đạo của Hà Nội phản ứng gay gắt khi trong các chuyến công du thấy “quần chúng đón rước” không dùng cờ đỏ sao vàng mà chỉ dùng cờ vàng ba sọc đỏ. Không phải quan chức Việt Nam nào cũng hiểu chính quyền sở tại không (dại gì) đứng sau những nhóm quần chúng tự phát đó. Cho tới năm 2004, các nhà ngoại giao Việt Nam ở Mỹ vẫn mất rất nhiều công sức để ngăn chặn chính quyền các tiểu bang công nhận cờ vàng.

Việc chính quyền tiểu bang công nhận cờ vàng chỉ là một động thái đối nội. Nhà nước Việt Nam Cộng hòa rõ ràng không còn tồn tại, chính quyền Mỹ bang giao với nhà nước CHXHCN Việt Nam và công nhận cờ đỏ sao vàng. Nhưng, chính quyền Mỹ không thể ngăn cản cộng đồng người Mỹ gốc Việt chọn cho mình biểu tượng.

Một quan chức Việt Nam và thậm chí một thường dân đang cầm hộ chiếu nước CHXHCN Việt Nam, trong một nghi lễ chính thức, có quyền chỉ đứng dưới cờ đỏ sao vàng. Nhưng, một quan chức đi làm “kiều vận” mà không dám bước vào một ngôi nhà có treo cờ vàng thì sẽ không thể nào bước vào cộng đồng người Việt. Tất nhiên, bất cứ thành công nào cũng cần nỗ lực từ nhiều phía.

Năm 2006, tôi gặp lại cô bạn phóng viên Tuổi Trẻ từng học ở Fullerton. Nhà cô vào giờ đó thay vì treo cờ đỏ sao vàng, góc nào cũng tràn ngập cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi chưa kịp tìm hiểu đó là sự lựa chọn mới của cô hay đó là cách để có thể hòa nhập vào “cộng đồng”.

Năm 2008, “cộng đồng người Việt Cali” đã biểu tình kéo dài khi người phụ trách tòa soạn tờ Người Việt, Vũ Quý Hạo Nhiên, cho in tấm hình chụp một cái bồn ngâm chân có in biểu tượng cờ vàng. Hạo Nhiên, thêm sự cố 2012, đã phải ra đi và biết chắc khó lòng quay trở lại. Biểu tình năm 1999, cho dù là “ôn hòa”, cũng đã khiến cho Trần Văn Trường phải chạy về Việt Nam.

Cờ đỏ sao vàng khó có thể xuất hiện ở California cho dù ở đó có xuất hiện một cộng đồng người Việt đến từ miền Bắc.

Nếu như nhiều người dân miền Nam trước đây tin cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của tự do thì đối với phần lớn người dân miền Bắc và thế hệ trẻ hiện nay ở miền Nam, cờ đỏ sao vàng không hẳn là biểu tượng của chế độ mà là biểu tượng quốc gia. Nhiều người đã đứng dưới lá cờ ấy để đấu tranh cho điều mà họ tin là độc lập, tự do; nhiều người đã theo lá cờ ấy mà không phải là cộng sản.

Nhiều người dân trong nước vẫn dùng cờ đỏ khi bày tỏ lòng yêu nước.

Tất nhiên cũng cần phân biệt hành động của một số kẻ cực đoan (chống lại cờ đỏ sao vàng) với hành vi của những quan chức chính quyền. Ngăn cản những du học sinh đến từ Việt Nam sử dụng cờ đỏ sao vàng cũng là một việc làm phi dân chủ. Những người hiểu được các giá trị của tự do không thể ngăn cản người khác đứng dưới một lá cờ mà mình không thích.

Nhiều người Mỹ vẫn treo cờ miền Nam cho tới ngày nay cho dù nội chiến Bắc – Nam đã kết thúc từ năm 1865. Thật khó để nghĩ tới tình huống người dân miền Nam Việt Nam được phép treo cờ vàng sau ngày 30-4-1975. Cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm không chỉ thống nhất non sông mà còn để áp đặt ý thức hệ cộng sản lên người dân Việt. Một thời, phải “yêu chủ nghĩa xã hội” mới được Đảng công nhận là yêu nước. Ngay lá cờ nửa đỏ nửa xanh của “mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam” một tổ chức do Đảng cộng sản lập ra cũng đã biến mất chỉ sau mấy tháng.

Nhiều người Việt Nam nghĩ, làm biến mất lá cờ vàng ba sọc đỏ là khôn ngoan. Nhiều người cho rằng lá cờ đó thuộc về một chính thể không còn tồn tại và là biểu tượng của một sự thất bại. Nhiều người được dạy, lá cờ đó gắn liền với những xấu xa như là “Việt gian, bán nước”.

Cuối năm 2012, sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha bị bắt khi rải truyền đơn ở Long An có kèm theo biểu tượng cờ vàng.

