WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nguyên nhân thất thủ Điện Biên Phủ [2]

Tiếp theo phần I

 

Tướng Croix de Castries

Tướng Croix de Castries

Ý kiến các nhà nghiên cứu

Bernard Fall. Ông là nhà nghiên cứu sâu sắc về chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Trong phần kết luận cuốn Hell in a Very Small Place (12) Bernard Fall nói Việt Minh hơn Pháp về tình báo, khi ước tính pháo binh đối phương được đưa tới ĐBP họ tính đúng hơn Pháp. Một trung đoàn bộ binh VM có môt pháo đội 4 khẩu sơn pháo 75 ly, một pháo đội 4 khẩu súng cối 120 ly hạng nặng. Sư đoàn pháo binh 351 có thể cung cấp 3 tiểu đoàn pháo 105 ly, một tiểu đoàn pháo có 3 pháo đội, mỗi pháo đội có 4 khẩu (tổng cộng 36 khẩu). Trên thực tế VM có tất cả là 144 khẩu pháo chưa kể ít nhất 30 khẩu 75 ly không giật, 36 cao xạ hạng nặng và trong những ngày cuối khoảng từ 12-16 dàn hỏa tiễn Katyusha 6 nòng.

Pháo binh Pháp ước lượng địch bắn 103,000 quả 75 ly hay lớn hơn, tổng cộng Pháp bắn 93,000 quả (13). Việt Minh có hỏa lực gấp ba lần Pháp, nhưng Pháp có không quân và 10 xe tăng như vậy theo Bernard Fall nếu nói Pháp thua ĐBP vì hỏa lực địch quá mạnh hơn thì không chính xác lắm, sự không cân bằng hỏa lực của hai phía không phải là quá đáng (tác giả muốn nói VM không quá mạnh hơn Pháp về hỏa lực)

Ngoài ra Pháp thua về mặt trận tiếp tế, họ bất lực ngăn cản dòng thác vận chuyển, tiếp viện của VM tới thung lũng, VM có tổng cộng 600 xe Motolova 2 tấn rưỡi chỉ đi được trên đường khá tốt và qua phà, nhưng thật ra nhờ xe đạp thồ (200 ký). Pháp không đánh phá được công cuộc tiếp tế địch vì ít máy bay và bom đạn, năm trước không quân Viễn đông của Mỹ cũng thất bại trong ngăn chận tiếp liệu của Trung cộng, Bắc Hàn mặc dù dội bom cả năm trời.

Ngoài ra trong đồn lũy ĐBP có đã có mấy ngàn người bỏ trốn gồm lính Thái, VN, Bắc Phi. Người Pháp và Mỹ đánh giá thấp cao xạ phòng không địch, tại Triều tiên Mỹ mất 816 máy bay vì cao xạ, 147 cái khác vì không chiến. Tại ĐBP Pháp mất 48 máy bay, 14 bị hủy dưới đất, 167 hư hại vì cao xạ, so với lực lượng không quân chưa tới 100 máy bay vận tải, thám thính và 75 chiến đấu cơ như vậy là thiệt hại nặng.

Phòng không là một yếu tố quan trọng đã khiến VM thắng trận ĐBP, nếu nói về một binh chủng được coi là cần thiết cho chiến thắng phải nói là pháo thủ cao xạ và cố vấn Trung cộng.

Những yếu tố lớn nhỏ về sự thất thủ ĐBP như kế hoạch phản công yếu đuối, pháo đài thiếu kiên cố, khinh địch về phòng không, việc lựa chọn trận đánh thì một dữ kiện đứng trên tất cả là một trận không yểm, oanh tạc ồ ạt dù không cứu vãn được tình hình Đông dương nhưng cũng cứu được ĐBP.

Các nhà quan sát Pháp về ĐBP đồng ý như vậy. Tướng Ély thay Navarre, ông là Tướng Pháp thân Mỹ nhất cho biết hồi đó không quân Pháp quá yếu trong trong thời điểm nguy kịch đó.

