Biên giới Việt-Trung theo các công ước về biên giới Pháp-Thanh 1887-1895 [kết]
Tiếp theo các phần: I, II, III.
5/ Bản đồ phân giới:
Hướng đi chính thức đường biên giới, đồ tuyến biên giới theo đề nghị của hai phái đoàn Pháp-Thanh đồng thời vị trí các mốc giới được hoạch định trên hai tấm bản đồ (từ hợp lưu sông Gia Long đến Bắc Cương Ải) do ủy ban Chiniac De Labastide thành lập sau đây:
Công trình phân giới của Galliéni làm cho VN mất các vùng đất gồm các xã: Bắc Nham, Hoàng Mộng, Tuy Lai, Nật Sơn, Thuợng Lai, Cỗ Hoàng và Vụ Khê thuộc tổng Bát Tràng cùng với một số xã thuộc tổng Kiến Duyên).
6/ Diễn tiến phân giới trong thời kỳ 1890-1891:
Tạm dịch biên bản 24-6-1890:
Các Ủy Ban phân giới và cắm mốc sau khi lập một bản đồ chính xác của đoạn biên giới từ hợp lưu sông Gia Long加隆 cho đến Bắc Cương ải北崗隘,
Sau khi nghiên cứu, giữa hai cực điểm này, đồ tuyến biên giới giữa Trung Hoa và An Nam, tức là đoạn thứ hai của biên giới Quảng Ðông,
Ủy Ban Pháp chiếu đúng theo nội dung biên bản phân định biên giới ký tại Móng Cái ngày 19 tháng 3 năm 1887, nhằm ngày mồng 5 tháng 3 năm Quang Tự thứ 13, giữa Ủy Viên Hoàng Gia Tseng và Bộ Trưởng Pháp Dillon, và chiếu theo bản đồ số 1 trên tất cả các chi tiết của nó đã được công nhận là chính xác, đã vạch đồ tuyến biên giới như sau:
I. Từ Bắc Thị 北市 và Gia Long 加隆, biên giới theo đường trung tuyến của sông Gia Long mà sông này là một phụ lưu tây ngạn của sông Bắc Thị北市.
Ở khoảng hai phần ba chiều dài, sông chia ra làm hai nhánh có cùng tầm quan trọng. Một nhánh dài độ 35 lý đến từ hướng Tây Bắc, nhánh còn lại có độ dài khoảng 40 lý đến từ hướng Tây Nam.
Bản đồ số 1 chỉ có vẽ nhánh Tây Bắc, là nhánh sông có độ dài tương đương với 30 lí, được các ủy ban phân định biên giới chỉ định là chiều dài của sông Gia Long 加隆.
Sông này, đúng theo biên bản 29 tháng 3 năm 1887 và bản đồ số 1, phải là đường biên giới trên toàn thể chiều dài của nó, cũng như Ủy Ban Trung Hoa đã công nhận nó trong biên bản ký tại Thán Sản 灘散 ngày 2 tháng 3 năm 1890, nhằm ngày mồng mười tháng 2 năm Quang Tự thứ 16.
Các Ủy Ban Phân Ðịnh đã lấy đường biên giới là nhánh sông Tây Bắc cho đến nguồn của nó. Ủy Ban phân giới Pháp đã lấy điểm nguồn của sông này để làm điểm gốc cho một đường thẳng vạch đến điểm A, điểm này ở cách 3 lý về hướng Bắc ngôi chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中. Ðường thẳng này tạo thành đường biên giới giữa An Nam và Trung Hoa, từ điểm nguồn của sông này với điểm A (甲).
Ðiểm phải được lưu ý là đường thẳng này theo lẽ đi từ hướng Ðông Nam đến Tây Bắc, như trên bản-đồ số 1, lại đi từ hướng Ðông Bắc đến Tây Nam.
Ủy ban Pháp nhìn nhận rằng, chiếu đúng theo biên bản phân định biên giới, các địa hạt Lãnh Hoài 嶺懷, Bi Lao 狓勞, còn được viết là Phái Lâu 派樓, Bản Hưng 扳興 thuộc về Trung Hoa; nhưng chúng lại ở phía dưới đường thẳng được nhận là đường biên giới, vì vậy tạo thành một số các vùng đất Trung Hoa trên lãnh thổ An Nam.
Một trong các vùng đất này phải nhượng lại cho An Nam, để đổi lại vùng Nam Lý 南里 của An Nam đã nhượng cho Trung Hoa, theo như biên bản ký tại Ðông Hưng 東興 ngày 15 tháng 4 năm 1890, nhằm ngày 26 tháng 2 năm Quang Tự thứ 16.
Về phần trái núi Phân Mao Lãnh 分茅嶺 thì không ở về phía Ðông Bắc của Bản Hưng 扳興, cũng không ở một địa phương nào trong vùng; các vụ tìm kiếm tỉ mỉ nhất cũng đã không tìm thấy, cái tên này hoàn toàn xa lạ trong dân chúng.
Chiếu theo biên bản đã ghi trên, làng Ðộng Trung 峝中 và Na Dương thuộc về An Nam.
Làng sau cùng thì vẽ rất sai trên bản đồ số 1, đáng lẽ nó ở về phía Nam của Ðộng Trung 峝中 và phía Bắc của làng Trình Tường, thì lại ở Tây Bắc của Ðộng Trung 峝中 và phía Tây Nam của Trình Tường, đối diện với biên giới Quảng Tây.
II. Từ điểm A (甲)đường biên giới đi về hướng Bắc Cương Ải 北崗隘; bắt buộc bao bọc làng Trình Tường thuộc An Nam, vì vậy tạo thành một vòng cung mà phần lồi quay về hướng Ðông.
Ðường biên giới đi tiếp đến, buộc phải theo địa hình, đỉnh 940, sau đó đỉnh 1032, bắt vào biên giới thiên nhiên cũ của An Nam và Trung Hoa, đến đỉnh 1365 của núi Kiểu Tào Sơn 矯曹山, theo lại đường biên giới cũ là một con suối cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘.
Có vấn đề phải làm liên quan đến làng Na Dương 那陽 được trao cho An Nam. Việc nghi nhận về làng nầy được ghi ở trên.
Về ngọn núi Phái Thiên Sơn 派遷山, theo dân địa phương thì nó ở cách nhiều ngày đường về hướng Tây chứ không phải ở vùng chung quanh Bắc Cương Ải 北崗隘. Nhưng vị trí của ải mang tên này cũng không được xác định một cách rõ ràng; nó ở khoảng 30 lí theo đường thẳng từ làng thuộc An Nam tên Bình Liêu苹寮.
Chiếu đúng theo biên bản phân định biên giới, các làng Na Quang 那光 và Bản Thân (Thôn) 板吞 ở bên phía biên giới (đối diện với An Nam) thì thuộc về Trung Hoa.
Việc nên ghi nhận, ngược với những chi tiết ghi trên bản đồ số 1, Bắc Cương Ải 北崗隘 theo lẽ ở về phía Tây Nam Ðộng Trung 峝中 thì ở phía Bắc của làng này, mà làng này ở về phía Nam chứ không phía Bắc của làng Trình Tường呈祥; hướng tổng quát của đường biên giới đáng lẽ là từ Ðông Bắc đến Tây Nam thì trước hết từ Tây Nam đến Ðông Bắc, sau đó từ Nam lên Bắc và cuối cùng từ Ðông Bắc đến Tây-Nam, có nghĩa là hầu như đi ngược lại hoàn toàn nội dung bản đồ số 1.
Ðồ tuyến của Ủy Ban Pháp thì hoàn toàn đúng với nội dung biên bản phân định biên giới ngày 29 tháng 3 năm 1887, Ủy Ban Trung Hoa phản đối như sau:
I. Bắt đầu từ ngã rẽ của sông Gia Long 加隆, Ủy Ban Trung Hoa lấy đường biên giới là nhánh sông đến từ hướng Tây Nam, nhánh này không có vẽ trên bản đồ số 1, sau đó họ rời nhánh sông này trước rất xa điểm nguồn của nó, tại điểm mà thế nào đường thẳng bắt nguồn từ điểm này để đến điểm ở tại chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 có một hướng chính xác Ðông Tây.
Từ chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 cho đến điểm A cách 3 lý về hướng Bắc, Ủy Ban Trung Hoa cho rằng đường biên giới là một đường thẳng từ Nam lên Bắc.
Không có tranh chấp về vị trí của điểm A (甲).
Các ủy viên Trung Hoa đã biện luận cho đồ tuyến của họ với những lý lẽ như sau:
1. Theo họ, nhánh sông Gia Long 加隆 đến từ hướng Tây Nam thì quan trọng hơn nhánh đến từ hướng Tây Bắc; nhánh sau cùng chỉ là một phụ lưu.
2. Nếu họ không lấy biên giới là con sông cho đến tận nguồn, vì theo họ, toàn thể chiều dài của sông chỉ có nghĩa là toàn thể chiều dài trên vùng đồng bằng; tất cả phần của dòng sông chảy trong núi thì không tính.
