WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

“Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu”

Tôi  xin được  mở đầu bài  viết này bằng hai  đoạn  trong  “Bài  thơ về hạnh phúc” của nhà thơ  Bùi  Minh Quốc:

… Nhớ chăng em, cái mùa mưa đói quay đói quắt
Mỗi bữa chia nhau nửa bát măng rừng
Em xanh gầy, gùi sắn nặng trên lưng
Môi tái ngắt, mái tóc mềm đẫm ướt
Bao giốc cao em cần cù đã vượt
Và mỗi lần ngồi nghỉ, em nhìn anh

Em nói tới tương lai tươi thắm ngọt lành
Em nói tới những điều em định viết
Giữa hai cơn đau em ngồi ghi chép
Con sông Giàng gầm réo miên man
Nước lũ về… Trang giấy nhỏ mưa chan
Em vẫn viết: lòng dạt dào cảm xúc.
Và em gọi đó là hạnh phúc…

… Em ra đi chẳng để lại gì
Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi
Và anh biết khi bất thần trúng đạn
Em đã ra đi với mắt cười thanh thản
Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai
Bởi biết mình có mặt ở tương lai.
Anh sẽ sống đẹp những ngày em chưa kịp sống
Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu
Em trong anh là mùa xuân náo động
Từ phút này càng rực rỡ bao nhiêu.

Trong kho tàng thi ca Việt Nam hiện đại có ba bài thơ khóc vợ thật hay, đó là: “Mầu tím hoa sim” của Hữu Loan, “Núi Đôi” của Vũ Cao và “Bài thơ về hạnh phúc” của Bùi Minh Quốc. Mỗi bài có cái hay riêng, tôi không đủ trình độ bình luận mà chỉ xin nói về một điểm khác, hay là hơn, của bài “Bài thơ về hạnh phúc” so với hai bài kia.

Người bạn đời ra đi để lại trong Hữu Loan nỗi nhớ của những “chiều không hết”:

“Chiều hành quân
Qua những đồi sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt”

Nỗi nhớ người chiến sỹ đồng đội của Vũ Cao bật lên thành tiếng gọi:

“Nhờ nhau anh gọi em đồng chí”

Thành sự ngưỡng vọng:

“Anh đi bộ đội sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”.

Với Bùi Minh Quốc sau nỗi nhớ về “cái mùa mưa đói quay đói quắt“, về “ánh mắt cười lấp lánh sau hàng mi”  là lời hứa:

Anh sẽ sống đẹp những ngày em chưa kịp sống
Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu

Bài viết này bàn về lời hứa của Bùi Minh Quốc (BMQ).

*

Dương thị Xuân Quý (DTXQ) đã ngã xuống cho tình yêu sự tưởng vọng về một đất nước thống nhất. Thì đất nước đã thống nhất rồi. Nhưng, cao hơn sự thống nhất, phải là sự toàn vẹn. DTXQ chưa kịp biết điều này để mà yêu sự dấn thân cho sự nghiệp đó đối với đất nước. Cho nên BMQ lại phải hơn một lần dấn thân để “yêu trọn”.

Và, nhà thơ đã viết “Thơ dâng”:                                                                                        
Tôi ngước mắt vọng trời
Trời rựng máu
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi cúi đầu tìm đất
Đất ứa lệ
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi vây giữa ngàn thông ngàn hoa
Gốc thông nào cũng khắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Cánh hoa nào cũng nhắc
Hoàng Sa
Trường Sa

Kìa vụt hiện ngọc ngà
Người mẫu
Em lớn từ lệ máu
Hoàng Sa
Trường Sa

……

Tôi không hiểu đoạn 4 này lắm nhưng đọc lên tôi láng máng nghĩ đến DTXQ, bởi vi đề tựa bài thơ, BMQ đã viết: “Kính dâng anh linh các liệt sĩ vì Tổ Quốc đã bỏ mình trong lòng đất lòng biển…”.
Cả tính mạng của người vợ yêu thương cùng với “Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt” (1) cho sự nghiệp thống nhất đất nước, cho nên hơn ai hết BMQ thấm nỗi đau khôn xiết nếu bị người ta “xẻo” mất Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi vì, nỗi đau đất nước không toàn vẹn còn kinh khủng hơn nỗi đau chia cắt biết bao nhiêu.

Nỗi đau ấy khiến BMQ, hơn ai hết, đã tỉnh táo chỉ ra thật rạch ròi cái bọn giặc thù nguy hiểm hơn mọi giặc thù:

Trước hết phải vạch ra cho cụ thể, dứt khoát: trong “các thế lực thù địch” hiện nay, thì thế lực nào là nguy hiểm nhất?Câu trả lời đã rõ như ban ngày: đó là thế lực bành trướng hiện đại trong giới cầm quyền Trung Quốc, chứ không phải những thế lực từ phương tây hay từ cộng đồng người Việt hải ngoại” (2).