Chúng ta không có đủ thông tin để khẳng định Phương Uyên và Nguyên Kha chủ động chọn lá cờ này hay được hướng dẫn “bởi các thế lực bên ngoài”. Cho dù lá cờ ấy đến từ bên nào cũng cho thấy cờ vàng đã không biến mất như nhiều người mong muốn. Cho dù không ai biết được lá cờ nào sẽ được chọn trong tương lai, sự trở lại của cờ vàng buộc chúng ta phải thừa nhận, trong nội bộ người Việt với nhau còn bao gồm cả người Việt Nam quốc gia và người Việt Nam cộng sản.

Và, trong không gian nước Việt cũng không chỉ có người Việt.

Chín mươi triệu người dân Việt Nam rõ ràng không phải là “con một cha, nhà một nóc”. Khi “mở cõi” xuống phía Nam, các bậc tiền bối đã từng mang cuốc nhưng cũng đã từng mang gươm.

Người dân thuộc các dân tộc Tây Nguyên và những bộ tộc Chăm chưa hẳn không còn nghĩ tới đế chế Champa. Những chính khách đối lập ở Campuchia vẫn thường khai thác chủ nghĩa dân tộc cực đoan khi nhắc Sài Gòn và một số tỉnh miền Tây một thời là đất đai của họ…

Sự khác biệt đó trong cộng đồng Việt Nam có thể là những mối đe dọa, đồng thời, cũng là nền móng để xây xựng một Việt Nam thống nhất mà đa dạng. Một quốc gia sẽ trở nên vững mạnh khi sự đa dạng được thừa nhận. Một quốc gia cũng có thể rơi vào sự hỗn loạn hoặc không thể phát triển nếu sự thống nhất bị phá vỡ.

Nhưng, thống nhất quốc gia mà không dựa trên nền tảng hòa giải quốc gia thì sự thống nhất đó chỉ là tạm thời. Thống nhất quốc gia mà bằng cách ém nhẹm lịch sử và dùng vũ lực để dập tắt sự trỗi dậy của những sự khác biệt thì chẳng khác nào gài vào thế hệ tương lai một trái bom.

Nam Tư thời Tito được coi là thịnh trị, các cuộc nổi dậy đều bị dập tắt. Nhưng, ngay những ngày đầu thời hậu Tito, nước Nam Tư bắt đầu rơi vào một thập niên xung đột. Các sắc tộc chém giết lẫn nhau, cơ cấu liên bang sụp đổ. Không chỉ có Nam Tư, Indonesia hồi thập niên 1990 và Myanmar hiện nay cũng đang diễn ra những điều tương tự.

Đừng sợ những người Khmer ở miền Tây sẽ đòi mang đất về Campuchia trừ khi Việt Nam kém phát triển và ít tự do, dân chủ, hơn quá nhiều so với Campuchia. Không có người dân Arizona nào không biết đất ấy từng thuộc về Mexico nhưng không ai đòi đưa Arizona trả về cho “đất mẹ”. Ranh giới quốc gia càng ngày càng trở nên mong manh. Ở đâu có cơm no áo ấm hơn, ở đâu có tự do hơn, thì người dân sẽ chọn.

Sự khác biệt và đa dạng lúc nào cũng có thể bị kích động bởi các thế lực cực đoan. Không phải độc tài, toàn trị mà theo kinh nghiệm của những quốc gia thành công, càng nhiều tự do thì càng tránh cho sự khác biệt đó trở thành xung đột.

Tiến trình tự do cũng phải mất thời gian để thuyết phục không chỉ với những người đang cầm quyền mà cả những người dân bình thường và những thành viên trên facebook này. Trong ngày 30-4, có thể nhiều người không muốn treo cờ đỏ sao vàng (khi bị tổ dân phố yêu cầu) nhưng chính họ, chưa chắc đã hài lòng khi nhà hàng xóm treo cờ vàng ba sọc đỏ. Vấn đề là chính quyền phải làm sao để mọi phản ứng đều phải ở dưới hình thức ôn hòa.

Câu chuyện đốt cờ Mỹ sau đây có thể giúp ta có thêm thời gian suy nghĩ.

Nhiều thập niên sau nội chiến (1861-1865) nhiều người Mỹ lo ngại giá trị quốc kỳ bị giảm khi nó được các thương gia dùng để vẽ logo và đặc biệt khi nhiều người da trắng ở miền Nam thích treo cờ miền Nam (Confederate flag) hơn. Để phản ứng lại điều này, 48 tiểu bang của Hoa Kỳ đã thông qua luật cấm mạo phạm quốc kỳ, các hành động như xé, đốt, dùng cờ để quảng cáo… đều bị cấm.

Năm1905, Halter đã bị tòa tiểu bang buộc tội “khi kỳ” khi bán những chai bia có in cờ Mỹ. Năm 1907, Halter tiếp tục thua kiện ở Tối cao pháp viện.

Cho tới năm 1968, Quốc hội Mỹ vẫn thông qua luật cấm “đụng chạm” tới quốc kỳ sau khi một nhóm người Mỹ chống chiến tranh Việt Nam đốt cờ ở Central Park. Nhưng một năm sau đó, khi nghe tin cảnh sát bắn James Meredith, một nhà hoạt động dân quyền, Sydney Street đã đốt một lá cờ Mỹ ở một ngã tư của New York. Ông bị bắt và bị buộc tội “khi kỳ”.