3. Nếu họ nối đến chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中 mà không nối đến điểm A (甲), là điểm mà đường biên giới rời khỏi sông Gia Long 加隆, vì dưới mắt họ, chỉ có những đường thẳng đi từ Ðông sang Tây hay ngược lại. Tất cả những đường có hướng khác là những đường nghiêng.
Dựa trên căn bản này, họ nối, bằng một đường thẳng thứ hai đi từ Nam lên Bắc, từ chợ cũ Ðộng Trung 峝中 đến điểm A (甲).
Ủy Ban Pháp phản bác một cách mạnh mẽ tất cả các chi tiết của đồ tuyến nầy, nó đi ngược lại hoàn toàn các công ước quốc tế.
1. Nói rằng nhánh Tây Nam của sông Gia Long 加隆 thì quan trọng hơn nhánh Tây Bắc là không đúng; lưu lượng hai nhánh sông ở tại nơi hợp lưu thì gần giống như nhau; dân địa phương chỉ định một cách bất kỳ nhánh này hay nhánh kia là dòng chánh của con sông.
Vả lại, nhánh Tây Bắc là nhánh duy nhất hiện hữu trên bản đồ phân định số 1; cũng là nhánh mà độ dài tổng cộng của nó gần nhất với độ dài phỏng chừng được các ủy ban phân định biên giới chỉ định, như vậy không nghi ngờ nhánh này mới là đường biên giới chứ không phải nhánh Tây Nam.
2. Các Ủy Viên Pháp không thể chấp nhận lý thuyết mới cũng như lạ đời là con sông chỉ bắt đầu tính khi nào nó chảy ở đồng bằng.
Biên bản phân định biên giới chỉ định rằng sông Gia Long 加隆 là đường biên giới trên cả chiều dài của nó; như vậy là phải theo dòng sông cho đến nguồn của nó, có nghĩa là cho đến nguồn của nhánh Tây Bắc được các ủy ban phân định nhìn nhận là đường biên giới.
3. Các Ủy Viên Pháp cũng không thể chấp nhận lý thuyết còn lạ hơn lý thuyết trước là những đường thẳng chỉ có thể vạch từ Nam lên Bắc hay từ Ðông sang Tây, hoặc ngược lại.
Họ cũng giải thích một cách khó khăn, làm thế nào đường thẳng Ðông Tây bắt đầu tại chợ cũ của làng Ðộng Trung 峝中,cắt nhánh Tây Nam của sông Gia Long 加隆,đúng ngay tại điểm mà sông này rời núi. Ðây là một sự tình cờ đến từ sự huyền diệu.
Các ủy Viên Pháp cho rằng sử dụng các lý lẽ và cách thức như vậy là ngăn chận mọi tranh cãi đứng đắn và trung thực.
II. Giữa điểm A (甲) và Bắc Cương Ải 北崗隘, Ủy Ban Trung Hoa chỉ trích rằng đồ tuyến của Ủy Ban Pháp thì quá ngoằn nghoèo. Họ đòi hỏi một đồ tuyến trực tiếp giữa hai điểm trên mà không nghĩ đến việc phải tránh làng Trình Tường mà biên bản phân định biên giới đã chỉ định là của An Nam.
Về vấn đề liên quan đến làng này thì Ủy Ban Trung Hoa cho rằng nó không phải là làng đã được biên bản phân định biên giới chỉ định. Họ đặt căn bản lên việc làng này, được gọi tên trong hồ sơ trên đây là Trình Tường 呈祥, được gọi tên trong vùng là Ðịnh Tưởng 定想. Theo các Ủy Viên Thanh triều, làng Ðịnh Tưởng 定想 thuộc về Trung Hoa và phải tìm xa hơn về phía Ðông làng có tên là Trình Tường 呈祥 thuộc về An Nam.
Sự xác nhận nầy không đúng. Trình Tường 呈祥 và Ðịnh Tưởng 定想 chỉ là một làng, đó là làng đã được chỉ định trong biên bản 29 tháng 3 năm 1887, dưới cái tên thứ nhất thì sai, nó chỉ được biết đến qua cái tên thứ hai.
Trong những điều kiện như vậy, Ủy Ban Pháp không chấp nhận đồ tuyến do Ủy Ban Trung Hoa đề nghị, từ điểm A (甲)cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘.
Mặt khác, các Ủy Viên Thanh triều, thuộc vùng Quảng Ðông, đã cho biết ý kiến của họ rằng, họ không bận tâm đến việc phân giới từ điểm A (甲)trở đi, vì giữa điểm này và Bắc Cương Ải 北崗隘, biên giới sẽ được ủy viên Quảng Tây phụ trách.
Ủy Ban Pháp chỉ biết ghi nhận lời tuyên bố này mặc dầu thấy rằng các Ủy Viên Trung Hoa dường như mâu thuẫn với các chi tiết địa lý được công nhận cho đến ngày hôm nay cũng như với nội dung của biên bản phân định 29 tháng 3 năm 1887.
Tóm lại, Ủy Ban Pháp giữ nguyên đồ tuyến của họ từ hợp lưu của sông Gia Long 加隆 cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘, vì cho rằng nó phù hợp hoàn toàn với biên bản cũng như những phần đã được công nhận là đúng trong bản đồ số 1 kèm theo biên bản nói trên.
Ủy Ban Pháp phản đối đồ tuyến do Ủy Ban Trung Hoa đề nghị vì nó đi ngược lại hoàn toàn với công ước.
Ủy ban Trung Hoa tuyên bố giữ nguyên đồ tuyến của mình và không công nhận đồ tuyến của Ủy Ban Pháp.
Trong các điều kiện này, sự thỏa thuận không thể đạt được giữa hai Ủy Ban, họ cùng biểu quyết, trong một thỏa ước chung, hai bên sẽ đệ trình vấn đề lên Tổng Lý Nha Môn và Ðặc Sứ Pháp tại Bắc Kinh để giải quyết. Hai ủy ban chia tay và chờ đợi sự quyết định chung cuộc.
Dầu vậy, trước khi rời các Ủy Viên Trung Hoa, Ủy Ban Pháp làm một bản tuyên bố như sau:
Sự so sánh bản đồ thứ 1, đoạn từ nguồn phía Bắc của sông Gia Long 加隆 đến Bắc Cương Ải 北崗隘,với bản đồ được lập lên để dùng vào việc phân giới do các trắc địa viên thuộc ủy ban Pháp thiết lập, cho thấy những chi tiết trong bản đồ số 1 hoàn toàn sai với thực tế.
Trên bản đồ số 1, do các nhà địa dư Trung Hoa vẽ mà các Ủy Viên Pháp tin tưởng và không thể kiểm chứng lại, Ðộng Trung 峝中 được đặt cách hơn 25 cây số, khoảng 45 lí, về phía Bắc của vị trí thật sự của nó.
Như thế theo bản đồ, đường biên giới theo đường thẳng bắt đầu từ nguồn Bắc của sông Gia Long đi về hướng Tây Bắc, rồi sau đó trở lại hướng Ðông Nam về Bắc Cương Ải 北崗隘, nhưng sự thực thì ngược lại.
Từ nguồn Bắc của sông Gia Long 加隆 cho đến điểm A, đường biên giới theo đường thẳng từ Ðông Bắc đến Tây Nam, sau đó lên lại về hướng Bắc để đến Bắc Cương Ải 北崗隘.
Lầm lẫn do bản đồ vẽ không đúng địa hình. Ủy Ban Phân Ðịnh Pháp tưởng rằng vùng đất đó thuộc An Nam, tạo thành một góc nhọn đâm sâu hơn 25 cây-số, khoảng 45 lí, vào Quảng Ðông, nhưng trên thực tế thì đất nầy đâm sâu vào lãnh thổ An Nam như một góc nhọn.
Mặt khác, sự nghiên cứu, trên bản đồ cũng như trên thực địa, về đường biên giới qui ước, cho thấy sai lầm ở khắp nơi và vì vậy không thể chấp nhận được.
Ðường biên giới này thực ra, trên toàn chiều dài của nó, theo một con đường băng qua các sườn núi, cắt những con sông, vượt ngang đồng bằng mà không theo cách cấu tạo hình thể của đất đai.
Vì thế, nếu được phân giới với những cẩn trọng, việc này cũng sẽ đem lại những tranh chấp liên tục và những khó khăn về mọi mặt giữa hai cường quốc láng giềng.
Vì các lý lẽ đó, Ủy Ban Phân Giới Pháp cho rằng:
- Ðường biên giới theo công ước xác định do biên bản 29 tháng 3 năm 1887 xác định thì mọi nơi đều sai và không nơi nào chấp nhận được.
- Ðiều quan trọng là Ủy Ban Phân Ðịnh Pháp đã chỉ công nhận biên bản trên chỉ vì sự tin tưởng của họ đã bị lạm dụng do một tấm bản đồ hoàn toàn sai, nó trình bày một cách sai lạc rằng lãnh thổ An Nam thì tiến sâu vào lãnh thổ Trung Hoa, trong lúc trên thực tế thì ngược lại, lãnh thổ của Trung Hoa lại lấn sâu vào lãnh thổ An Nam.