Không phải chúng chỉ chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và xâm lấn biên giới, mà theo BMQ, “Chúng đã và đang tạo ra sự “tự diễn biến” trong nội bộ dân tộc ta, trước hết là nội bộ Đảng ta” (2).Cả hệ thống tuyên giáo của Đảng ngày đêm, năm tháng ra rả hô hóan chống “diễn biến hòa bình” từ Mỹ và Phương Tây, BMQ tinh tường hơn khi xác định rằng:

Tính chất đặc biệt nguy hiểm trong âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc đối với nước ta chính là ở đấy: bành trướng thông qua mối quan hệ giữa hai Đảng cầm quyền. Và tính chất đặc biệt nguy hiểm này chưa bao giờ được đề cập, được làm rõ trong công tác lý luận và tư tưởng, thậm chí còn cố tình lờ đi. Chính nhờ mối quan hệ giữa hai Đảng mà bọn Trần Ích Tắc, bọn Lê Chiêu Thống hiện đại thẻ-đỏ-tim-đen mới ẩn náu lâu đến thế, sâu đến thế trong bộ máy cầm quyền, và bọn này đã từ trong bóng tối ung dung thực hiện mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” một cách “chính thống”” (2).

Hẳn là BMQ không hề/không dám hàm hồ khi vạch mặt “bọn Trần Ích Tắc, bọn Lê Chiêu Thống hiện đại thẻ-đỏ-tim-đen mới ẩn náu lâu đến thế, sâu đến thế trong bộ máy cầm quyền”, bởi vì ông đã “bắt được quả tang”:

Báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng lại không phải là tờ báo thể hiện được vai trò tiền phong gương mẫu trong nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, mở miệng/thông tin nói sự thật, chống bành trướng, chống nội xâm, thực hành dân chủ. Tổng biên tập Báo điện tử ĐCSVN Đào Duy Quát đưa tin (vô tình hay cố ý?) có lợi cho thế lực bành trướng, phương hại đến việc khẳng định chủ quyền biển đảo của quốc gia nhưng chỉ bị cảnh cáo trong khi đáng lẽ phải khai trừ cách chức ngay lập tức, một kiểu xử lý rất hữu khuynh nếu không nói là biểu hiện của thái độ chư hầu. Mà rõ là một kiểu tự bày tỏ tư cách chư hầu rồi chứ còn gì nữa, khi mà vào dịp kỷ niệm 30 năm giúp nước bạn Campuchia thoát nạn diệt chủng (7.1.1979 – 7.1.2009), chiến thắng giặc bành trướng xâm lược các tỉnh biên giới phía bắc (17.2.1979 – 17.2.2009), báo chí im tịt không một dòng tưởng niệm các liệt sĩ. Không thể lấy việc cần phải mềm dẻo giữ tình giao hảo giữa hai quốc gia để biện minh cho một thái độ vô cảm bạc bẽo đối với xương máu của chiến sĩ và đồng bào trong quá khứ như thế” (3).

Bởi vì ông đã phải trừng mắt lên trước cái cảnh:

Thanh niên, sinh viên, nhà báo, văn nghệ sĩ đi biểu tình trật tự ôn hòa trên đường phố và trước đại sứ quán, tổng lãnh sự quán Trung Quốc để trực tiếp khẳng định với đối phương Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam thì bị đàn áp thô bạo – bị quật xuống đường, bị bóp cổ, bị còng tay, rồi công an lôi về phường sách nhiễu, không từ cả đến các cựu chiến binh cao tuổi chỉ đứng bên hè hoan nghênh ủng hộ, mọi người phải phẫn nộ hỏi những người lính ăn lương từ tiền thuế của dân để làm nhiệm vụ bảo vệ dân: “Các anh có còn là người Việt Nam nữa hay không?”. Có nhà báo bị đưa ra tòa với một màn xử ngụy trang vụng về gượng gạo bằng khép tội trốn thuế. Phải chăng những người ngồi ghế xét xử đã “tự diễn biến” thành công cụ cho thế lực vong bản bên trong và bành trướng bên ngoài?” (3).

Bởi vì, ông đã từng nghe Phan Đắc Lữ – một người tham gia kháng chiến từ lúc 16 tuổi, thuộc dòng họ Phan ở Bảo An, Gò Nổi, Quảng Nam, bà con gần gũi với các nhân vật yêu nước, cách mạng, và cán bộ cao cấp Phan Khôi, Phan Thanh, Phan Bôi, Phan Diễn… – phàn nàn rằng tập thơ “Bốn mùa tôi” của nhà thơ này bị nhà xuất bản Hội Nhà văn cắt sửa một cách thật vong bản trắng trợn những đoạn nói đến sự toàn vẹn giang sơn như:

Tổ Quốc ta nơi nào cũng đẹp
Từ ải Nam Quan đến Cà Mau
Sông là máu đừng đem mua bán
Núi là xương đừng lấy đổi trao

Cho nên BMQ đã từng nêu những kiến nghị thật chí lý:

1/-Trong nhiệm vụ chống diễn biến hòa bình, phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống diễn biến hòa bình của chủ nghĩa bành trướng hiện đại Trung Quốc, phải chống triệt để, thường xuyên và lâu dài trên tất cả mọi mặt nhưng trước hết phải tập trung chống thủ đoạn chiến lược diễn biến hòa bình thông qua mối quan hệ giữa hai Đảng cầm quyền.