Sydney Street kháng án vì cho rằng: “Nếu cảnh sát làm điều đó với Maredith chúng ta không cần lá cờ Mỹ”. Tối cao pháp viện đã bác án của tòa New York vì, Hiến pháp bảo vệ quyền bày tỏ chính kiến khác nhau, bao gồm cả quyền thách thức hay khinh thường quốc kỳ.

Cuộc đấu tranh đã không dừng lại.

Năm 1972, một học sinh ở Massachusetts, Goquen, bị bắt, bị xử 6 tháng tù khi may một cờ Mỹ ở đít quần. Nội vụ được chuyển lên Tối cao pháp viện. Tối cao pháp viện tuyên bố luật tiểu bang (dùng để xử Goquen) là vi hiến. Các vị thẩm phán Tối cao cho rằng, trong một quốc gia đa văn hóa, có những hành động mà người này cho là “khinh ” thì người kia lại cho là trân trọng, cho nên, chính phủ không có quyền bảo người dân phải bày tỏ thái độ, ý kiến theo cách nào.

Năm 1984, để phản đối các chính sách của Tổng thống Reagan, Lee Johnson đã nhúng dầu và đốt một lá cờ trước cửa cung đại hội của đảng Cộng hòa. Ông bị bắt, bị xử tù 1 năm và phải nộp phạt 2.000 dollars. Tòa tối cao tiểu bang Texas bảo vệ Johnson và cho rằng tòa án cấp dưới sai khi coi hành vi “gây xáo trộn xã hội” của Johnson là “tội”. Theo Tòa tối cao Texas: Tạo ra sự bất ổn, tạo ra sự xáo trộn, thậm chí tạo ra sự giận dữ của người dân là cần thiết, vì chỉ khi đó chính phủ mới biết rõ nhất chính kiến người dân.

Vụ việc dẫn tới, năm1989, Tối cao pháp viện Mỹ quyết định bãi bỏ các luật cấm đốt cờ ở 48 tiểu bang. Các quan tòa đưa ra phán quyết này giải thích rằng, nếu tự do bày tỏ chính kiến là có thật nó phải bao gồm cả tự do bày tỏ những ý kiến mà người khác không đồng ý, hoặc làm người khác khó chịu. Ngay cả thái độ với quốc kỳ, chính phủ cũng không có quyền bắt người dân chỉ được gửi đi những thông điệp ôn hòa và không làm cho ai khó chịu. Cuộc tranh cãi kéo dài tới nhiều năm sau, Quốc hội Mỹ có thêm 7 lần dự thảo tu chính án để chống lại phán quyết này nhưng đều thất bại.

Việc để cho người dân treo lá cờ cũ của phe bại trận miền Nam, việc để cho người dân quyền được bày tỏ thái độ, kể cả bằng cách đốt cờ, đã không làm cho giá trị quốc kỳ của Hoa Kỳ giảm xuống.

Những điều trên đây rõ ràng chưa thể xảy ra ở Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng không nên coi đấy là độc quyền của Mỹ. Người dân Việt Nam cũng xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Người dân Việt Nam, dù là Việt hay H’mong, dù là Khmer hay Chăm… cũng xứng đáng được gìn giữ và phát triển sự khác biệt của mình. Người Việt Nam, dù là cộng sản hay quốc gia, cũng xứng đáng có quyền bày tỏ những gì mà mình tin tưởng.

Không thể có tự do trong một chế độc tài toàn trị. Nhưng, tự do cũng không thể có nếu như mỗi người dân không tự nhận ra đó là quyền của mình. Bạn không thể hành động như một người tự do nếu không bắt đầu bằng tự do trong chính tư duy của bạn.