Vì thế, yêu cầu xét lại sự phân định của đường biên giới An Nam & Trung Hoa từ hợp lưu của sông Gia Long 加隆 cho đến Bắc Cương Ải 北崗隘 và sự chọn lựa chung cuộc trên toàn chiều dài của đoạn biên giới này, là đường biên giới cũ của An Nam và Trung Hoa, duy nhất dựa trên thiên nhiên, duy nhất thuần lý, duy nhất chấp nhận được. Có nghĩa là con sông Bắc Thị 北市 từ Gia Long 加隆 cho đến điểm mà nó không thể lưu thông bằng xuồng, và từ đó cho đến Bắc Cương Ải北崗隘, là (đường nối) các đỉnh cao nhất của dãy núi.
————————————–
7/ Phụ lục:
Nguyên văn các biên bản bằng tiếng Pháp đã được tác giả tạm dịnh ra tiếng Việt ở casc phần trên.
7.1 Procès Verbal Abornement N°1 (15-4-1890)
Première Section de la Frontière du Quang-Tong – De la Mer au Confluent de la rivière de Gia-Long
Les Commissions D’abornement nommées par les Gouvernements intéressés en exécution de la convention signée à Pékin , le 26 juin 1887, 6e jour du 5e mois de la 13e année de Kouang-Siu, par S.E. le Prince KING, S.E. le Ministre SOUN et M. CONSTANS Ministre de France à Pékin ;
après avoir faire dresser une carte exacte de la zone frontière , en Chine depuis TRUC-SON jusqu’à GIA-LONG, au Tonkin depuis l’ile des LIONCEAUX jusqu’à BAC-THI ;
après avoir reconnu elles-mêmes cette section de la frontière sur toute son étendue ;
se conformant au texte de la convention de Pékin précitée et à celui du procès-verbal signé à Moncay le 29 Mars 1887 – 5e jour de la 3e lune de la 13e année de Kouong-Siu, par S.E. le Ministre TENG et M. DILLON Ministre de France chargés de la délimitation de la frontière du Quang-Tong et du Tonkin ;
usant des pouvoir qui leurs ont été conférés par leurs Gouvernements respectifs ;
ont, d’un commun d’accord, reconnu, constaté et décidé que le tracé définitif et irrévocable de la première section de la frontière était fixé ainsi qu’il suit :
1/ Les iles qui sont à l’Est du méridien de Paris, 105° 43’ de Longitude Est, c’est à dire de la ligne Nord-Sud passant par la pointe orientale de l’ile en chinois T’cha-C’ou, en annamite Trà-Cổ 茶 古 , appartiennent à la Chine ; les iles en chinois Kieou-T’eou, en annamite Cửu-Ðầu 九 頭 et les autres l’iles qui sont à l’Ouest de ce méridien appartiennent à Annam .
2/ A partir竹 山(en chinois Tchou-Chan, en annamite Trúc-Sơn ) la frontière suit la rivière de l’Est à l’Ouest jusqu’à 東 興 (en chinois Toung-Hing en annamite Ðông-Hưng) et 硭 鈣 (en chinois Mang Kiai, en annamite Mang-Nhai).
Le milieu de la rivière forme la frontière séparant le territoire de 羅 浮 (en chinois Lo-Féou, en annamite La-Phù) et celui de 東 興 (Toung-Hing ou Ðông-Hưng) qui appartiennent à la Chine, de la commune de 春 爛 (en chinois Tch’ouenn-Lan, en annamite Xuân-Lạn) qui comprendre le territoire de (en chinois Maou-Tsai en annamite Mũ-Sãi) appelé aussi 伍 仕 (en chinois Wou-Che, en annamite Ngũ-Sĩ), le territoire de 紫 京 山 (en chinois Tseu-King-Chan, en annamite Tử-Kinh-Sơn) et le territoire de 陸 林 (en chinois Lou-Lin, en annamite Lục-Lâm), et de la commune de 萬 春 (en chinois Wan-Tchieuenn, en annamite Vân-Xuân) qui comprendre la ville de 硭 街 (en chinois Mang-Kiai, en Annamite Mang-Nhai) lesquelles communes appartiennent à Annam.
3/ Depuis 東 興 Toung-Hing (Ðông-Hưng) et硭 街 (Mang-Kiai, Mang-Nhai) jusqu’à 加 隆 que l’on écrit aussi 嘉 隆 (en chinois Kia-Loung, en annamite Gia-Long) et 北 市 (en chinois Pè-Chè, en annamite Bắc-Thị), la frontière est assez sinueuse et le fleuve suit la direction générale du Nord-Ouest.
Elle sépare 那 至 que l’on écrit aussi 那 芝 (en chinois Na-Tche , en annamite Na-Chí),望 興 (en chinois Ouang-Hing, en annamite Vọng-Hưng), 加 隆 ou嘉 隆 (Kia-Loung, Gia-Long) et autres lieux qui appartiennent à la Chine de la commune de寧陽 (en chinois Nin-Yang, en annamite Ninh-Dương) et de la commune de萬 春 (en chinois Wàn-Tch’ouenn, en annamite Vạn-Xuân), cette dernière comprenant les territoires de 櫬 潘 (en chinois T’ann-Pan, en annamite Thân-Phan) et de北 市 (Pé-Ché, Bắc-Thị) qui appartiennent à l’Annam.
Conformément aux conventions admises par les deux Commissions dans la séance d’ouverture des travaux, le 1er Novembre 1889 – 9e jour de la 10e mois de la 15e année de Kouong-Siu, on prendra toujours pour frontière le chenal navigable, c’est à dire le plus profond de la rivière formant la limite des deux Etats.
Si, par suite de crues ou de baisses des eaux, le chenal navigable se déplace et si des bancs ou ilots nouveaux viennent se former, la frontière se trouvera reportée naturellement dans le nouveau chenal navigable et les bancs ou ilots de nouvelle formation appartiendront à la puissance du côté de la quelle ils se trouveront.
Après le procès-verbal signé à Moncay, le 29 Mars 1887 – 5e jour de la 3e lune de la 13e année de Kouong-Siu, le territoire de 托 嶺. (en chinois T’o-Ling, en annamite Thác-Lãnh) appartient à l’Annam.
Les deux Commissions n’ont pu savoir où se trouver ce territoire et ont décidé qu’il n’y avait pas lieu de le rechercher davantage.
Le même procès-verbal spécifie expressément que le territoire de 南 里 (en chinois Nan-Li, en annamite Nam-Lý) appartient à l’Annam.
Ce territoire se trouvant sur la rive gauche de la rivière frontière et formant une enclave en Chine, la Commission française le cède au Céleste Empire.
La Commission chinoise prend, en retour, l’engagement d’agir de même si, au cour de l’abornement de la deuxième section de la frontière du Quang-Tong, le Céleste Empire possède également une enclave dans le territoire du Tonkin.
En conséquence de ce qui précède, les commissions ont procédé elles mêmes, ainsi qu’il suit, à la pose des bornes sur la première section de la frontière :
EN TERRITOIRE ANNAMITE
Borne N°1
sur la petite ile dite la queue du Lionceau
Repérage :
Borne N° 2
à 紫 京 山. (en chinois Tsou-King-Chan, en annamite Tử-Kinh-Sơn)
Repérage :
Borne N° 3
à陸 林 (en chinois Lou-Lin, en annamite Lục-Lâm)
Repérage :
Borne N° 4
en face de 那 旐 (en chinois Nà-Tchàou, en annamite Na-Triệu) sur le sentier qui mène à 春 樹 (en chinois Tchouenn-Chou, en annamite Xuân-Thụ)
Repérage :
Borne N° 5
devant le blockhaus de Moncay
Repérage angles :
b 311° 56’ 05’’ ; Mirador 315° 22’ 10’’ ; Fortin 77° 08’ 15’’
Borne N° 6
au débouché du sentier de 服 扁 (en chinois Fou-Shan, en annamite Phục-Thiên)
Repérage angles :
Mirador 273° 44’ 10’’ ; b 33° 14’ 40’’ ; a 56° 21’ 35’’
Borne N° 7
en face de托 嶺 (en chinois T’am-Ling, en annamite Thác-Lãnh) devant la pointe inférieure d’un banc de sable.