2/-Vận động toàn Đảng toàn dân yêu cầu cơ quan lãnh đạo Đảng phải tiến hành ngay việc xem xét lại một cách căn bản mối quan hệ giữa Đảng ta và đảng Cộng sản Trung Quốc (theo tôi, thực tế lịch sử đã cho thấy đó là mối quan hệ giúp một hại mười, sự giúp đỡ là của nhân dân Trung Quốc, chúng ta đời đời ghi ơn, nhưng thế lực bành trướng luôn lợi dụng sự giúp đỡ đó để thực hiện mưu đồ bành trướng). Trong khi chờ đợi cơ quan lãnh đạo bắt tay vào việc thì toàn Đảng toàn dân phát huy tinh thần làm chủ, tích cực chủ động tiến hành xem xét lại mối quan hệ đó, đặc biệt là các bậc lão thành, các nhân chứng lịch sử cần nghiêm túc chấp hành chủ trương “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” mà Đảng khởi xướng từ đại hội 6, nói cho toàn Đảng toàn dân biết những sự thật bấy lâu bị bưng bít như lão thành cách mạng Hoàng Tùng đã nói (nhưng cũng chỉ mới nói được một phần nhỏ)” (3).

Đất nước không chỉ cần thống nhất mà lãnh thổ phải toàn vẹn. Thế vẫn chưa đủ, tình “yêu trọn” của BMQ còn đòi hỏi nhân dân phải được hưởng tự do, dân chủ.

Vậy mà ông cay đắng nhận thấy:

Tôi, người may mắn sống sót sau những hy sinh của Dương Thị Xuân Quý, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Giá, Chu Cẩm Phong cùng hàng triệu đồng bào đồng chí của tôi, từ 1975 trở đi càng ngày càng thấy nhân dân tôi đã lâm vào một bi kịch thê thảm nhất, cay đắng nhất, quái gở nhất: vì độc lập tự do mà cuồng nhiệt tự nguyện dốc cả sông máu núi xương để rồi “tự do” tự nguyện choàng lên cổ mình một cái ách nô lệ “vàng son” mang tên là sự lãnh đạo của Đảng, mà thực chất chỉ là sự cai trị độc đoán của hơn một trăm Ủy viên Trung ương, thậm chí chủ yếu là mười mấy Ủy viên Bộ Chính trị” (4).

Hy sinh cả tính mạng của vợ mình, cả tuổi xuân của mình để đất nước thóat vòng nô lệ ngoại bang nhưng thực tế cho thấy dân tộc lại đang phải gánh chịu một cái ách nô lệ còn nặng nề hơn:

Nô lệ đến mức người ta bảo bỏ phiếu cho ai là ngoan ngoãn bỏ cho người ấy, chẳng biết người ấy tốt xấu thế nào.

Nô lệ đến mức muốn nói điều mình nghĩ, mình thấy, mình biết cũng không báo nào đăng cho, cỡ như cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn mà cũng không được đăng trọn vẹn.
Nô lệ đến mức người ta áp đặt cái đường lối sai lầm dựa trên một kiểu lý luận nói lấy được (chữ dùng của tướng Trần Độ) là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng không biết mà cãi, hoặc biết mà không dám cãi, hoặc muốn cãi thì cũng không có diễn đàn mà cãi
” (4).

Cho nên ông khẳng định rằng:

Đối với đất nước ta hiện nay, muốn tiến kịp thời đại, trước hết là phải gấp rút thoát ra khỏi sự tụt hậu về chính trị. Hệ thống chính trị lạc hậu hiện nay là trở lực lớn nhất cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước…”(4).

Ông mô tả cái xã hội- chính trị này bằng thành ngữ dân gian:

Đảng chỉ tay, Quốc hội giơ tay, Mặt trận vỗ tay, Chính phủ ra tay, Doanh nghiệp nhà nước ngửa tay, Công ty hữu hạn ngoặc tay, Công an còng tay, Tội phạm bắt tay, Báo chí chùn tay, Trí thức phẩy tay, Đồng đội cụt tay, Quan chức đầy tay, Dân trắng tay” (4).

Hơn một lần BMQ quằn quại thét lên và khấn vái hương hồn các liệt sỹ:

Ôi, đau đớn làm sao, nhục nhã làm sao! Hỡi hồn thiêng các liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Văn Giá, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Trần Đăng, Thôi Hữu, Nam Cao, Trần Mai Ninh… và tất cả các liệt sĩ của tất cả các thế hệ đã ngã xuống vì độc lập tự do, hãy về đây mà chứng kiến cho nỗi nhục của chúng tôi! Chẳng lẽ chiến đấu như thế, hy sinh như thế để chuốc lấy nỗi nhục này? Sau bao nhiêu năm chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do, nay chỉ xin cái mức tự do ngôn luận như thời thực dân mà cũng không được. Xưa là nô lệ cho ngoại bang, nay lại làm nô lệ cho một nhúm cầm quyền nhân danh Đảng. Nhục quá! Nhục đến nỗi đến bữa quên ăn nửa đêm vỗ gối (con cúi xin Đức Thánh Trần cho con mượn lời này để bày tỏ nỗi lòng)” (4).