Huy Đức

Nguồn: FB Osin HuyDuc

227 Phản hồi cho “Cờ đỏ, cờ vàng và hòa giải”

  1. NguyenVu says:

    Nguyen Vu – 31/05/2013 18:02
    CCCĐ muốn viết lại lịch sử cho những người thích làm tai sai, bán nước, nô lệ, phản quốc … học đó mà! Cờ Vàng QGVN (cũng là cờ Vàng VNCH) do Pháp, Vatican dựng nên để chà đạp, tàn sát, bức hại đồng bào … Họ coi Pháp, Vatican là “Mẫu quốc” … rồi “Mẫu quốc” thua thê thảm “buộc lòng” phải “bàn giao” cờ Vàng cho “chủ nợ” Mỹ dựng 3 đời Việt gian bán nước Ngô Đình Diệm (VNCH) tiếp tay cho tội ác phá Hiệp định Giơnevơ … tiếp tục tàn sát, bức hại đồng bào … và chia cắt đất nước. Với Họ, chỉ có biết “Mẫu quốc”, “BU Mỹ”, chạy theo “cường quyền” để được “bố thí” bằng những đồng tiền “nhơ bẩn” trên xương, máu của đồng bào mình … Họ không bao giờ biết quê cha, đất tổ, lịch sử 4000 văn hiến … Họ luôn tham “bả vinh sang, mùi phú quý” sẳn sàng làm nô lệ, tai sai cho “bọn ác, quỷ dữ” … vì một chút lợi danh. Đối với Họ, những người yêu nước chống Pháp được lịch sử dân tộc tạc dạ, ghi ơn … nào có nghĩa gì? Ôi! Họ có lương tâm đâu mà “cắn rứt”?, có quê cha, đất tổ đâu mà “giữ gìn”?, có đồng bào đâu mà yêu thương? … cơ chứ! Vậy mà, Họ còn tự hào, khoe khoang, khoát lát … kiếp làm “trâu, ngựa” cho ngoại bang. Nhiều người tự hỏi CCCĐ có phải là người không (là người ai làm vậy)? Có phải là thú vật không (thú vật cũng còn biết bảo vệ lãnh địa khi bị xâm phạm)? … Vậy, CCCĐ là giống gì? Có ai trả lời được không? Bó tay../.

  2. Thắc-Mắc says:

    Tôi cũng đã có một hay phản-hồi rồi, nhưng chợt nhớ ra một việc : Tác-giả bài này, vốn cũng là tác-giả hai tập sách ‘ Bên Thắng Cuộc ‘ vừa qua với khá nhiều tranh-cãi, bênh có chống có, dù rằng giá-trị có tính-chất lịch-sử (historical) của sách này thực-chất không có gì, vì không được hệ-thống-hóa, thiếu khách-quan-tính – nghe kể rồi viết ra, không phải là dữ-liệu lịch-sử, v.v…(không phải là lúc phân-tích chi-tiết ) – thì bài viết này ‘ cờ đỏ cờ vàng và hòa-giải ‘ cũng giúp tác-giả thành-công it nhất về một mặt nào đó, như kết-quả không thể phủ-nhận được của hai tập sách nêu trên.
    Tôi tạm không nêu ra câu hỏi vì sao đề-tài của bài này, cùng bài viết này được tác-giả gởi và được posted trên diễn-đàn này. Tôi chỉ muốn đặt lại vấn-đề mà phản-hồi cách đây it ngày của tôi có nêu ra. Đó là giả-thử chính-quyền CSVN sẽ cho phép cờ vàng được tự-do treo khắp nơi tại VN – trừ các công-sở, và không phải là quốc-kỳ – các bạn nghĩ sao ? Vì vậy, để vắn-tắt, qua đọc hầu hết những phản-hồi hầu như chỉ tranh-cãi ý-nghĩa, vị-trí, lịch-sử của màu cờ, tôi có suy-nghĩ rằng bất kỳ màu cờ nào, cờ của vua Quang Trung (cờ đào) hay cờ của Hai Bà Trưng (cờ vàng), v.v…, cờ vàng ba sọc đỏ hay cờ đỏ sao vàng chỉ là phương-tiện cho những người dùng chúng. Quang-Trung dùng cờ đào – không ai chê màu cờ đó của vị anh-hùng kiệt-liệt, uy-dũng-đức có thừa này. Vậy thì, cho dù một ngày nào đó, CSVN với chính-quyền VN trong tay chúng, có nhượng-bộ, hòa-giải hòa-hợp nhưng thế-lực còn mạnh, còn thao-túng toàn-trị tại VN, mà chấp-nhận cờ vàng với giới-hạn nào đó, thì rõ-ràng màu cờ không phải là đề-tài đáng bàn đến, mà chúng ta phải nhắm thẳng vào chúng, vào bản-chất độc-tài gian-ác của chúng, là CSVN, là CSTQ vốn là thầy chúng.
    Nói vậy không phải là tôi muốn tách riêng việc duy-trì màu cờ vàng của Cộng-Đồng NVHN khỏi tinh-thần đấu tranh chống CSVN hiện nay. Tôi không muốn lập lại những điều tôi đã viết qua phản-hồi của tôi it ngày trước trong đó tôi đã nêu ra những lý-do mà CĐNVHN – it nhất cũng là ý-kiến của riêng tôi – duy-trì màu cờ vàng mà hai nền Cộng-Hòa của miền Nam VN đã không tiếc máu xương bảo-vệ -

  3. noileo says:

    Các “bạn trẻ” nông cạn về tinh thần tự do dân chủ, các bạn đang phá hoại nền tự do dân chủ mà bao nhiêu thế hệ người đã hy sinh đấu tranh mới dành được sự Độc Lập – Tự Do của tổ quốc. (nick VOA)

    “Độc lập & Tư do & Hạnh phúc” dưới triều đại cộng sản Hồ chí Minh, dưới lá cờ đỏ sao vàng, là điều dành riêng cho cộng sản,

    “Độc lập & Tư do & Hạnh phúc” dưới triều đại cộng sản Hồ chí Minh, dưới lá cờ đỏ sao vàng, là độc lập tụ do hạnh phúc cho riêng thành phần đảng viên cộng sản có chức có quyền,

    “Độc lập & Tư do & Hạnh phúc” dưới triều đại cộng sản Hồ chí Minh, dưới lá cờ đỏ sao vàng, là độc lập tụ do hạnh phúc dành riêng cho Hồ chí Minh – the serial killer, Võ nguyên Giáp – chuyên gia ám sát chính trị, Phạm Văn Đồng – chuyên nghề ký văn tự bán nước, Lê Duẩn – lính đánh thuê “chúng ta đánh đây là đánh cho các đồng chí Liên xô & Trung quốc”, và các đầu đà Việt cộng khác .