Repérage :
Borne N° 8
devant la maison de 祿 俛 (en chinois Lou-Fou, en annamtie Lộc-Phủ)
Reprage angles :
Signal N-O Lộc-Phủ 31° 30’ 05’’ ; a 145° 30’ 50’’ ; a 199° 56’ 55’’
Borne N° 9
devant la maison de 必 那 (en chinois Pina, en annamite Tất-Na)
Repérage angles :
a 59° 32’ 20’’ ; 320° 16’ 40’’ ; s 312° 13’ 20’’
Borne N° 10
Sur un ilot devant 竹 結 (en chinois Thoù-Kié, en annamite Trúc-Kết) localité nommée aussi 侲 吉 (en chinois Tan-Ki , en annamite Ðôn-Cát)
Repérage angles :
f 345° 38’ 00’’ ; s 349° 16’ 30’’ ; Mã-Ðầu-Sơn 213° 21’ 10’’
EN TERRITOIRE CHINOISE
Borne N° 1
au marché de 竹 山 (en chinois Tchoù-Chan, en annamite Trúc-Sơn)
Repérage azimuths magnétiques :
Lionceau 345° ; Fortin 285°
Borne N° 2
à la pointe de 測 旗 灘 (en chinois Chè Ki’ T’ann, en annamite Trắc Ki Than)
Repérage :
Borne N° 3
au confluent du ruisseau de 橋 頭 溝 (en chinois Kiau Teou Kiou, en annamite Kiều-Ðầu-Câu)
Repérage azimuths magnétiques :
Blockhaus 311° ; Fortin 331°
Borne N° 4
en haut de l’escalier conduisant à la petite pagode de Ðông-Hưng
Repérage :
Borne N° 5
à l’entrée de la rue qui débouche sur le pont de Ðông-Hưng
Repérage :
Borne N° 6
à 卜 (en chinois Young-Bo’u, en annamite Thủng-Bốc) localité nommée aussi 樸 (en chinois Young-Pou, en annamite Thùng-Bộc) au passage du bac de 瓜甫 (en chinois Koa-P’ou, en annamite Qua-Phủ)
Repérage angles :
Fortin 185° 24’ 10’’ ; a 39° 23’ 45’’ ; b 14° 54’ 25’’
Borne N° 7
au confluent du ruisseau de 江 那 (en chinois Kiang-Na, en annamite Giang-Na) (rive gauche)
Repérage angles :
b 64° 52’ 45’’ ; a 351° 53’ 55’’ ; a 292°
azimuth magnétique :
Borne N° 8
au confluent du ruisseau de 望 興 (en chinois Ouang-Hing, en Annamite Vọng-Hưng) (rive droite)
Repérage angles :
Signal N-O Lộc-Phù 98°15’ 00’’ ; s 15° 20’ 35’’ ; f 1° 57’ 15’’
Borne N° 9
Au confluent de la rivière 那 良 (en chinois Na-Loang, en annamite Na-Lương) (rive droite)
Repérage angles :
f 94°48’ 15’’ ; s 60° 29’ 45’’ ; Mã-Ðầu-Sơn 348° 11’ 20’’
Borne N° 10
à 大 河 (en chinois Ta-Hò, en annamite Ðại-Hà) au débouché du chemin qui mène à 北 市 (en chinois Pè-Chè, en annamite Bắc-Thị)
Repérage azimuths magnétiques :
f 114° 30’ ; Mã-Ðầu-Sơn 221° 00’
Fait est clos à Ðông-Hưng en deux exemplaires en langue française et en deux exemplaires en langue chinoise le 15 avril 1890 – 26 e jour du 2e mois intercalaire de la 16e année de Kouang-Siu .
Les membres de la Commission française,
Signé de Labastide
Les membres de la Commission chinoise :
7.2 Procès-verbal ( 24-6-1890)
Du confluent de la Rivière de Gia-Long au défilé de Bắc-Cang Ải
Les Commissions d’Abornement après avoir fait dresser une carte exacte de la zone frontière depuis le confluent de la rivière 加隆 (en annamite Gia-Long, en chinois Kia-Loung) jusqu’au défilé de北崗 隘(en annamite Bắc-Cương-Ải, en chinois Pai-Kang-Ai),
Ont étudié, entre ces deux points extrêmes, le tracé de la limite de la Chine et de l’Annam, c’est-à-dire la deuxième section de la frontière du Quang-Tong.
La Commission française se conformant rigoureusement au procès-verbal de délimitation signé à Moncay, le 19 Mars 1887- (5e jour de la 3e lune de la 13e année de Kouang-Siu) entre S.E le commissaire impérial Teng et M. le Ministre de France Dillon, et à la carte N° 1 dans tous ses parties qui ont été reconnues exactes, a tracé la frontière ainsi qu’il suit:
I- Depuis北 市 (en annamite Bắc-Thị, en chinois Pei-Che) et加 隆 (en annamite Gia-Long, en chinois Kia-Loung) la frontière suit le milieu de la Rivière de 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) qui est un affluent occidental de la rivière de 北 市 (Bắc-Thị, Pei-Che).
Au deux tiers environ de son cours, cette Rivière se divise en deux branches d’égale importance, l’une de 35 lis envirionde longueur vient du Nord-Ouest, l’autre de près de 40 lis de longueur vient du Sud-Ouest.
La carte N°1 ne fait mention que de la branche Nord-Ouest; c’est d’ailleurs celle dont la longueur se rapproche plus de l’étendue approximative de 30 lis assignée par les commissions de délimitation au cours de la Rivière de 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung).
Cette rivière, conformément au procès-verbal du 29 Mars 1887 et à la carte N°1, doit former la frontière sur toute l’étendue de son cours, ainsi que la commission chinoise l’a reconnue dans un procès-verbal signé à 灘散 (en annamite Thán-Sản, en chinois Tan-san), le 2 Mars 1890 – 10e jour de la 2e lune de la 16e année de Kouang-siu.
Les Commissions de délimitation ayant adopté pour frontière la branche Nord-Ouest de la Rivière jusqu’à sa source, la commission française d’abornement a pris cette source pour origine de la ligne droite qui va aboutir au point A situé à 3 lis au Nord de l’ancien marché du village de 峝中(en annamite Ðộng-Trung, en chinois Tong-Tchong) et qui forme la limite de la Chine et de l’Annam entre la source de la rivière de加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) et le point A甲.
Il-y-a lieu de remarquer que cette ligne droite au lieu de se diriger du Sud-Est au Nord-Ouest, comme sur la carte de délimitation N°1, se dirige du Nord-Est au Sud-Ouest.
La commission française reconnait, conformément au procès-verbal de délimitation, que les localités de嶺懷 (en annamite Lãnh-Hoài, en chinois, Ling-Houai), de 狓勞 (en annamite Bỉ-Lao, en chinois Pi-Lao) que l’on écrit dans le pays派樓 (en annamite Phái-Lâu, en chinois Fai-Leou), de扳興 (en annamite Bản-Hưng, en chinois Pan-Hing) appartiennent à la Chine; mais ces localités se trouvant au sud de la ligne droite adoptée pour frontière, forment autant d’enclaves dans le territoire de l’Annam.
L’une de ces enclaves doit d’ailleurs être cédée à l’Annam, en échange de l’enclave de南里 (en annamite Nam-Lý, en chinois Nan-Li) ainsi qu’il a été convenu dans le procès-verbal signé à東興 (Ðông-Hưng, Toung-Hing), le 15 Avril 1890 – 26e jour de la 2e lune de la 16e année de Kouang-siu.
Quand à la montagne de 分茅嶺 (en annamite Phân-Mao-Lãnh, en chinois Fen-Mao-Ling) elle n’existe ni au Sud-Est de 扳興 (Bản-Hưng, Pan-hing) ni dans aucune partie de la région; les recherches les plus minutieuses n’ont pu la faire découvrir; ce nom est totalement inconnu des habitants.
Conformément au procès-verbal de délimitation précité, les villages de峝中 (en annamite Ðộng-Trung, en chinois Tong-Tchong) et de那陽 (en annamite Na-Dương, en chinois Na-Yang) sont attribués à l’Annam.
En ce qui concerne cette dernière localité, il convient de remarquer qu’elle est très mal placée sur la carte de délimitation N°1 et qu’au lieu de se trouver au Sud de 峝中 (Ðộng-Trung, Tong-Tchong) et au Nord de 呈祥 (en annamite Trình-Tường, Tcheng-Siang), elle est située au Nord-Ouest de 峝中(Ðộng-Trung, Tong-Tchong) et au Sud-Ouest de 呈祥 (Trình-Tường, Tcheng-Siang) en face de la frontière du Quang-Si.
II- Depuis le point A (甲)la frontière se dirige vers le défilé de 北崗 隘 (en annamite Bắc-Cương-Ải, en chinois Pei-Kang-Ai); l’obligation d’englober le village呈祥 (en annamite Trình-Tường, en chinois Tcheng-Siang) lui faire décrire une courbe dont la convexité est tournée vers l’Est.
Elle gagne ainsi, en se pliant au terrain, le sommet 940, puis le sommet 1032, rejoint l’ancienne frontière naturelle sino-annamite au sommet 1365 de la montagne de矯曹山 (en annamite Kiểu-Tào-Sơn, en chinois Kiao-Tiao-Chan) et suit ensuite l’ancienne frontière, le long d’un ruiseau, jusqu’au défilé de 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai).
Il-y-a de faire au sujet du village de 那陽 (Na-Dương, Na-Yang) attribué à l’Annam, la remarque faite précédemment à l’égard de ce même village.
Quant à la montagne de 派遷山 (en annamite Phái-Thiên-Sơn, en chinois P’ai-Tsien-Chan), elle se trouverait, au dire des habitants, à plusieurs journées de marche vers l’Ouest et non dans le voisinage immédiat du défilé de北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai). Mais la position du défilé de ce nom n’en est pas moins clairement et nettement déterminée; il est sensiblement à 30 lis en ligne droite du village annamite de苹寮 (en annamite Bình-Liêu, en chinois P’ing-Leou).