Nếu hồi đó tôi đã là Tư lệnh, có thể tôi không quyết định như Tướng Navarre (đóng tại ĐBP) nhưng nay sẽ không biết những gì sẩy ra cho Lào, BắcViệt…ngoài ra nếu một cơ hội bất ngờ có thể đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến, ĐBP không sụp đổ – nếu Mỹ oanh tạc giải vây ĐBP – như thế có thể ngày nay người ta lại cho là Navarre thiên tài người đã lựa trận đánh này và những người hồi đó đã kết án ông nay sẽ lại cố khoe đã đóng góp với ông trong chiến dịch điều hành” (14)

Tác giả nói những quan điểm trên cho ta hai vấn đề:

1-Tại sao chính phủ Pháp không cung cấp cho Pháp tại Đông dương một lực lượng không quân đầy đủ.

2- Tại sao Mỹ đã biết rõ tình trạng nguy hiểm nhưng lại cung cấp cho Pháp một không lực thiếu thốn?

Pháp thiếu phi công và những oanh tạc cơ hạng nặng.

Frédéric Dupont, Bộ trưởng các nước Liên Kết Đông Dương (Việt, Mên, Lào) năm 1954 nói thiếu oanh tạc cơ hạng nặng đưa tới thất thủ ĐBP, Pháp thiếu những phi trường lớn để huấn luyện và thiếu bảo trì. Charles Lauzin Tướng tư lệnh không quân Pháp tại Viễn đông trong thời gian trận ĐBP nói: ông đã báo cáo Chính phủ về việc thiếu thốn máy bay tại Đông dương khi ông nhậm chức ngày 30-6-1953 và quốc hội chi một ngân khoản khiêm tốn 18.4 triệu để đóng máy bay trong tài khóa 1953-1954. Thê chiến thứ hai Pháp bại trận vì không quân yếu.

Chassin, Tướng tiền nhiệm của Lauzin báo cáo ngày 14-6-1953 nói về khuyết điểm các Tướng Tư lệnh Đông dương không biết sử dụng không quân. Cũng như năm 1940 Pháp không biết sử dụng xe tăng và năm 1954 không biết sử dụng không quân. Đó là một phần đáng kể lý do khiến ĐBP thất thủ.

Nhưng số phi cơ chưa tới 100 cái thì dù sử dụng hoặc dàn trận ra sao cũng không thay đổi tình hình Đông dương hay cứu vãn tình thề ĐBP. Nếu so với cuộc chiến Triều tiên 1950-1953, Không quân Viễn đông Mỹ có 1,536 máy bay của Mỹ và đồng minh (đa số của Mỹ). So với giữa 1966 tại VNCH, Mỹ có 1,700 trực thăng Mỹ phần nhiều có võ trang, 700 vận tải thám thính, 1,400 máy bay chiến đấu của Không quân và Hải quân và 400 máy bay VNCH, thêm vào đó khỏang 90 B-52 yểm trợ miền nam VN.

Sau khi Trung hoa mất, Mỹ vội tìm đồng minh kể cả thực dân Pháp ở Đông dương và thực dân Anh ở Mã lai để lập phòng tuyến ngăn CS. Người Mỹ giúp Pháp trong cuộc chiến chống CS bằng tiền, vũ khí, tiếp liệu, cố vấn nhưng chỉ giúp một ít máy bay chiến đấu. Năm 1954 một trăm cái máy bay không thể cứu quân Pháp tại ĐBP.

Ngoài ra trong phần Lời nói đầu (15) tác giả nói trái với Hành pháp Mỹ có thể đưa quân vô giới hạn ra ngoại quốc trong một cuộc chiến không tuyên chiến tại hải ngoại nhưng Pháp lại bị giới hạn. Năm 1950 Quốc hội Pháp ra tu chính án Luật Ngân sách hạn chế nhập ngũ trong nước nên, sự việc này đã giới hạn rất nhiều việc đưa quân sang Đông dương. Khi Navarre giữ chức Tư lệnh giữa năm 1953, ông yêu cầu gửi thêm 12 tiểu đoàn và nhiều đơn vị yểm trợ cùng với 750 sĩ quan và 2,550 hạ sĩ quan cho các đơn vị thiếu thốn, ông chỉ nhận được 8 tiểu đoàn, 320 sĩ quan và 200 hạ sĩ quan. Thực ra tăng cường chỉ là gửi trước để thay thế sự thiệt hại trong năm 1953. Trong khi VM đã lập được nhiều đơn vị chính qui, Pháp gập khó khăn về thiếu thốn quân số và đó là một trong những nguyên nhân chính đưa tới sụp đổ ĐBP cũng như Đông dương.