    “Độc lập & Tư do & Hạnh phúc” dưới triều đại cộng sản Hồ chí Minh, dưới lá cờ đỏ sao vàng, không phải là điều dành cho người dân, không phải là điều dành cho đất nước dân tộc VN.

    “độc lạp & tự do & hạnh phúc” dưới triều đại Hồ chí Minh, dưới lá cờ đỏ sao vàng, là nỗi chết, là triền miên những chia cắt, những chết tróc, những khổ đau, những tang thương, những chiến tranh, đói nghèo, nhục nhằn, chiến tranh, đàn áp, trấn lột, nô lệ Tàu cộng…, dành cho đất nước dân tộc VN

    Với cái độc lập tự do hạnh phúc ếch cơ lu xi vơ cho cộng sản, bọn cộng sản VNDCCH, suốt trên 68 năm qua, kể từ cuộc phản bội tháng 8-1945, khi bọn cộng sản cướp quyền nước VN, đặt quyển nước Vn vào tay bọn cộng sản Hồ chí minh & VNDCCH vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng, phi nhân, phản quốc, phản dân tộc…, cho đến nay,

    kể từ Hồ chí Minh 1945-1969, đến Lê Duẩn 1969-1989, đến Nguyễn Văn Linh 1990, đến Lê Khả Phiêu 2000, đến Nông Đức Mạnh, đến Nguyễn Phú Trọng 2013, bọn cộng sản Hồ chí Minh tha hồ độc lập tự do hạnh phúc khấu đầu làm nô lệ Nga tàu cộng, đàn áp trí thức, trấn lột dân nghèo, mãi quốc cầu vinh, ăn cắp quốc khố …

    “độc lạp & tự do & hạnh phúc” dưới triều đại Hồ chí Minh, dưới lá cờ đỏ sao vàng, là nỗi chết, là triền miên những chia cắt, những chết tróc, những khổ đau, những tang thương, những chiến tranh, đói nghèo, nhục nhằn, chiến tranh, đàn áp, trấn lột, nô lệ Tàu cộng… mà bọn cộng sản Hồ chí Minh & VNDCCH vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng, reo rắc xuống nhân dân đất nước VN

  4. Chánh Tâm says:

    Không rõ ông cựu SVTĐ trước 75 ở Sàigòn là người đã hối hận thật hay chỉ viết theo yêu cầu của tình thế (?) của ông lúc bấy giờ. Ông viết bài phản tỉnh nầy năm 1981, “nhưng” vào đầu thập niên 90 ông đã bị thương nặng do ai đó ám sát ở California. Trong thời gian đó cũng có nghe nói rằng ông có tuyên bố gì đó (?) liên quan đến chương trình tái định cư tại Hoa Kỳ cho các “Cựu Tù Nhân Chính Trị VN” dưới chế độ csVN sau 75 đã được csVN thả ra; lời tuyên bố dường như không có lợi cho anh em thuộc diện của chương trình nầy. Rất tiếc cho một người có học mà cứ chạy theo thời nên gánh chịu nhiều hệ lụy. Phải chăng đây cũng là số kiếp của mỗi người!

  5. Cờ đỏ lòm says:

    Cờ vàng, cờ tím, cờ xanh…là cờ nhân bản
    Cờ đỏ lòm là cờ máu, cờ chém giết, là cờ mọi rợ…đã hết thời chỉ còn thoi thóp chừng năm mười năm nữa

  6. tiger says:

    Tiger chi nho la anh cho biet co du sinh vien nao do tranh dau thanh cong trong viec duoc treo co MAU trong ngay le Tot Nghiep ! Va nhom sinh vien goc Viet phan doi se khong di du le man khoa neu treo co MAU ! Dung thoi ! Cac sinh vien goc Viet tai My la con chau cua nhung nguoi Viet QG ! Khong phai la con chau cua nhung gia dinh CS ! Con chau cua nhung can bo To cua CS moi co co hoi di DU HOC ! Lam 1 can bo chuc vi TO den may cung khong the cho con minh di Du Hoc voi dong luong Chinh Qui ! THAM NHUNG ! Hon nua , cac Du Sinh do khong co quyen doi hoi duoc treo co MAU vao ngay le Tot Nghiep tren dat MY ! Ho tot nghiep o MY hay o VN ????