Conformément au procès-verbal de délimitation, les villages de那光 (en annamite Na-Quang, en chinois Na-Kouang) et板吞 (en annamite Bản-Thôn, en chinois Pan-T’ouen) situés du côté de la frontière opposé à l’Annam appartiennent à la Chine.
Il convient de remarquer, en outre; que contrairement aux indications de la carte de délimitation N°1, le défilé de 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai) au lieu d’être au Sud-Ouest de峝中 (Ðộng-Trung, Tong-Tchong) est au Nord de ce village qui lui même est au Sud et non au Nord de 呈祥 (Trình-Tường, Tch’eng-Siang); la direction générale de la frontière au lieu d’être du Nord-Est au Sud-Ouest; est d’abord du Sud-Ouest au Nord-Est, puis du Sud au Nord et enfin du Nord-Est au Sud-Ouest, c’est-à-dire presque entièrement contraire à celle que donne la carte de délimitation N°1.
Au tracé de la Commission française strictement conforme au procès-verbal de délimitation du 29 Mars 1887, la délégation chinoise oppose le suivant:
A partir de la bifurcation de la Rivière de 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung), elle prend pour frontière la branche qui vient du Sud-Ouest et qui ne figure pas sur la carte de délimitation N°1; puis elle abandonne ce cours d’eau bien avant d’atteindre sa source, en un point tel que la ligne droite qui suit ce point à l’ancien marché du village de 峝中 (Ðộng-Trung, Tong-Tchong) ait exactement la direction Est-Ouest.
De l’ancien marché du village de 峝中 (Ðộng-Trung, Tong-Tchong) jusqu’au point A(甲) situé à 3 lis au Nord, la Commission chinoise indique, pour frontière, une ligne allant du Sud au Nord.
Il n’y a pas de contestation au sujet de la position du point A(甲).
Les délégués impériaux justifient leur tracé par les raisons suivantes:
1. D’après eux, la branche de la Rivière de加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) qui vient du Sud-Ouest, est plus importante que celle qui vient du Nord-Ouest; cette dernière ne serait qu’un affluent.
2. S’ils ne prennent pas la Rivière pour frontière jusqu’à sa source, c’est que pour eux, toute l’étendue de son cours signifie seulement toute l’étendue de son cours en plaine; toute la partie qui coule dans la montagne ne compte pas.
3. S’ils joignent à l’ancien marché du village de 峝中 (Ðộng-Trung, Tong-Tchong) et non au point A, le point où la frontière quitte la Rivière de 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung), c’est qu’à leurs yeux, il n’y a pas de lignes droites que celles qui vont de l’Est à l’Ouest, ou inversement. Toutes les lignes qui ont des directions différentes sont des lignes obliques.
Partant de ce principe, ils joignent, par une second ligne droite allant du Sud au Nord, l’ancien marché de 峝中 (Ðộng-Trung, Tong-Tchong) au point A(甲).
La délégation française repousse de la façon la plus formelle toutes les parties de ce tracé qui sont absolument contraires aux conventions internationales:
Il n’est pas exacte que la branche Sud-Ouest de la Rivière de加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) soit plus importante que la branche Nord-Ouest; le volume des eaux au confluent est sensiblement le même; les habitants désignent indifféremment l’une ou l’autre comme étant le cours supérieur de la Rivière formée de leur réunion.
D’ailleurs, la branche Nord-Ouest figure seule sur la carte de délimitation N°1; c’est, en outre, celle dont la longueur totale se rapproche le plus de l’étendue approximative indiquée par la commission de délimitation, il n’est donc pas douteux que cette branche soit la frontière et non la branche Sud-Ouest.
Les commissaires français n’admettent pas la théorie nouvelle autant qu’étrange des Rivière dont le cours ne commence que lorsqu’elles coulent en plaine.
Le procès-verbal de délimitation veut que la Rivière de 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) forme la frontière sur toute l’étendue de son cours; il faut donc la suivre jusqu’à sa source, c’est-à-dire jusqu’à la source de la branche Nord-Ouest adoptée comme frontière par les commissions de délimitation.
Ils admettent encore moins la théorie bien plus extraordinaire que la précédente des lignes droites qui ne peuvent être tracée que du Sud au Nord ou de l’Est à Ouest, ou inversement.
Ils s’expliquent d’ailleurs difficilement comment il se fait que la ligne Est-Ouest qui part du marché de峝中(Ðộng-Trung, Tong-Tchong) vienne couper la branche Sud-Ouest de la Rivière de加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) exactement au point où ce cours d’eau cesse de couler dans la montagne pour entrer dans la plaine. C’est un hasard qui vient du prodige.
Ils estiment que l’emploi de semblables arguments et de pareils procédés rend impossible toute discussion sérieuse et loyale.
II -. Entre le point A (甲)et le défilé de北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai) la délégation chinois a reproché d’abord au tracé de la Commission française d’être trop sinueux. Elle réclamait un tracé directe entre les deux points en question, sans tenir compte de l’obligation de contourner le territoire de 呈祥Trình-Tường, Tcheng-Siang) que le procès-verbal de délimitation attribue expressément à l’Annam.
Au sujet de cette localité, la Commission chinoise a prétendu que ce n’était celle que désignait le procès-verbal de délimitation du 29 Mars 1887 comme revenant à l’Annam. Elle se basait sur ce que le village dont il s’agit appelé sur ce document 呈祥 (Trình-Tường, Tcheng-Siang), s’appelle dans le pays定想 (en annamite Ðịnh-Tưởng, en chinois Ting—Siang), d’après les délégués impériaux, le village 定想 (Ðịnh-Tưởng, Ting-Siang) appartenait à la Chine et il fallait aller chercher plus loin, vers l’Est, un autre village du nom de呈祥 (Trình-Tường, Tcheng-Siang) appartenant à l’Annam.
Cette assertion est inexacte, 呈祥 (Trình-Tường, Tcheng-Siang) et呈祥 (Ðịnh-Tưởng, Ting-Siang) sont un seul et même village, c’est bien celui que le procès-verbal du 29 Mars 1887 a désigné, a tort, sous le premier de ses noms, tandis que dans le pays, il n’est connu que sous le second.
Dans ces conditions, la commission française n’accepte pas le tracé proposé par la délégation chinoise, entre le point A 甲et le défilé de 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai).
D’ailleurs les délégués Céleste Empire, pour la province du Quang-Tong, ont fait connaitre qu’à leur avis, ils n’avaient pas à s’occuper de l’abornement au delà du point A, qu’entre ce point et le défilé 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai), la frontière serait tracée par la commission du Quang-Si.
La Commission française s’est contentée de prendre acte de cette déclaration bien qu’elle lui ait paru contraire aux indications géographiques admises jusqu’à ce jour aussi bien qu’aux termes mêmes du procès-verbal de délimitation du 29 mars 1887.
En résumé, la Commission française maintient expressément l’intégralité de son tracé depuis le confluent de la Rivière de加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) jusqu’au défilé de 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ai, Pei-Kang-Ai) comme étant rigoureusement conforme au procès-verbal de délimitation et dans ses parties reconnues exactes à la carte N°1 qui y est jointe.
Elle repousse, comme absolument contraire au traité, le tracé proposé par la délégation du Céleste Empire.
Cette dernière commission, de son côté, déclare s’en tenir à son tracé et n’accepte pas celui de la délégation française.
Dans ces conditions, l’entente n’ayant pu s’établir entre les commissaires des deux Puissances, ils ont décidé, d’un commun accord, qu’ils porteraient la question pour la faire résoudre en dernier ressort devant Tsongli-Yamen et le Ministre de France à Pékin, et qu’ils se sépareraient en attendant son règlement définitif.
Toutefois, avant de se séparer de la délégation du Céleste Empire, la Commission fait la déclaration suivant:
La comparaison de la carte de délimitation N°1, dans la partie qui s’étend entre la source Nord de la Rivière de 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) et le défilé 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai) avec la carte dressée en vue de l’abornement par les topographes de la délégation française, démontre que les indications données par le premier de ces documents, sont dans cette partie, absolument contraire à la vérité.
D’après la carte de délimitation N°1 établie par des géographes chinois et à laquelle les Commissaire français se sont fiés sans pouvoir la contrôler, 峝中(Ðộng-Trung, Tong-Tchong) est placé à plus de 25 kilomètres – environ 45 lis – au Nord de sa position réelle.
Il en résulte que la frontière en ligne droite partant de la source Nord de la Rivière de 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) se dirige, d’après cette carte vers le Nord-Ouest, pour revenir ensuite au Sud-Est vers le défilé de北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai), tandis que c’est le contraire qui a lieu.
De la source Nord de la Rivière de 加 隆 (Gia-Long – Kia-Loung) jusqu’au point A甲, la frontière en ligne droite va en réalité du Nord-Est au Sud-Ouest, et elle remonte ensuite vers le Nord pour gagner le défilé de 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai).