Thơ ông cũng thét lên tự trái tim ứa máu:

Cay đắng thay

Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này

Cay đắng thay

Một đời, một cõi nhân sinh
Thẳng lưng dẫu chạm thiên đình chẳng sao
Bùn nhơ tự chín tầng cao
Ngẩng đầu là thấy thiên tào mặt mo

Óc tim này chẳng ai cho

Có lẽ nào? Có lẽ nào? Lịch sử
Lại như con thò lò trong ván bài quỷ dữ
Máu nhân dân tuôn chảy đúc ngai vàng
Bạo chúa ngồi lem lẻm tụng nhân dân?
…Tương lai ấy bây giờ tôi sống dở
Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi
…Chẳng nhẽ khoanh tay nhìn tấn trò bội phản
Dân tộc này bị vỡ nợ Tự Do?
…Tôi lại đi, lầm lũi cuộc hành trình

Chỉ có thế thôi! Thơ
Với cường quyền
Ðối mặt
Sống trong tôi là triệu người đã khuất
Ðang thét đòi món nợ: Tự Do!

Bài thơ Tháng Tám

Có lúc ông không “thét”, chỉ ngâm vịnh thôi mà nghe vẫn cay đắng thay/mỉa mai thay

Tái thế nay ngồi núi Tản coi
Nước non thành cỗ chúng say cười
Quốc doanh đầy tớ chen nhau cuốc
Sưu dịch chủ làm chủ áo tơi
Ải Bắc lìa đau hồn tổ phụ
Biển Đông cắt nhẹm cháu con chơi
Ứa gan mà ngó bao hèn sĩ
Nhắm mắt đang đua múa bút bồi .

Họa bài “Vịnh bức địa đồ rách” của cụ Tản Đà
Một bạn đọc ký tên L.Hm.T đã phát biểu như sau khi đọc thơ Bùi Minh Quốc:

Những cách hành thơ của Bùi Minh Quốc, con người và cá tính dám nói lên tính “nhân dân thực sự” trong mình. Đó là điều không phải ai cũng làm được. Nghĩa là, một bài thơ ra đời, không phải để thỏa mãn cho cái yêu nghệ thuật mình, mà nó còn xuất phát từ nỗi “đau đời”. Thơ ông, tác phẩm ông, những chữ trong thơ của ông xuất phát từ hơi thở của dân tộc, kể cả khi nó trở nên gấp gáp… Đó là điểm khác biệt ông với đa số nhà văn nhà thơ hiện nay.

Và vì thơ ông đi cùng nhịp điệu lên xuống của cuộc sống nên đã làm cho đời thuờng Bùi Minh Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn ở những vần thơ như vậy. Nhưng điều đó làm nên ở ông một nhà thơ thực sự trong nền thi ca nhân dân Việt Nam. Điều đó giải nghĩa rộng ra, nghĩa là, ông đã đi cùng nhân dân, nói cùng nhân dân, và được nhân dân cảm thơ bằng cả tấm lòng…” (5).

Bùi Minh Quốc không chỉ thét lên bằng thơ, không chỉ kháng nghị, khuyến cáo, ông đã từng xuống đường đi đòi tự do.

Cuối đông 1988 ông cùng nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự thực hiện một chuyến đi xuyên Việt, từ Đà Lạt xuống Sài Gòn, qua các tỉnh Miền Trung, ra Hà Nội nhằm vận động trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi tự do báo chí và tự do xuất bản. Trong vòng 1 tháng 14 ngày, hai nhà văn-chiến sỹ đã đi hơn 6.000 cây số, thu thập được 118 chữ ký của giới văn nghệ ở các địa phương vào bản đòi tự do báo chí và tự do xuất bản.

(Lịch sử có thêm điều thú vị là số chữ ký này vừa đúng băng số chữ ký của 118 người tiên phong ký tên vào Bản Tuyên ngôn Dân chủ của Khối 8406).

Sau vụ này, tháng 6-1989, cũng như Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự bị cách chức và khai trừ Đảng. Cả hai còn là những nạn nhân đầu tiên của Nghị định quản chế hành chính 31/CP, thời hạn 2 năm!