Ngoài ra trong cuốn sách nổi tiếng của Bernard Fall Đường Phố Buồn Thiu ông cũng nói về nguyên do ĐBP thất thủ tại chương 12, Why Dien Bien Phu? (16). Tác giả trích dẫn nhận xét của Tướng Castroux, Chủ tịch Ủy ban điều tra ĐBP thất thủ, ông này chỉ trích Navarre sai lầm như sau:

“Không có vị trí nào có thể đóng đồn ngăn cản (VM tiến về Thượng Lào) tại một xứ không có đường giao thông như Âu châu mà chỉ là những đường mòn và đưởng sông ngòi (ý nói địch có nhiều đường để đi).

Khi ĐBP bị một lực lượng lớn tấn công, nó không bảo vệ được Lào, cũng không thể từ đó đánh ra ngoài mà nó chỉ lo chống lại lực lượng đông đảo của địch”

Theo tác giả các nhà chính trị ở Pháp không có lỗi lầm mà trách nhiệm thuộc về Navarre, Cogny, de Castries trong đó de Castries ít lỗi lầm nhất.

Các công sự phòng thủ không được đúc bê tông mà chỉ làm bằng gỗ, bao cát không chịu nổi đạn pháo. Tác giả nói khi Võ Nguyên Giáp chiếm được hai tiền đồn phía bắc Beatrice và Gabrielle là đã kiểm soát được hai cao điểm (cao nhất lòng chảo) ĐBP coi như mất.

Bernard Fall tóm lược những sai lầm của ĐBP:

1- Trận địa quá xa các trung tâm hậu cần Pháp (như Hà nội)
2- Khinh địch, đánh giá thấp VM mọi phương diện
3- Bố trí sai, pháo binh tại cứ điểm phía nam Isabelle cách cứ điển trung ương 7 km không yểm trợ được hai tiền đồn Béatrice và Gabrielle (phía bắc) vì quá xa

Fredrik Logevall . Ông là giáo sư lịch sử. Về nguyên nhân sụp đổ ĐBP, tác giả này nói (17) nếu cấp chỉ huy Pháp hoạch định khác có thể khiến ĐBP không sụp đổ chăng? Có thể đưa tới chiến thắng thay đổi cuộc chiến?

Navarre sai lầm cho đóng quân bên ngoài Châu thổ (sông Hồng)? coi ĐBP là địa điểm tốt nhất để ngăn VM tới Luang Prabang , Kinh đô Lào mà Pháp phải bảo vệ: Ông muốn lập lại chiến thắng ở Na San năm trước với một cuộc chiến có tầm vóc lớn hơn, ông nghĩ rằng có thể dụ cho địch kéo đến thật đông.

Ông nói đúng ra Navarre phải bỏ Thượng Lào để giành lực lượng cho châu thổ sông Hồng quan trọng hơn và buộc Tướng Giáp tấn công tại đó, ở đây Navarre dễ tiếp tế hơn tại ĐBP và nếu Giáp theo kế hoạch đầu tiên tấn công ngày 25-1 có thể lắm, VM sẽ thua lớn. Nhiều nhà quân sự, cả người Mỹ sau ngày ĐBP thất thủ 7-5 chỉ trích nặng nề quyết định của Navarre cho đóng quân tại môt nơi chỉ tiếp tế tăng viện bằng cầu không vận mà tưởng là sẽ thắng lớn.

Rồi Pháp mới thấy địch mạnh hơn, đông hơn, hỏa lực mạnh hơn, Pháp có thể thay đổi chiến thuật nhất là Pháp thiếu máy bay, phi hành đoàn. Pháp sai lầm đánh giá cao khả năng của không quân có thể oanh tạc đường tiếp tế VM nhưng họ vẫn mang được tiếp liệu vào, đúng ra phải tập trung oanh tạc lòng chảo ĐBP.