Trompé par cette représentation infidèle du pays, la commission de délimitation française a cru que le territoire restant à l’Annam formerait, de ce côté, une pointe s’enfonçant de plus de 25 kilomètres – environ 45 lis – dans la province du Quang-Tong, tandis qu’en réalité c’est le territoire de cette province qui pénètre au milieu celui de l’Annam par une pointe très accusée.
D’autre part, l’étude, tant sur la carte que sur le terrain, de la frontière de convention adoptée par les commissions de délimitation, fait ressortir qu’elles est partout défectueuse et par suite inadmissible.
Cette frontière suit, en effet, sur toute son étendue, le flanc d’une chaine de montagnes, ou bien coupe des Rivières, traverse des plaines sans jamais se plier à la conformation du pays.
Même abornée avec soins, elle donnerait lieu à des contestations continuelles et à des difficultés de toute nature entre les deux Puissances voisines.
Pour ces divers motifs, la Commission français d’abornement,
Considérant que la frontière conventionnelle déterminée par le procès-verbal du 29 Mars 1887 est partout défectueuse et nulle part admissible,
Considérant surtout que la Commission français de délimitation ne l’a acceptée que parce qua sa bonne foi a été surprise par une carte inexacte qui présentait faussement le territoire annamite comme s’avançant profondément en Chine, tandis qu’au contraire, c’est en réalité le territoire du Céleste Empire qui pénètre dans celui de l’Annam.
Demande la révision de la délimitation de la frontière Sino-Annamite depuis le confluent de la Rivière 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) jusqu’au défilé de 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai) et l’adoption définitive sur toute l’étendue de cette section, de l’ancienne frontière de l’Annam et de la Chine, la seule naturelle, la seule rationnelle, la seule acceptable, c’est-à-dire la rivière de北 市 (Bắc-Thị, Pei-Che) depuis 加 隆 (Gia-Long, Kia-Loung) jusqu’au point où elle cesse d’être navigable aux pirogues, et, de là jusqu’à 北崗 隘 (Bắc-Cương-Ải, Pei-Kang-Ai), les sommets de la plus haute chaine de montagnes.
Hoành-Mô le 24 Juin 1890.
Les Membres de la Commission Français,
Signé:
Commission d’Abornement de 1893 de la Frontière Sino-Annamite de Paxi-Kalong à Bac Cuong Ai.
7.3 Procès Verbal N°1 (13-11-1893)
De la réunion du treize novembre mil huit cent quatre vingt treize (sixième jour de la dixième lune de le dix-neuvième année de Khouang-sou)
Sont présents :
M.M. GALLIENI, Colonel Commandant le 1er Territoire Militaire, Officier de la Légion d’Honneur, Président de la Commission Française
AMAR, Chef de Bataillon, Commandant 1er Cercle de Moncay, Chevalier de la Légion d’Honneur,
AUDIE, Lieutenant d’Infanterie de Marine, Officier de Renseignement
TRESTOURNEL, Lieutenant Infanterie de la Marine
M.M. LI SHEOU-TONG, Mandarin de 4e rang, Préfet du Département de Kin-tchéou, délégué du Céleste Empire, Président de la Commission Chinoise
TCHAN MAN-HI, Sous Préfet de Phong-Sinh
Le deuxième membre TCHAN MIEN-TAC était absent.
Retenu à Canton plus de temps qu’ils ne pensaient, il n’était pas encore arrivé au moment de la réunion.
Il est décidé que la première séance aura lieu malgré absence de ce dernière membre.
M. le Colonel, Président de la Commission Française, fait connaitre le nom des officiers français désignés par le M. le Gouverneur Général pour faire partie de cette commission.
S. Exc. Ly, Président de la Commission Chinoise, donnée également le nom des commissaires chinois désigné par le Tsong-Li Ya-Men.
M. le Colonel Galliéni fait remarquer :
1er – que tout terrain contesté dit : « Territoire Hoan-Mo » entre Bac Cuong Ai et Bac Phong Sinh est montagneux, peu populeux, et que, par suite de son peu richesse, il ne saurait avoir une grande importance pour la France.
2e qu’il y a lieu de se conformer strictement aux procès-verbal n°1de la Commission de la Délimitation du 29 mars 1887, dont les clauses principales ont été rappelées dans le procès-verbal de la Convention de Pékin du 26 juin 1887.
3e qu’il faut rechercher autant que possible comme frontière entre les 2 puissances, des lignes naturelles, telles que cours d’eau, crêtes de montagnes, etc…
S. Exc. LY répond qu’il a également reçu des instructions pour se conformer strictement aux dispositions des mêmes documents, et qu’il est heureux de voir l’accord établi à ce sujet entre les 2 gouvernements.
En conséquence, il est décidé que, suivant les dispositions du Procès-Verbal n° 1 du 29 mars 1887, on adoptera le tracé réclamé antérieurement par la Commission chinoise de 1889, c’est à dire qu’à partir de Bac Phong Sinh on remontera d’abord la branche Sud-Ouest du Song Kalong Ho jusqu’à son intersection avec la ligne figurée sur la carte chinoise de Labastide en pointillés verts.
On suivra ensuite cette ligne verte jusqu’au point A en laissant à la Chine, conformément à la convention de Pékin, les territoires de P’i Lao, Pan Hing et Lanh Hoai.
Au nord du point A jusqu’à Bac Cuong Aï la frontière sera établie suivant la ligne en pointillés verts qui est dessinée entre ces 2 points sur la carte Chiniac de Labastide et qui représente la frontière réclamée en 1889 par les Commissaires chinois, mais tout en laissant le territoire de Trinh Thuong à l’Annam, comme l’a signifié le Procès-Verbal n° 1.
S. Exc. LY approuve cette décision en faisant remarquer que, s’il n’est pas possible de faire le moindre changement en ce qui concerne les localités dont le nom est porté sur le Procès-Verbal n° 1, il sera du moins facile, une fois sur les lieux, de se faire des concessions mutuelles du côté de Toung Tchoung pour des terrains dont nom ne figure pas sur le dit procès-verbal. Ce sera l’affaire des membres de la commission qui se rendront sur le terrain.
En ce qui concerne le placement des bornes, il est convenu entre les 2 commissions que, sur la partie de la frontière marquée par des cours d’eau chaque gouvernement sera chargé de la pose des bornes qui seront préparées par chacune des 2 puissances et posées aux emplacements fixés par les deux commissions.
Dans les portions de la frontière où le tracé suivra des crêtes de montagnes, on se contentera d’une seule borne portant sur deux faces les indications adoptées par chaque pays.
M. le colonel GALLIENI annonce à S. Exc. le préfet LY qu’il doit, par ordre de M. le gouverneur Général, quitter dans quelques jours Moncay pour se rendre à Langson, qu’il s’éloigne à regret de la commission chinoise, mais qu’il laisse avec elle, pour s’occuper du détail des opérations M. le Commandant AMAR et des officiers qui ont étudié sérieusement la question, qui connaissent bien le pays, et auxquels il est recommandé de se conformer exactement au tracé réclamé par la Commission chinoise de 1889 et 1890.
Le tracé à suivre étant ainsi parfaitement déterminé, le colonel, Président de la Commission française pense pouvoir se retirer avec que l’assurance que l’entente règnera entre les deux commissions pendant toute la durée des travaux.
Fait et signé à Moncay le treize novembre mil huit cent quatre vingt treize, sixième jour de la dixième lune de la dix-neuvième année de Khuong-sou.
Les membres de la commission chinoise.
Les membres de la commission française :
(signé) : GALLIENI, AMAR, AUDIE, TRESTOURNEL.
7.4 PROCES-VERBAL D’ABORNEMENT (21-12-1893).
DE BẮC THỊ – KALONG à BAC CUONG AÏ
Les Commissions d’abornement nommées par les Gouvernements intéressés en exécution de la convention signée à Pékin le 26 juin 1887 (6e jour du 5e mois de la 13e année de Khouang-sou) ;
Après avoir reconnu elles-mêmes cette section de la frontière sur toute son éttendue ;
se conformant au texte de la convention de Pékin précitée, et à celui du procès-verbal de délimitations signé à Moncay, le 29 mars 1887 (5e jour de la 3e lune de la 13e année de Khouang-sou) ;
En vertu de l’accord intervenu en 1893, entre les deux gouvernements, pour l’abornement de cette portion de frontière, abornement au sujet duquel les commissions de 1889-1890 et de 1890-1891 n’avaient pu s’entendre ;
Usant des pouvoirs qui leur ont été conférés par leurs Gouvernement respectifs ;
Ont d’un commun accord, reconnu, constaté et décidé que le tracé définitif et irrévocable de la deuxième section de la frontière du Quang-tong était fixé ainsi qu’il suit :
1° – Depuis 北市 (en annamite Bắc-Thị, en chinois Pe-Che) et 加隆 (en annamite Gia-Long, en chinois Kia-loung), la frontière suit le milieu de la rivière de (en annamite Gia-long, en chinois Kia-loung), qui est un affluent occidental de la rivière de (en annamite Bac-Thi, en chinois Pe-Che).