Trong bức thư viết từ Quảng Ngãi đề ngày 4 tháng 8-1989 gửi ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng nhà thơ Thanh Thảo viết: “Những lời nói thẳng, than ôi, từ xưa nay vẫn thường mang tai họa cho người nói, nhưng cũng từ xưa nay, những kẻ sĩ có lương tri, những nhà văn chân chính vẫn tiếp tục cất lên những lời nói thẳng, dù biết tai họa có thể đến với mình. Quý ông đã khai trừ và cách chức về Đảng và hành chính với hai anh Quốc, Cự, nhưng không ai có thể khai trừ những bài thơ của nhà thơ Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc) ra khỏi lòng yêu mến, quý trọng của nhân dân, của người đọc. Không ai có thể cách chức cái thiên chức cao cả của người nghệ sĩ là đấu tranh cho cái thiện, cái đẹp, và chống quyết liệt cái xấu, cái ác dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi viết thư này để bày tỏ lòng cảm phục và tình đoàn kết với hai anh Bùi Minh Quốc và Bảo Cự”.

Từ Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 1998 tôi cũng đã úy lạo các dũng sỹ Lang Biang:

“Đã nhận được thư đề ngày 19.4.98 của Quốc. Nếu không có mấy dòng viết tay ghi thêm ở cuối thư thì mình cũng không cần chuyển bức thư Quốc gửi M.V.Kháng và H.Tiến đính kèm vì Tướng Trần Độ đã cho mình một bản sao thư đó cách đây ít lâu. Quốc có dặn mình đính chính trong bài viết là Quốc bị tù tại phường chứ không phải là tù tại gia. Điều đó không làm được vì bài viết đã lên Internet và đã in trên hầu hết báo tiếng Việt ở hải ngoại. Vả chăng, chẳng cần làm việc đó. Cái nhầm ấy chỉ là rất nhỏ so với cái sai của việc ban hành Nghị định 31/CP. Càng sai lầm khi vận dụng nó vào trường hợp của Quốc và Cự. Mình đã phản đối trực tiếp vấn đề này với Khổng Minh Dụ và Hoàng Phước Thuận hôm đối đáp thẩm vấn ở Bình Phước và ở Sài gòn. Sau đó, anh Phạm Vũ Sơn, tướng Trần Độ cũng đã lên tiếng bằng văn bản. Sắp tới sẽ là bài viết của cựu bí thư Thành ủy Hải phòng Hoàng Hữu Nhân. Quốc nên viết thư cho ông Hoàng Hữu Nhân. Hôm mình cho ông Nhân đọc bài của mình, ông ấy hỏi về Quốc. Mình đưa ông ấy xem thư Quốc gửi mình, gửi Kháng và Tiến, ông ấy bật khóc khi trao đổi với mình qua điện thoại.

Quốc cũng như Cự và Tụ hãy đinh ninh rằng các bạn được không chỉ trí thức trong và ngoài nước, mà cả các cựu chiến binh, các lão thành cách mạng yêu thương quý mến”.

*

Bài viết hồi tháng tư mới đây từ Đà Lạt mới càng sôi động biết bao nhiêu cái tình “yêu trọn” của BMQ:

“Ôi nhân dân, Người ẩn chứa những gì

Mà bao năm mòn gót còng lưng trước công đường của Đảng?

Các đầy tớ của Người mặt mày quan dạng

Ngồi dửng dưng sau từng núi đơn từ

Ôi nhân dân nhẫn nhục đến bao giờ?

Xiềng xích nào trong đầu Người trói buộc?

Nỗi nhẫn nhục nuôi béo bầy bạch tuộc

Trăm vòi đang hút kiệt nước non này

… Những con người tự giải phóng mình để góp phần đẩy mạnh công cuộc giải phóng xã hội như Kim Ngọc, như Võ Văn Kiệt ngày càng đông đảo. Ngày càng đông đảo những người Việt Nam tự giải phóng khỏi nỗi sợ trước ách kìm kẹp của bọn tự xưng là đầy tớ nhân dân để làm vua quan cách mạng (trong đó có bọn lì lợm bám giữ ngai ghế bằng cách cam tâm ngấm ngầm làm tay sai cho thế lực bành trướng). Dựa chắc vào các chủ trương đúng đắn, các điều khoản đúng đắn của Hiến Pháp và pháp luật, tiến hành công khai và hợp pháp, trầm tĩnh và ôn hòa, kiên quyết và kiên trì, sự nghiệp tự giải phóng nhất định phát triển không gì ngăn cản nổi.

Ngày càng đông đảo, những con người Việt Nam kết chặt cùng nhau chống nội xâm chống bành trướng, ngày ngày cùng nhau cất tiếng hát vang:

Giải phóng Việt Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước!” (6)

Nhà thơ-chiến sỹ Bùi Minh Quốc không chỉ thét lên bằng thơ, không chỉ xuống đường, ông đang rúc kèn xung trận.

Rút trong tập “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”

© Nguyễn Thanh Giang

© Đàn Chim Việt

 

Ghi chú:

(1)  – Câu thơ trong bài “Cay đắng thay” của Bùi Minh Quốc

(2)  – Bùi Minh Quốc – Chống diễn biến hòa bình của chủ nghĩa bành trướng hiện đại TQ

(3)  – Bùi Minh Quốc – Giữ vững và phát triển quyền mở miệng –

(4)  - Bùi Minh Quốc - Thư ngỏ gửi các bạn trẻ Việt Nam và hai bạn Mỹ Fred, Rob

(5)  L.Hm.T – Tôi thích ông – Bùi Minh Quốc

(6) – Bùi Minh Quốc – Giải phóng

8 Phản hồi cho ““Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu””

  1. Thích chửi says:

    Người VNCH không Cần phải yêu nước cũng trở thành người yêu nước . Người Đảng viên CS vì yêu nước lại rước hoạ vào đất nước , trở thành người hại nước .