Logevall nói việc bố trí (layout) tại lòng chảo không hoàn hảo lắm, các căn cứ kháng cự được bố trí không hữu hiệu. Isabelle (phía nam) quá xa không thể pháo yểm trợ khu Trung tâm hữu hiệu. Gabrielle và Béatrice (phía bắc) yếu không đủ bảo vệ phi trường. Các công sự yếu không chịu đựng nổi pháo kích của địch hoặc khi mưa bị ngập nước, pháo đài công sự mỏng manh nên dễ bị phá hủy.

Ngoài ra Tư lệnh và phó Tư lệnh (Cogny) chia rẽ nhau ảnh hưởng trận đánh. Tướng Giáp đạt thắng lợi cho thấy chiến thuật xuất sắc trong sử dụng phòng không và pháo binh cũng như xử dụng chiến thuật, kỹ thuật bao vây thời Thế chiến thứ nhất.

Hậu quả cuộc tấn công ba ngọn đồi phía bắc (Bèatrice, Gabrielle và Anne Marie) đã làm lính Thái tinh mất thần bỏ trốn, sự kiện đã được các nhà quân sử khen ngợi Tướng Giáp và đã cho thấy chung cuộc ra sao. Dù sao người Pháp đúng lý phải giữ được ĐBP nếu không giữ được mãi thì cũng tới mùa mưa và mùa thu.

Cho dù Liên hiệp Pháp giữ được ĐBP, gây thiệt hại nặng cho các sư đoàn chủ lực VM, cho dù làm mất trinh thần VM khắp Đông dương nhưng cán cân sức mạnh vẫn không thuận lợi cho Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam còn yếu, tại nước Pháp người dân cho rằng cuộc chiến không còn giá trị khi hằng năm 600 sĩ quan bị giết trong một năm tương đương với số tốt nghiệp tại trường võ bị Saint-Cyr

Ted Morgan

Ông là ký giả đã được giải Pulitzer, trong cuốn sách dầy 722 trang viết về ĐBP mới xuất bản gần đây (18) tác giả nói
Tại Bắc kinh, Mao theo dõi trận Năm ngọn đồi (khu Trung ương ĐBP) cũng như Eisenhower theo dõi tại Washington, Mao tin rằng thắng ĐBP sẽ củng cố địa vị của Trung cộng tại Genève. Mao can thiệptừ tháng 9-1953 khi Hồ Chí Minh bác bỏ kế hoạch của Giáp tập trung quân tại châu thổ sông Hồng. Tướng Vi Quốc Thanh được cử sang Đông dương trong chức vụ trưởng đoàn cố vấn Trung cộng làm việc với Tướng Giáp.

Ông Tướng Tầu này đưa cho Hồ chí Minh một bản sao kế hoạch Navarre mà tình báo Trung Cộng lấy được, họ có kế hoạch chia cắt, bao vây, tiêu diệt từng tiểu đoàn. Tháng 3-1954 Chu Ân Lai điện cho Tướng Vi nói cố đánh thắng vài trận. Tháng 3 và 4 năm 1954 Mao tăng viện trợ cho VM 4 tiểu đoàn phòng không, VM được huấn luyện tại Trung cộng với súng cao xạ 37 ly và đã được đưa tới ĐBP. Những đơn vị VM cũng được huấn luyện bắn xẻ. Ngày 3-4 khi trận Năm ngọn đồi chưa ngả ngũ, Mao cho huấn luyện thêm hai sư đoàn pháo và hai tiểu đoàn công binh cho VM, Mao khuyên Hà nội có thể tấn công mùa đông 1954 hay mùa xuân 1955.

Về việc cố vấn và viện trợ Mao có ưu thế hơn Mỹ nhiều, ông ta không phải vận động quốc hội như Mỹ, Mao thảo lệnh và được thi hành ngay, Việt minh không cãi lại ý kiến của Trung cộng trong khi Pháp luôn than phiền Mỹ can dự vào.
Trong phần Kết luận cuốn sách, Ted Morgan đề cập nhiều tới Ủy ban điều tra của Chính phủ Pháp về ĐBP thất thủ (19)

Nguyên do tại sao? đó là câu hỏi mà Ủy ban điều tra năm 1955 qua 22 phiên họp, nghe nhiều nhân chứng. Tướng Castroux và hai Tướng khác chủ tọa, một Đô đốc, một Viên chức dân sự đã chuyển bản tường trình lên Tướng Koenig, Bộ trưởng quốc phòng vào ngày 3-12-1955. Bản báo cáo này đã được giữ bi mật cho tới năm 1969.