  7. nguenha says:

    Cờ Vàng = Cờ Thiện
    Cờ Đỏ = Cờ Ác
    Cờ vàng,cờ Đỏ: Ai thích Thiện thì yêu Cờ vàng.Ai thích đâm-chém thì yêu Cờ Đỏ. Ai có lý do hay hơn cho bà con biết !!!

    • Bút Thép VN says:

      Chí lý!
      Đồng ý!

    • Thở than says:

      Người ác khóac aó vàng vẫn ác;ngừơi thiện mặc áo đỏ vẫn thiện.
      “thiện tâm ở tại lòng ta”
      Cờ vàng,cờ đỏ,thì ra ý đồ

      • Bút Thép VN says:

        Đúng là “thiện tâm ở tại lòng ta khi: “Người ác khóac aó vàng vẫn ác;ngừơi thiện mặc áo đỏ vẫn thiện.

        Nhưng người thiện thì sẽ không bao giờ đứng dưới cờ đỏ sắt máu, còn kẻ ác thì nhất định không ưa cờ vàng. ÁC – THIỆN phân minh là ở chỗ đó!

  8. nvtncs says:

    Gửi cho Huy Đức và đảng viên ĐCSVN:

    ” DIỄN ĐÀN Thổn thức cho Việt Nam – Đoàn Văn Toại
    Thổn thức cho Việt Nam – Đoàn Văn Toại
    Đoàn Văn Toại là một trong một số người trong Ban Chấp Hành của Tổng Hội Sinh Viên Sài gòn vào những năm cuối thập niên 1960-1970. Mê muội tin vào những lời tuyên truyền của Cộng sản, ông Toại gia nhập làm cán bộ nằm vùng, hoạt động cho họ. Lợi dụng sinh hoạt dân chủ của chánh quyền VNCH, tuân theo lệnh của CS, ông hô hào, phát động những cuộc xuống đường, biểu tình chống đối chánh quyền đương thời. Đến khi chiếm xong Miền Nam, bộ mặt thật, bản chất thật của CSBV đã lộ thật rõ: tàn ác, dã man, gian trá, cướp bóc đã làm cho ông và những người đồng chí của ông vỡ mộng. Chính ông và những đồng chí của ông khám phá thêm bản chất vô lương cùng thành tích giết, và sẵn sàng giết với chủ trương “giết lầm hơn bỏ sót” của CS. May cho ông và một một số đồng chí của ông đã đạt được ước nguyện thoát thân.
    So với những người trong nhóm, sau khi đến bến bờ tự do, ông Toại còn chút lương tri của con người, đã can đảm lên tiếng thú nhận sự ngây thơ, mù quáng và bài học kinh nghiệm CS của mình. Tuy lời trần tình sám hối nầy được viết và đăng trên New York Time khá lâu, nhưng nhân đại Hội Việt Kiều được CS Hà Nội vừa tổ chức năm 2009, lời mật ngọt, ma mánh của chúng vẫn còn mê hoặc được một số người nên chúng tôi xin đăng lại bài học ê chề của một người trong cuộc. Bản chất thật của CS không bao giờ thay đổi, “con tắc kè” có thể thay đổi màu nhưng bản chất xù xì của nó vẫn còn nguyên vẹn. (CTNB)

    Thổn thức cho Việt Nam

    Đoàn Văn Toại

    Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam.

    Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?

    Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.

    Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.

    Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.

    Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình.

    Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.

    Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).

    Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ nhiên.

    Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức. Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.

    Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra. Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN.

    Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.

    Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.

    Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.” Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!

    Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.

    Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.

    Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.

    Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo. Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.

    Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam.

    Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.

    Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam.Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:
    ‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
    Yêu biết mấy, nghe con tập nói
    Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
    Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
    Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
    Thương cha, thương mẹ, thương chồng
    Thương mình thương một, thương ông thương mười.’

    (Đời đời nhớ ông – Tố Hữu).

    Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.

    Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.

    Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”.

    Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.

    Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles. Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury, “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam.

    Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê Duẩn đã nói, “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.

    Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.

    Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.

    Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.

    Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo. “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.

    Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị, “Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.

    Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.

    Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.

    Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã kết luận, “Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.

    Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu.

    Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi, ‘Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.

    Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.

    Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.
    Đoàn Văn Toại
    Felix lược dịch
    ——————————————————————————–
    Nguồn: A Lament for Vietnam, The New York Times, March 29, 1981

    March 29, 1981″
    Nguồn: http://www.caotraonhanban.org/index.php?option=com_content&view=article&id=519:thn-thc-cho-vit-nam-am-vn-toi&catid=19:din-an-t-do&Itemid=25

    • dũng says:

      Chào bác Toại!