    Cái thật , cái giả , cái số phần của dân tộc , cái lịch sử trớ trêu của đất nước , tạo nên những oán thù dân tộc , tạo nên những Anh hùng mù quáng .

    Cứ thế mà lập phòng tuyến chửi nhau . Chưởi cho tắt bếp , chửi cho lòi cái ngu chung của những con người thích vỗ ngực xưng danh , thích chửi .

  2. THƯỢNG NGÀN says:

    THÂN PHẬN MỘT NHÀ THƠ

    1.
    Tên anh là Dương Hương Ly
    Hay là Bùi Minh Quốc
    Cả hai cùng chỉ một cái tên
    Cả hai cái tên đều cùng chỉ một con người !

    2.
    Cả hai con người
    Từng đã sống qua những ngày bom đạn
    Ăn nửa bát măng rừng
    Đã biết thật sự thế nào là cái đói
    Anh cùng với người mình yêu !

    3.
    Rồi người yêu của anh đã một lần ngã xuống
    Chỉ ngã xuống có một lần
    Nhưng một lần cho muôn lần mãi mãi
    Chỉ vì một mảnh đạn vô tình
    Trong khốc liệt chiến tranh !

    4.
    Và riêng anh vẫn còn được sống
    Vì anh là quân nhân
    Chỉ riêng anh vẫn còn lành lặn sau chiến tranh !

    5.
    Rồi bất kỳ cuộc chiến nào cũng phải đi qua
    Cho dầu một cuộc chiến suốt ba mươi năm
    Hết sức điêu tàn và dài đằng đẵng
    Nó nuốt trọn của anh
    Đến cả một phần ba đời người
    Nên anh bây giờ cũng đã thành cằn cỗi
    Cả mái tóc cũng đã bạc phếch màu !

    6.
    Màu bạc này đúng là màu bạc của thời gian
    Đã thay vào cho màu hồng của một thời trai trẻ
    Màu hồng của thời kỳ mà anh đã từng say mê lý tưởng
    Một thứ lý tưởng vốn chỉ được cấy vào
    Trở thành như một thứ tâm hồn yêu thương đất nước !

    7.
    Anh đã từng sống và từng say sưa niềm hạnh phúc
    Nghĩ đó là màu hồng màu rạng rỡ của quê hương
    Vì anh cho rằng đó chính là màu của giai cấp đấu tranh
    Chính là màu đỏ của thiên đường quốc tế !

    8.
    Rồi bổng đâu tới một hôm
    Trong lòng anh tự dưng lại bừng tỉnh giấc mơ
    Anh thấy hải đảo Hoàng Sa
    Và cả một phần của hải đảo Trường Sa
    Bị mất đi một cách hoàn toàn tức tưởi
    Mà chưa biết khi nào dân ta mới hoàn toàn lấy lại !

    9.
    Anh cảm thấy đó như là một phần của thân thể mình
    Vì là một phần của quê hương, tổ quốc
    Rồi anh tự hỏi một cách xót xa
    Tại sao đảng lại cứ chỉ tay
    Tại sao quốc hội lại cứ giơ tay
    Tại sao mặt trận lại cứ vỗ tay
    Tại sao chính phủ lại cứ ra tay
    Tại sao doanh nghiệp quốc danh lại cứ ngữa tay
    Tại sao các công ty bên ngoài lại cứ ngoặc tay
    Tại sao công an lại cứ còng tay
    Tại sao tội phạm lại cứ bắt tay
    Tại sao báo chí lại cứ chùn tay
    Tại sao trí thức lại cứ phảy tay
    Tại sao các quan chức lại cứ đầy tay
    Tại sao các đồng đội của anh lại bị cụt tay
    Và tại sao người dân lại cứ trắng tay ?

    10.
    Những sự thắc mắc của anh quả thật sự bất ngờ
    Và nó cũng khiến anh trở thành điêu đứng
    Anh càng thấy tiếc thay cho trọn tuổi thanh xuân của mình
    Đã nhiệt tình dâng hiến
    Nhăm đúc nên chính cổ máy này
    Ôi cũng thật sự quá đắng cay !

    11.
    Anh kết luận cho rằng dân tộc này đã bị vỡ nợ về sự tự do
    Và anh lại phải tiếp tục bước đi
    Phải lầm lũi cuộc hành trình hãy còn đang bỏ dở
    Để nhằm thét lên và đòi lại món nợ tự do
    Như chính bản thân anh đã nói !