Nói gọn lại không phải là một sai lầm mà cả một lô sai lầm. Bộ Tổng tham mưu Pháp chấp thuận kế hoạch của Navarre. Nhưng ông ta không nắm được một yếu tố quan trọng về viện trợ ồ ạt của Trung Cộng cho Việt Minh. Ông chỉ tưởng họ chỉ là đám du kích rách rưới. Khi không nhận được tăng viện mà ông đòi đúng ra ông phải thay đổi kế hoạch.

Thiếu chỉ thị của chính phủ liên quan đến việc bảo vệ Lào, ông nghe lời Tổng Cao ủy Dejean nói cần phải bảo vệ Lào. Bản tường trình của Castroux chỉ trích Navarre sai lầm không biết rằng chiến thuật của căn cứ ĐBP đã bị thất thủ trước đại quân VM. Navarre sai lầm khi cho là căn cứ có thể kháng cự được khi chỉ liên lạc, tiếp tế được bằng không quân. Trong mọi trường hợp, căn cứ không thể ngăn chận VM vào Lào được, rừng núi bao quanh thuận tiện cho địch nhiều.
Căn cứ nằm cách xa phi trường (BV) 185 dặm bất lợi, đúng ra ông ta phải bỏ căn cứ này trễ nhất là ngày 10 tháng 12-1953, ông bỏ lỡ cơ hội khi còn thì giờ vì không đánh giá đúng khả năng tiếp vận của VM và sự thuận lợi mà địa hình đã cho họ. Tướng Giáp nói cuối tháng 12 chúng tôi đã bao vây khu lòng chảo, nếu di tản sẽ bị thiệt hại nặng.

Tướng Cogny, Tư lệnh phó cũng chia xẻ trách nhiệm về sự thất bại. Bản tường trình cho biết Navarre không có kinh nghiệm cá nhân về chiến tranh trong rừng rậm, không biết rằng Cogny ngưởi hiểu biết nhiều có thể báo cho ông biết sự nguy hiểm. Chính phủ Pháp sai lầm khi chọn một ông Tư lệnh không có kinh nghiệm tại một chiến trường xa lạ.

Navarre được coi như đã đi qua ba giai đoạn:

-Tư tin, tìm một trận đánh
-Lo sợ kết cục nhưng không chịu thay đổi tình thế bằng di tản hay thay đổi chiến thuật.
-Ông lại mở chiến dịch lớn Atlante tại Trung Việt phân tán lực lượng.

Ngoài ra nếu can thiệp bằng không lực, oanh kích ngày này sang ngày khác có thể cứu ĐBP nhưng Tư lệnh không có lực lượng không quân mạnh.

Tướng Cogny tiết lộ tin tức cho giới chức điều tra để nói ý riêng của mình. Cogny tiếp xúc hằng ngày với Castries nhưng không cho thay đổi chiến thuật phòng thủ thụ động của Castries, cũng không cảnh báo Castries về cách mà VM dấu đại bác trong hang núi. Castries không thay đổi phòng thủ căn cứ, ông thụ động giao cho Đại tá Langlais quyết định mọi việc chiến đấu mà đúng ra ông phải giữ quyền chỉ huy.

Howard R. Simpson- tác giả cuốn Điện Biên Phủ, Trận Đánh Oai Hùng Người Mỹ Đã Quên, trong phần dẫn nhập (20) ông trình bầy những nguyên do thất bại ĐBP và cũng nói tới sai lầm của Mỹ sau này.