      Con tên Dũng, năm nay 30 tuổi, đang sống tại Sài Gòn. Con mạn phép xin nói chuyện vài lời với bác, có thể có nhiều điều mạo phạm nhưng con xin bác hãy thứ lỗi cho con.
      Thưa bác, con biết bác giờ đây đang rất hối tiếc với quá khứ mà bác vừa là chứng nhân vừa là một trong những ‘tội đồ” của dân tộc. Bác đã góp một phần vào sự sụp đổ của chính thể VNCH, một chính thể tuy còn nhiều khiếm khuyết do hoàn cảnh lịch sử nhưng là nền tảng, là cơ sở để một nước Việt Nam là của “quốc gia”, của nhân dân, tiếp nối những giá trị dân tộc trường tồn qua 4.000 năm văn hiến.
      Thưa bác, con biết bác có những nỗi khổ và day dứt. Không có tâm trạng này làm sao được khi vì sự “ngây thơ” của bác trước những luận điệu dụ dỗ, xuyên tạc, lừa phỉnh cả một thế hệ yêu nước nhưng ngờ nghệch và “đứng núi này trông núi nọ” của Cộng Sản – bậc thầy về chiêu dụ và bạo tàn mà đang tâm ủng hộ bí mật cho một bạo quyền đang chiến đấu quyết liệt để “nuốt chửng” miền nam.
      Con hiểu không chỉ riêng bác mà nhiều người khác có tri thức, tài năng với tấm lòng yêu nước đã ủng hộ cho CS. Bác không hài lòng với chế độ Thiệu? Vậy khi ấy bác trông chờ vào ai để vực dậy Việt Nam đang mịt mù khói lửa chiến tranh? Cộng Sản ư? Ông Thiệu đã từng nói “đừng tin những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm”, ít ra thì TT Thiệu đã viễn kiến nhìn ra bản chất của CS vì ông đã có thời gian sống với CS. Bác đã đấu tranh cho một cái mộng tưởng mơ hồ mà nói một cách quyết liệt hơn đó là “hoang tưởng”. Bác đã sống một ngày nào với CS chưa? Bác đọc chủ thuyết Mác-Lê chưa? Bác nghĩ vì sao hàng triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam là vì sao chưa? Bác có suy nghĩ về hàng ngàn người dân Huế bị tàn sát trong Mậu Thân 1968? Bác có chứng kiến hàng vạn người dân bỏ sát trên “Đại lộ kinh hoàng” vì pháo kích của CS – Mùa hè đỏ lửa 1972,…. Có người nói “thông minh + đạo đức = không CS”, “thông minh = CS – đạo đức” hay “đạo đức = CS – thông minh”. Vậy hàng triệu thanh niên Việt đã mê muội hoặc gian ngoan để đi theo con đường CS, thật tiếc thay.
      Thưa bác, con rất muốn giải bày nhiều hơn về suy nghĩ của con nhưng thời gian không cho phép. Con mong bác hãy vơi đi những muộn phiền và hối tiếc về những sai lầm trong quá khứ của bác. Con cầu chúc bác và gia đình luôn mạnh khỏe.

      Con, Dũng

      • Thắc-Mắc says:

        Dear Dũng,
        Nếu tôi không lầm thì bác Toại của Dũng đã đi gặp-gỡ bác Hồ của ông ấy từ khuya rồi. Nếu là vậy, thì dù có ăn-năn cách mấy, chàng SV tranh-đấu của cuối thập-niên 60 và đầu thập-niên 70, ĐVT cũng đã không it góp sức cho CSVN để kết-thúc nền Cộng-Hòa miền Nam VN vào ngày 30/04/75. Dũng có thể hỏi nvtncs về số-phận của ĐVT sau khi đã giác-ngộ đạo ‘ CSVN ‘ là lối đi nghịch lại với chính-đạo.

      • nvtncs says:

        Bác Thắc Mắc, anh Dũng có thể vào trang mạng sau đây xem thêm về ông Toại.

        http://motgoctroi.com/DienDan/Dd_Chinhtri/Dd_CTri_03/MatThat_TranhDau.htm

        Dưới đây là một câu trích dẫn của trang mạng:

        “-Nằm vùng cho VC, sau 4-1975 tiếp tục phục vụ cho VC, bị tù, ra tù vượt thoát qua Pháp viết sách tố cáo tội ác VC. Qua Mỹ, tiếp tục “Thổn thức VN” trên báo Mỹ để tố cáo tội ác VC. Được Thượng Nghị Sĩ John McCain yểm trợ lập Viện Vận Động Dân Chủ. Bị bắn bể quai hàm vì đã hô hào bãi bỏ cấm vận và thiết lập bang giao Việt-Mỹ và hạ nhục các cựu tù nhân chính trị được qua Mỹ theo diện HO.

        Nay “nhà tranh đấu dân chủ” Đoàn Văn Toại lại được thoải mái về VN cưới vợ cho con và cưới thêm một bà vợ mới cho mình mà không bị nhà cầm quyền VC làm khó dễ gì!”

        Riêng tôi, rất chán ngán những sự ăn thông với nhau giữa giới “trí thức” chống cộng, hoặc việt kiều, và nhà cầm quyền CSVN.

      • Builan says:

        HỌ đã sáng mắt sáng lòng !
        Mõi một bạn đọc DCV
        Môĩ một COMSĨ cuả ĐCV là một cán bộ chiêu hồi !
        Hãy mở rông vòng tay thân aí – Đón nhận những người anh em “lầm đường lạc lối”
        Thương họ như thương ĐOÀN VĂN TOẠI, !!