    12.
    Và quả nhiên trong chỉ một tháng mười bốn ngày ngắn ngủi
    Anh đã ra đi hơn cả sáu ngàn cây số
    Từ Đà Lạt xuống Saigòn
    Từ Miền Trung ra Hà Nội
    Đi để vận động các văn nghệ sĩ cùng trí thức
    Biết đấu tranh để đòi lại tự do !

    13.
    Anh đã biến cuộc hành trình thành hàng trăm chữ ký
    Bởi anh không thể chỉ ngồi đó mà than ôi
    Nhân dân còn phải nhẫn nhục tới bao giờ
    Vì loại xiềng xích nào trong đầu người trói buộc !

    14.
    Kết quả là sau cả chuyến đi dài xuyên Việt
    Đảng tịch của anh cũng liền bị khai trừ
    Nhưng anh vẫn cứ cho rằng
    Dẫu các chế tài hành chánh có phải là gì
    Thì các bài thơ yêu nước của anh
    Cũng không thể nào bị hoàn toàn loại bỏ !

    15.
    Bởi chúng vẫn sẽ còn kia mãi mãi qua thời gian
    Còn suốt qua lịch sử giống như một cuộc hành trình
    Cuộc hành vốn khởi thủy trình từ màu vàng
    Đã bị buộc phải chuyển sang thành màu đỏ
    Nhưng rồi lại chính từ màu đỏ
    Anh lại tự nguyện chuyển ngược nó thành lại màu vàng
    Màu vàng của dân tộc, của đất nước, và của nhân dân !

    16.
    Chính bởi thế anh vẫn được xem như một nhà thơ của nhân dân
    Một nhà thơ luôn bình dân giản dị
    Một nhà thơ vẫn cứ tự nguyện suốt đời
    Nhà thơ cho rằng chính vì lợi ích của nhân dân mà mình đã sống !

    NON NGÀN
    (29/8/12)

  3. Nguyen Dan phuong says:

    Khi Trung quốc (TQ) đã công khai bày tỏ ý đồ xâm lăng VN, xin đừng nhắc đến việc ta nợ nầng gì TQ, đừng nhắc “nhân dân VN nghìn đời biết ơn nhân dân TQ”
    Sau 1975 của cải miền nam VN đã nườm nượp chở sang Tàu trả nợ, khi TQ đã phát động cuộc chiến tranh biên giới phá nát 6 tỉnh biên giới phía Bắc.giết hại hàng vạn dân VN vô tội…,khi cố TBT Lê Duẫn đạ từng tuyên bố: TQ muốn dùng VN đánh Mỹ và sẽ đánh Mỹ đến người VN cuối cùng…Như thế thì TQ nợ ta chứ không phải ta nợ TQ. Đó là món nợ xương nợ máu…Bây giờ chúng ta đang sống trong sự cai trị hèn mọn của một nhóm lãnh đạo hèn mọn, chúng ta chưa đòi được món nợ đó. Nhưng nhất định con cháu chúng ta sẽ đòi được món nợ đó. Lịch sử đã khẳng định điều này Đó cũng là định mệnh khắc nghiệt mà vinh quang của dân tộc ta.
    Một lần nửa tôi mong mọi người đừng cho rằng ta nợ TQ trong chiến tranh chống Mỹ, đừng nhắc rằng “nhân dân VN ngàn đời nhớ ơn nhân dân TQ”. Nó vừa bi thảm vừa mỉa mai!

  4. LPN says:

    Góp một chút tâm tình vào nỗi lòng và tiếng thét của Bùi Minh Quốc:

    Xương với máu bao nhiêu năm phù phiếm!
    Nhắm mắt đi trên tang tóc điêu tàng…
    Hạnh phúc đó: trắng phau màu bọt biển,
    Bóng thanh bình: lạnh toát cả giang san…
    LPN.

  5. Thaophuong says:

    Đất nước nghèo tinh yêu cũng đói .. meo
    Mùa đông đầu yêu nhau .. chẳng có tiền mua áo ấm
    Nhìn em cười .. Anh lại thấy rưng rưng
    (đ t l)

    • LẠI MẠNH CƯỜNG says:

      Thưa qúi hữu và tác giả,

      Trong chúng ta có ai qua đây tự hỏi với Tố Hữu tình yêu ra sao nhỉ ???

      Ta thử ghé mắt xem qua một chút bài thơ nổi tiếng BÀI CA XUÂN 61, được ông sáng tác vào ngày đầu xuân 24-1-1961:

      http://www.youtube.com/watch?v=fA9Wc-BEApU

      (…)
      Như buổi đầu hò hẹn, say mê
      Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về
      Mà nói vậy: “Trái tim anh đó
      Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:
      Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
      Phần cho thơ, và phần để em yêu…”
      Em xấu hổ: “Thế cũng nhiều anh nhỉ!”
      Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí
      Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay
      Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay!
      (…)

      Thật ra ai cũng rõ, Tố Hữu là ông tổ cô đầu văn nghệ đảng CS. Chính TH đã thú nhận với Trần Đăng Khoa là TH chỉ làm thơ cổ động tuyên truyền cho CS !
      Tiêu chí cho một sáng tác văn nghệ thời CS phải có một số yếu tính chính yếu: tính đảng, tức giai cấp tính; tính sản xuất; tính chiến đấu (chống kẻ thù và khắc phục thiên nhiên kiểu với sức người sỏi đá sẽ thành cơm; hay vắt đất ra nước và thay trời làm mưa); cộng thêm tụng ca lãnh tụ !
      Bởi thế đừng ngạc nhiên khi có sự ra đời cái gọi là trường (dậy) viết văn, tức đào tạo văn thi sĩ, Nguyễn Du; rồi các trại (tập trung) sáng tác, để các văn nghệ sĩ có điều kiện thuận lợi mà viết tác phẩm theo đơn đặt hàng của đảng và nhà nước CS !