Simpson nói ĐBP không phải là trận chiến lớn theo qui ước nhưng là trận chiến quyết định trong thế giới nhỏ của sự đụng độ chính trị quân sự quốc tế theo sau Thế chiến thứ hai. Nó là một thế trận của sự can đảm, nhầm lẫn, gan dạ, thất bại. Những sai lầm lớn lao của thượng cấp đã quyết định vận mạng của căn cứ từ lâu trước trận tấn công cuối cùng. Không nhìn thấy sai lầm chiến thuật bị sương mù của trận đánh che phủ đưa tới thất bại sau cùng. Trận chiến duy nhất này thay đổi bộ mặt châu Á và thể hiện một sự ngừng nghỉ trước trận chiến đắt giá mà quân đội Mỹ phải chiến đấu trong rừng ruộng ở miền nam VN. Năm 1992 Simpson nói chuyện với Bùi tín trong một quán cà phê ở Paris, người Mỹ can thiệp vào VN (1965) nhưng các nhà kế hoạch, chiến lược gia không biết tới kinh nghiệm của Pháp. Tinh thần team work và triết lý can-do tự tin làm mờ nhạt bài học lịch sử. Khê sanh tháng giêng 1968, 40,000 quân BV bao vây 6,000 lính TQLC Mỹ hai tháng rưỡi, gần giống ĐBP, Mỹ cho B-52, pháo binh oanh kích, TQLC phá vòng vây, BV chết 10,000 người, Mỹ 500 người.

Theo tác giả những khuyết điểm của Pháp và sau này của Mỹ nhân bàn về trận ĐBP.

1-Đánh giá thấp những đơn vị du kích chiến của địch là lỗi lầm lớn. Người Pháp tưởng phản pháo và không quân sẽ làm câm họng pháo binh địch nhưng thảm bại. Ngoài ra đánh giá thấp khả năng tiếp liệu tinh thần kiên cường của địch và chiến thuật chiến lược các tướng lãnh địch. Thập niên 60, 70 người Mỹ cũng khinh địch như Pháp trước đây.

2- Một mặt trận phụ thuộc vào tiếp liệu, tiếp viện hàng không sẽ thất bại trong cuộc chiến tranh du kích. Bộ chỉ huy Pháp đã xây pháo đài tại khu rừng núi chỉ tiếp tế được bằng hàng không, mọi tiếp tế chỉ bằng thả dù. Pháo binh và cao xạ VM sẽ chặn đứng cuộc tiếp tế, tại rừng núi ĐBP phi công khó quan sát nên oanh kích khó chính xác…

Sự thật Không quân Pháp tại Đông dương rất giới hạn so với Không quân Mỹ sau này thập niên 1960.

Trong cuộc chiến thắng thua tại làng xã miền nam VN mà sự hợp tác, trung thành là cơ bản của chiến thắng. Bom đạn, oanh kích tự do giết hại thường dân khiến có lợi cho VC, mặc dù Mỹ có ưu thế không quân nhưng đường mòn Hồ chí Minh vẫn đưa được vũ khí, chiến xa vào miền nam.

3-Trận đánh ĐBP là sự chứng tỏ du kích chiến uyển chuyển của địch và khả năng thay đổi diễn trình cho thích hợp với một tình trạng chiến thuật đặc biệt. Đa số các sĩ quan Bộ tham mưu hoạch định kế hoạch ĐBP vẫn cho VM cơ bản là du kích, đạo quân nhà quê. Họ không biết rằng địch đã tổ chức thành những sư đoàn, được trang bị đầy đủ có thể chiến đấu trong trận đánh đã được hoạch định rõ. Những sư đoàn của Tướng Giáp được coi như chính qui nhưng ông coi cuộc chiến tranh nhân dân là sự kết hợp của chính qui, địa phương quân, du kích để hoàn thành mục tiêu chung.

Tác giả gặp Tướng Giáp năm 1991 tại Sài Gòn, ông ta nói chiến tranh nhân dân gồm cả những đơn vị nhỏ cho tới toàn thể quân đội: “chiến sĩ du kích giỏi có thể biến thành quân đội chính qui”

Tướng Giáp cho quân lính xử dụng hàng ngàn cuốc xẻng đào hào tới gần căn cứ địch .

4-Ảnh hưởng tệ hại của thời tiết, của môi trường xung quanh như sốt rét, ngã nước, nóng bức… của rừng nhiệt đới khiến nhiều binh lính Pháp bị suy yếu mất tinh thần.