A 500 mètres en aval de 北風生 (en annamite Bắc Phong Sinh, en chinois Pe Foung Chen), la rivière se divise en deux branches, l’une venant du N.O et l’autre du S.O.
Pour se conformer à l’accord qui vient d’intervenir entre les deux Gouvernements la ligne frontière est formée par la branche S.O jusqu’en un point P, où la rivière se divise encore en deux branches.
A partir du point P, elle suit la branche N.O qui coule au N et au S.E du village 安排 (en annamite An-Bài, en chinois An-Paï).
Ce village de An-Bài appartient à l’Annam.
Ce ruisseau dit d’An-Baï forme la frontière jusqu’au sommet côté 955 dénommé (en annamite Khanh hoài Lãnh, en chinois Kang houaï ling 坑懷嶺).
Conformément aux dispositions admises par les deux commissions, on prendra toujours pour frontière le milieu du lit des fleuves ou rivières.
En outre, dans le but d’assurer en toutes circonstances à la batellerie des deux puissances voisines la libre navigation sur els cours d’eau, les deux commissions ont que convenu que ce sera toujours le chenal navigable qui sera pris comme frontière.
Dans le cas où le cours d’eau ne serait pas navigable, la frontière sera formée par le chenal le plus profond ou le plus large ou ayant le plus d’eau.
Si par suite de crues ou de baisses des eaux, le chenal pris pour frontière venait à être déplacé, et, si des banc ou îlots nouveaux venaient à se former, la frontière se trouverait reportée naturellement dans le nouveau chenal déterminé d’après les conditions ci-dessus spécifiées, et les bancs ou îlots de nouvelle formation appartiendront à la puissance du côté de laquelle ils se trouveront.
Sur le cours des rivières, des bornes seront placées sur les deux rivesaux points des passages les plus fréquentés, ou en face des localités importantes, ou aux points de réunion des affluents ; sur les autres parties des cours de ces rivières, les bornes seront placées de loin en loin alternativement sur chaque rive.
Dans les portions de la frontière où le tracé suivra des crêtes de montagnes, on se contentera d’une seule borne commune portant sur les deux faces les indications adoptées par chaque pays.
On donnera aux bornes les numéros qui suivent le numéro (10) des dernières bornes posées par les commissions d’abornement de 1889-1890.
2° – A partir du Khanh Hoài Lãnh坑懷嶺, la frontière suivra d’un façon généralela direction E.O.
Elle se dirige d’abord légèrement au S.E et atteint la rivière de (en annamite Daï Khanh Vi, en chinois Đại Khánh Vĩ大坑尾) puis prend la direction de l’Ouest en coupant la rivière de (en annamite Tiểu Khánh Vĩ, en chinois Siao Kang Ouei小坑尾) et de (en annamite Mã-song, en chinois Ma-choang馬雙).
A partir de ce dernier point, elle se dirige légèrement au S.O sur le sommet du (en annamite Thanh Long Lãnh, en chinois Ta’ing Loung Ling青龍嶺), côté 843, puis revient rejoindre la direction générale E.O., dont il est parlé ci-dessus, et atteint la rivière de (en annamite Bi Lao, en chinois Phi Lao披勞).
La frontière est formée par cette rivière de Bi Lao, laissant à la Chine la rive droite avec les villages de Bi Lao, de (en annamite Bản Hưng, en chinois Pan Hing本興), ( en annamite Na Niệp, en chinois Na Kuet那捻) ; en laissant à l’Annam sur la rive gauche, le village de (en annamite Cúc Lị, en chinois Ku Li菊涖).
3° – Le milieu de la rivière de (en annamite Động Mô, en chinois Toung Mou洞謨), c’est-à-dire le Sông Tiên Yên, forme ensuite la frontière jusqu’au Nord du village de Động Mô.
Les villages de 蒲楠 (en annamite Bồ-Nam, en chinois Bou Nam), 坤文(en annamite Khôn Văn, en chinois Kw’an Ouen), 峝中 (en annamite Động-Trung, en chinois Toung Tchoung) appartiendront à la Chine ; les villages de 那簿 (en annamite Na-Bộ, en chinois Na-Pou), de 營 叫 (en annamite Dinh-Kiều, en chinois Yng Kiao), 本岑de (en annamite Bản-Sầm, en chinois Penn Chin), de 洞批 (en annamite Đông-Phê, en chinois Toung Pi), et de洞謨 (en annamite Đồng-Mô, en chinois Toung-Mou), appartiendront à l’Annam.
La ligne frontière sera ensuite formée par la rivière de 那沙 (en annamite Na-Sa, en chinois Na-Cha), affluent de la rive droite du Song Tien Yen qui passe à l’Est du village de Na Sa et à l’Ouest du village de 洞舍 (en annamite Đông-Xả, en chinois Toung Sié).
Na-Sa appartiendra à l’Annam ; Ðông-Xả à la Chine.
La frontière suivra ensuite le cours de ce même affluent jusqu’à son intersection avec le ruisseau qui prend sa source à 500 mètres de 呈祥 (en annamite Trinh Tuong, en chinois Tcheng Siang) ; elle suivra ce ruisseau depuis cette intersection jusqu’à sa source ; de là, elle se dirigera par des lignes droites jusqu’à 北崗 (en annamite Bac Cuong Aï, en chinois Pé Kang Aï), passant par les sommets 675, 812 et 746 qui se trouvent au N.O. de Trinh Tuong.
Le village de Trinh Tuong appartient à l’Annam ; ceux de 衞慙 (en annamite Vệ Tàm, en chinois Shu Tsan) et de 矯曹(en annamite Kiểu-Tào, en chinois Kiao Tsao) à la Chine.
A partir du sommet 746, la frontière ira rejoindre en ligne droite le col 662, où se trouve la borne n° 67 de la frontière du Quangsi.
En conséquence des dispositions arrêtées au paragraphe 1er ci-dessus, les commissions ont procédé elles-mêmes à la pose des bornes sur la deuxième section de la frontière :
EN TERRITOIRE ANNAMITE
BORNE n° 11
au confluent de la rivière de 加隆 (en annamite Gia Long, en chinois Kia-Loung).
Repérage azimuths magnétiques Poste de Pac-si (angle N.E.) 317°
signal a 51°
BORNE n° 12
en face de 那浪 (en annamite Na Loung, en chinois Na Lang).
Repérage azimuths magnétiques Blockhaus de Nam-si (angle N.E.) 286°
signal d 328°
BORNE n° 13
au Sud-Est du poste chinois de三左 (en annamite Tam Tá, en chinois Sann Tao), et au Nord de la ferme de大峝田 (en annamite Đại Đồng Điền, en chinois Ta Tioung Tiênn).
Repérage azimuths magnétiques signal q 93°
signal l 29°
BORNE n° 14
en face du confluent de la branche S.O. du Kalong Ho et de la branche N.O. dite de 那流 (en annamite Na Luu, en chinois Na Liou).
BORNE n° 15
sur la croupe à l’Ouest du confluent du Kalong Ho et du ruisseau de文冩 (en annamite Vấn-Tả, en chinois Ouen Tou).
BORNE n° 16
au S.E. de安排 (en annamite An Baï, en chinois An Paï), sur la coupe dominant le confluent des petites branches du Kalong Ho.
Repérage azimuths magnétiques
Sommet du Khanh hoaï Lanh 95°
Poste de Bac Phong Sinh 290°
BORNE NON NUMEROTEE.
est représentée par un rocher très visible au sommet du Khanh hoaï Lanh et sur lequel les inscriptions communes aux deux puissances sont gravées.
BORNE COMMUNE n° 17
sur la croupe située à l’Est de la rivière de大坑尾 (en annamite Đại Khanh Vĩ, en chinois Ta Kang Ouei), à 1000 mètres au S.E. du 坑懷嶺Khanh Hoài Lãnh.
Repérage (azimuths magnétiques) :
sommet du南雲嶺 (en annamite Nam Vân Lãnh, en chinois Nan Yun Ling)
point de triangulation
côté 1157 : 328°
Sommet du Khanh hoaï Lanh 119°
BORNE COMMUNE n° 18
sur la croupe à l’Ouest de la rivière de Đại Khanh Vĩ.
Repérage (azimuths magnétiques)
sommet du小坑嶺 (en annamite Tiểu Khanh Lãnh, en chinois Siao Kang Ling), point de triangulation côté 517 : 187°
Sommet du Khanh hoaï Lanh : 105°
BORNE COMMUNE n°19
sur la croupe l’Est de la rivière de 小坑尾 (en annamite Tiểu Khanh Vĩ, en chinois Siao Kang Ouei).
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Nam Van Lanh : 47°
Sommet du Khanh hoaï Lanh : 99°
BORNE COMMUNE n° 20
au sommet de la montagne qui sépare le cours supérieur de la rivière de Tieu Khanh Vi et celui de la rivière de Ma-Song.
Repérage (azimuths magnétiques)
sommet du Khanh hoaï Lanh :101°
sommet du Tieu Khanh Lanh :145°
BORNE COMMUNE n° 21
au Nord du confluent de la rivière de Ma-Song avec un affluent occidental.