      Bằng chứng điển hình như bài thơ về tình yêu thời CS rất phổ biến như bài TRƯỜNG SƠN ĐÔNG TRƯỜNG SƠN TÂY của thi sĩ Phạm Tiến Duật được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc; hay bài tình ca Nhớ Về Hà Nội của Hoàng Hiệp …

      Ngay cả Bùi Minh Quốc thời còn theo Đảng chưa cất bước lên đường làm đối thủ đảng (dissident) như hiện nay, cũng sống trong hiện thực giả tạo (nói theo kiểu nhà văn nữ Phạm thị Hoài, hiện thực giả song hành với hư cấu thật) đã sáng tác một bài thơ ca tụng tình yêu và được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc thành tình ca tựa đề CUỘC ĐỜI VẪN ĐẸP SAO

      http://www.youtube.com/watch?v=_1aKoyAo9t0&feature=related

      Cuộc đời vẫn đẹp sao
      Tình yêu vẫn đẹp sao
      Dù đạn bom man rợ thét gào
      Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích
      Dù xa cách hai ngả đường chiến dịch
      Ta vẫn còn chung nhau một ánh trăng ngần

      Một tiếng chim ngân
      Một làn gió thổi
      Một sớm mai xuân trước cửa hầm dã chiến
      Thấy trời xanh xao xuyến ở trên đầu ta vẫn thầm hái hoa tặng nhau

      Ôi ! Trái tim Việt Nam
      Như mặt trời trước ngực
      Giữa thế kỷ hai mươi cháy rực sáng ngàn năm …ngàn năm …

      Để kết thúc, tôi xin ghi lại đại cương nhận xét của Phạm Thị Hoài cực kỳ chuẩn xác về cái gọi là “VN là lương tâm nhân loại, trái tim loài người” như ri:

      SÔNG TRƯỚC NHÀ CHẢY VỀ ĐÂU KHÔNG BIẾT !
      RĂNG TRONG MIỆNG CÁI CÒN CÁI MÂT CHẲNG HAY
      NHƯNG MỞ MIỆNG RA LÀ NÓI BA DÒNG THÁC CÁCH MẠNG …
      TRĂNG Ở TRUNG QUỐC TRÒN HƠN TRĂNG Ở ĐẾ QUỐC MỸ …

      Lại Mạnh Cường

  6. Thaophuong says:

    Đất nước nghèo tinh yêu cũng đói .. meo
    Mùa đông đầu yêu nhau .. chẳng có tiền mua áo ấm
    Nhìn em cười .. Anh lại thấy rưng rưng

  7. nguyen ha says:

    Trong 3 bài thơ” khóc vợ chết”của Hửu-Loan-Bùi minh Quốc-Vũ Cao,đúng là 3 bài thơ hay!!.Nhưng chỉ có bài thơ “Màu tím hoa sim”của Hửu Loan là “da-diết”hơn hết,Vì sao?? HL khóc vợ bằng con tim” lãng mạn”,khóc vợ như khóc “tình nhân”.Cho dù HL là người lính,nhưng ông vẩn trọn vẹn với “tình thơ”.Ông nhớ
    về người yêu với đầy ắp kỷ niệm nên thơ và bình dị: “Em ơi giây phút cuối,không được nghe Em nói,không được nhìn nhau”hoặc”ngày hợp hôn,em không đòi may áo cưới’”,”tôi người chiến chinh,xa gia đình.Yêu nàng như tình yêu em gái”v..v….đến như ngày trở về thì”chiếc bình hoa ngày cưới,thành bình hương tàn lạnh”!!
    Còn như 2 bài thơ kia,khóc vợ nhưng cũng khóc cho “người-đồng-chí” của mình vừa “hy-sinh”.Do đó, trong
    tình yêu vợ chỉ còn lại 50%,còn 50% là dành cho Đảng!!Những kỷ niệm đối với người vợ trong 2 bài thơ
    của BMQ và VCao là nhữ kỷ niệm “trên đường chiến đấu’”,kỷ niệm với người Đồng-chí mà mình yêu thương.
    Vì thế những gì mà 2 Ông BMQ và VC đưa vào trong thơ “khóc vợ”,bao gồm một nửa “Xương” và một nửa “Thịt”.Vì thế người thưởng ngoạn phải cẩn-thận,không khéo bị “mắc xương’!!

Phản hồi