      • nvtncs says:

        Builan viết:
        “Mõi một bạn đọc DCV
        Môĩ một COMSĨ cuả ĐCV là một cán bộ chiêu hồi !”

        Viết nhiều quá đâm ra lẫn rồi hay sao, Builan? Trọng Đạt, “Bắc Kỳ Di Cư”, vv…, là cán bộ chiêu hồi, hồi nào?

  9. Bắc kỳ di cư says:

    Bất cứ một phong trào đấu tranh nào nhằm đi tìm chân lý đều cần có một vật biểu hiệu gọi là Cờ hiệu dùng để tập họp người cùng chí hướng. Để phân biệt cờ hiệu của một phong trào với cờ của một quốc gia tiếng Pháp có từ étendard vs drapeau dùng để chỉ quốc kỳ. Hành động in và dán cờ vàng ba sọc đỏ cộng thêm với việc hiên ngang tuyên bố chống đảng CSVN ở trước tòa cho thấy là các em Phương Uyên & Nguyên Kha đã có chính kiến ý thức rất rõ ràng là cờ vàng ba sọc đỏ bây giờ không còn là một cờ QG nữa , vì VNCH đã mất, mà là cờ hiệu: Tự do mang mầu sắc dân tộc, vì mầu vàng tượng trưng dân tộc Việt còn ba vặch đỏ tượng trưng cho máu của dân sống ở ba miền của đất nước.

    Muốn đấu tranh ôn hòa,theo con đường dân chủ với mầu sắc Việt,thì cần phát động phong trào chọn mầu Vàng ba sọc đỏ làm cờ hiệu tập họp tất cả những ai cùng chí hướng đấu tranh cho một nước VN Tự do Dân chủ. Làm các Macaron với mầu sắc tự do dân chủ để phát chung với các bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của LHQ, trong các buổi dã ngoại.v.v.. Bây giờ có thể chỉ là một ngọn lửa nhỏ vừa được nhóm lên nhưng nếu làm được dân vận để nhà nhà từ Nam đến Bắc treo cờ hiệu mầu vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho Tự do Dân chủ, thì có thể làm bùng lớn lên để buộc đảng CSVN phải rút lui và cuốn gói đem theo cờ hiệu CS mầu đỏ sao vàng.

    • Nam Kỳ vượt biên says:

      Bắc kỳ di cư says:Hành động in và dán cờ vàng ba sọc đỏ cộng thêm với việc hiên ngang tuyên bố chống đảng CSVN ở trước tòa cho thấy là các em Phương Uyên & Nguyên Kha đã có chính kiến ý thức rất rõ ràng là cờ vàng ba sọc đỏ bây giờ không còn là một cờ QG nữa , vì VNCH đã mất, mà là cờ hiệu: Tự do mang mầu sắc dân tộc, vì mầu vàng tượng trưng dân tộc Việt còn ba vặch đỏ tượng trưng cho máu của dân sống ở ba miền của đất nước.

      Đúng vậy, trục Vũ Trụ có thể thay đổi, nhưng chân lý trên không bao giờ thay đổi!
      Cám ơn Bắc Kỳ di cư.

  10. thichtudo says:

    Lâu lâu ghé vô ĐCV để tiếp tục học hỏi. Thấy càng phấn khởi, từ bài viết chủ cho đến phản hồi, nhất là
    trong kỳ này. Tranh luận càng ngày càng sắc sảo, đâu ra đó, có “lửa” nhưng không thể nào gắn mác
    cực đoan ( mặc dù cực đoan nhiều khi cũng cần). Đâm ra “nhớ” các bác cam. Qúi vị có thấy dường
    như thiếu vắng các “đấng” đó hơi nhiều ! Có họ nhiều lúc cũng hài ra phết.
    Xin lỗi đã lạc đường khá xa, nhưng vui mà không nói ra thì tối ngủ không được.

    • Lý Chính Luận says:

      Cam vắng bóng chẳng qua vì “khôn không qua lẽ, khỏe không qua lời”, thế thôi!

      • Builan says:

        nvtncs says:
        03/06/2013 at 07:59

        Builan viết:
        “Mõi một bạn đọc DCV
        Môĩ một COMSĨ cuả ĐCV là một cán bộ chiêu hồi !”

        Viết nhiều quá đâm ra lẫn rồi hay sao, Builan? Trọng Đạt, “Bắc Kỳ Di Cư”, vv…, là cán bộ chiêu hồi, hồi nào?

        @ COM cuả tôi, chỉ là ăn theo , thoị tiếp… thêm ý với thichtudo & Lý Chính Luận ! Nó phaỉ hiển thị chỗ nầy mới đúng nơi đúng chốn đúng người đúng việc !!!
        nvtncs phán rầng BL LẪN rôì thì đúng 5/5 !
        _ Ông anh nhà tôi xem ra hơi khó tình _ thông minh nhưng chậm hiểu mới phán như vậy !!!
        Chúc vui khoẻ đến quý còmsĩ kính mến !

Leave a Reply to Bút Thép VN