BORNE COMMUNE n° 22
au sommet du 青龍嶺 (en annamite Thanh Long Lãnh, en chinois Te’ing Loung Lin) côté 843.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du 禄嫏嶺 (en annamite Lộc Lang Lãnh, en chinois Lou Teng Ling) :149°
Sommet de 長二 (en annamite Trường Nhị, en chinois Tchang Eurl) : 204°
BORNE n° 23
à l’intersection de la rivière de 披勞(Phi Lao) Bi Lao avec la ligne frontière déterminée par une ligne droite menée au N.O. du Thanh Long Lanh.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet Truong Nhi :166°
Sommet de Thanh Long Lanh : 85°
BORNE n° 24
au confluent de la rivière de Phi-Lao avec un petit affluent de la rive gauche, sur une croupe dominant ces deux rivières.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du 姑罵嶺 (en annamite Cô Mạ Lãnh, en chinois Cao Pa Ling) point de triangulation
coté 960 : 314°
Sommet du高杷嶺 (en annamite Cao Ba Lãnh, en chinois Cao Pa Ling) : 9°
BORNE n° 25
au confluent de la rivière de Phi-Lao, au Sud du village chinois de 姑漂 (en annamite Cô Phiêu, en chinois Kou-Piao).
Repérage (azimuths magnétiques)
sommet du Cô Mạ Lãnh : 18°
sommet du (Kiou Pin Ling) Lạp Bình Lãnh垃甁嶺côté 551 : 286°
BORNE n° 26
au Nord du village de菊蒞 (en annamite Cúc Lị, en chinois Ku Li) à 360 mètres du confluent du Song Tiên-Yên avec un affluent de la rive gauche.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du (en annamite Lạp Bình Lãnh, en chinois K’iou Pin Ling) côté 551 : 205°
Sommet du Cô Mạ Lãnh : 101°
BORNE n° 27
à 240mètres au S.E. du village 那浦 (en annamite Na Phố, en chinois Na Pou).
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Cô Mạ Lãnh : 106°
Sommet du Lạp Bình Lãnh : 180°
BORNE n° 28
à 360 mètres au Nord-Est du village de 本岑(en annamite Bản Sầm, en chinois Penn Ch’in).
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Lạp Bình Lãnh : 107°
Cote 327 (au N.E. du poste de Hoan Mô) : 226°
BORNE n° 29
sur la croupe au N du confluent de la rivière de Dong Mô et de celle de Na Sa.
Repérage (azimuths magnétiques)
Cote 327 : 85°
Poste de Hoan Mô (côté Ouest) : 28°
BORNE n° 30
à 60 mètres au S.E. du village de 那沙 (en annamite Na Sa, en chinois Na Cha).
Repérage (azimuths magnétiques)
Cote 327 : 65°
Poste de Hoan Mô (côté Ouest) :343°
BORNE COMMUNE n° 31
à 600 mètres à l’Est de 呈祥 (en annamite Trinh Tuong, en chinois Tcheng Siang).
Repérage (azimuths magnétiques)
Poste de Hoan Mô : 347°
Sommet du 東另嶺 (en annamite Đông Lánh Lãnh, en chinois Toung Linh Ling)
cote 763 : 210°
BORNE COMMUNE n° 32
à 1160 mètres au N.N.O. du village de Trinh Tuong.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Ðông-Lánh-Lãnh : 176°
Sommet du (en annamite Pha Lai Lanh, en chinois Pa Lai Ling)
cote 895 : 73°
BORNE COMMUNE n° 33
au col situé entre les côtes 746 et 750 ; à 340 métres au S ; de la vallée de Bac Cuong Aï.
EN TERRITOIRE CHINOIS
BORNE n° 11
au confluent de la rivière de 加隆 (en annamite Gia-Long, en chinois Kia Loung).
Repérage (azimuths magnétiques)
Poste de Pa Xi (angle N.E.) : 11°
signal a : 51°
BORNE n° 12
en face de 六真(en annamite Lục-Chân, en chinois Lou Chan).
Repérage (azimuths magnétiques)
signal b : 84°
signal g : 22°
BORNE n° 13
au N.E. du poste français de 捻市 (en annamite Niệm-Thị, en chinois Yen Che).
Repérage (azimuths magnétiques)
Blockhaus de Nam-Si (angle N.E.) : 307°
signal d : 55°
BORNE n° 14
au confluent du Kalong Ho et de la rivière à l’Est de 灘(en annamite Than Tan, en chinois T’ann San).
Repérage (azimuths magnétiques)
Blockhaus de Nam-Si (angle N.O.) : 31°
signal q : 343°
BORNE n° 15
au confluent des deux branches N.O. et S.O. du Kalong Ho sur la rive droite de la branche dite de 那流 (en annamite Na Lưu, en chinois Na Liou).
BORNE n° 16
sur la croupe qui domine le confluent du Kalong Ho et du ruisseau D’An Bài.
Repérage (azimuths magnétiques)
Khanh Hoài Lãnh : 277°
Poste de Bắc Phong Sinh (angle N.O.) : 292°
BORNE non numérotée
Est représentée par un rocher très visible au sommet du Khanh Hoài Lãnh, et sur lequel les inscriptions communes aux deux puissances sont gravées
BORNE n° 23
à l’intersection de la frontière avec la rivière de Phi-Lao, sur la rive droite.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Thanh Long Lãnh : 74°
Sommet du Cao ba Lanh : 342°
BORNE n° 24
à 180 mètres au S.O. de Bi Lao.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Cao Ban Lanh : 23°
Sommet du (en annamite Co ma Lanh, en chinois Kou ma Ling) point de triangulation cote 960 : 339°
BORNE n° 25
Sommet du Co Ma Lanh : 99°
Sommet (en annamite Ki Ban Lanh, en chinois Kieu Pin Ling) : 191°
BORNE n° 26
à 400 mètres à l’Ouest du village annamite de 營叫 (en annamite Dinh-Khiếu, en chinois Ying Kiao).
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Co ma Lanh : 92°
Cote 327 : 249°
BORNE n° 27
à 720 mètres au Nord du village annamite de 洞批 (en annamite Đỗng Phê, en chinois Toung Pi) à la cote 305.
Repérage (azimuths magnétiques)
Cote 327 : 109°
Poste de Hoan Mô (Côté S.E.) : 291°
BORNE n° 28
à l’Est du confluent de la rivière de Dong Mô et de la rivière de Na Sa.
Repérage (azimuths magnétiques)
Poste de Hoan Mô (Côté Ouest) : 22°
Cote 327 : 87°
BORNE n° 29
à 380 mètres au S.E.E. du village de 那沙(en annamite Na Sa, en chinois Na Cha).
Repérage (azimuths magnétiques)
Poste de Hoan Mô (coté Ouest) : 344°
Cote 327 : 73°
BORNE n° 30
à 100 mètres du village chinois de 那舍 (en annamite Na-Xá, en chinois Na Sié).
Repérage (azimuths magnétiques)
Cote 327 : 64°
Poste de Hoan Mô (côté Ouest) 337°
BORNE n° 31
à 120 mètres à l’Ouest du village chinois de 洞舍 (en annamite Đông-X á, en chinois Toung Sié)
Repérage (azimuths magnétiques)
Cote 327 : 22°
Poste de Hoan Mô (côté ouest) : 336°
BORNE n° 32
au confluent et à 60 mètresdu petit ruisseau servant de frontière au S.E. de Trinh Tuong.
Repérage (azimuths magnétiques)
Cote 327 : 22°
Distance de la borne au Sud-Est du village de Trinh Tuong : 660m
BORNE n° 33
au confluent du ruisseau venant du village de 衛喒 (en annamite Vệ Tàm, en chinois Schu Tsan) avec la rivière de Na Sa.
Repérage (azimuths magnétiques)
Sommet du Dong Lanh Lanh : 60°
Distance de la borne au S.E. de Ve Tam : 400m
Fait et clos à Hoan Mô le vingt neuf décembre mil huit cent quatre vingt treize (dix neuvième jour de la onzième lune de la dix neuvième année de Khouang Sou) en double expédition en français et en chinois dont un exemplaire a été remis aux deux commissions d’abornement française et chinois avec un croquis et une carte certifiés conformes pour y être annexés.
Mais il reste entendu qu’en cas de contestation, le texte français dudit procès-verbal seul fera foi.
Les membres de la commission française,
(signé) : Galliéni ; Amar, Audié, Trestournel
Les membres de la commission chinoise : Không ghi.
Trương Nhân Tuấn
Tài liệu tham khảo: hồ sơ Phân định biên giới CAOM
Tập sách: Biên giới Việt-Trung 1885-2000 Lịch sử thành hình và những tranh chấp. NHX Dũng Châu 2005. Tác giả Nhân Tuấn Ngô Quốc Dũng.
Đọc thêm các bài có liên quan của cùng tác giả:
Lịch sử tranh chấp các đảo Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu trong vịnh Vạn Xuân
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=356
Nghiên cứu hiệp ước Thiên Tân 9 tháng 6 năm 1885 . (phần 1)
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=253
http://vn.rd.yahoo.com/blog/mod/art_title/*http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=674