5- Tại thế giới thứ ba, nếu một nước bị nhiều ảnh hưởng Tây phương có thể gây tai hại quân đội quốc gia (bản xứ). Quân đôi viễn chinh năm 1950 chiến đấu rất hiệu nghiệm nhưng từ 1953 đã lỗi thời, đã bị mệt mỏi rạn nứt do những đường hướng mới của cuộc chiến. Luồng gió chính trị đổi thay gây trở ngại tuyển quân. VM tuyên truyền quân Liên hiệp Pháp, họ được biết tại đất nước (Pháp) có chống đối chính sách quân sự.

Mặc dù đạo quân thực dân là quá khứ nhưng di sản của nó vẫn còn, quân đội VNCH không bao giờ phủ nhận được cái gốc của nó là quân đội thuộc địa do người Âu huấn luyện. Nay Mỹ thay Pháp (1965) cái mầu thực dân vẫn còn đã cho Việt cộng đề tài tuyên truyền Quân đội miền nam VN chỉ là quân đội tay sai. Đối với chúng ta “thực dân” vẫn là nhãn hiệu lịch sử, đối với nhiều nước trong thế giới thứ ba nó vẫn là một biểu tượng xấu.

6- Hiệu quả và tinh thần của quân đội có liên hệ trực tiếp với sự yểm trợ của chính phủ và sự ủng hộ của người dân của đất nước đang tham gia cuộc chiến.

Sự cầm cự kéo dài chống cự trước một đạo quân đông và hỏa lực mạnh hơn tại ĐBP là một hiện tượng, họ biết là chiến đấu một cuộc chiến mà trong nước chống đối.

Nước Pháp đang tìm giải pháp chính trị cho cuộc chiến và sự ủng hộ của chính phủ cho cuộc chiến đã tụt giảm. Ngoài ra quân đội VM xung kích biết rằng cả nước động viên tinh thần phía sau họ trong cuộc chiến nhân dân giành độc lập. Họ tiến công ĐBP và sẵn sàng chết cho lý tưởng, những khẩu hiệu tuyên truyền xác định mục đích họ chiến đấu.

Giữa thập niên 60, lính Mỹ không biết mục đích chiến đấu, bị chống đối tại trong nước. Quân đội mà không biết mục đích chiến đấu là điều rất bất lợi, kẻ địch tin vào mục đích nên họ chịu gian khổ, hy sinh nhiều nhân mạng cho mục tiêu.

Trong phần kết luận (21) tác giả nói năm 1991 ông gặp và phỏng vấn Tướng Giáp ở Sài gòn: những người tham dự trận đều cho rằng đây là bài học ĐBP, đừng coi thường kẻ địch du kích chiến, nên cẩn thận khi chỉ phụ thuộc vào không lực, nên để ý môi trường độc hại xung quanh, tránh thái độ thực dân và biết rằng mọi cuộc viễn chinh phải có chính phủ và người dân ủng hộ, nay cũng quan trọng như xưa

Stanley Karnow. Ký giả, sử gia Mỹ tác giả cuốn sách best seller Vietnam A History. Trong phần đề tựa cho cuốn Điện Biên Phủ, Trận Đánh Oai Hùng Người Mỹ Đã Quên nêu trên của Howard Simpson, Karnow nói.

ĐBP mà Việt minh Cộng sản đè bẹp quân Pháp tại Đông dương xếp trong những trận Agincourt, Waterloo và Gettyburg như một trong những trận đánh lớn nhất trong lịch sử. Nó đánh dấu sự sụp đổ của đế quốc Pháp tại Á châu và trong khi chưa có ai thấy trước nó mở đường cho Mỹ vào Đông dương.

Tác giả nói: Simpson cho thấy Pháp không thua tại ĐBP, cuộc chiến với VM kéo dài 8 năm và người dân quá mệt mỏi với cuộc chiến không kết thúc, nó đã đầu độc xã hội và chia rẽ chính phủ.

Tướng Navarre không thích hợp với vai trò, không chú trọng tình báo vì nó không giống những kiến thức mà ông đã học ở võ bị Pháp, hành động theo thành kiến, không chịu nhìn nhận khả năng địch. Tướng Giáp có khả năng tập trung hỏa lực cần thiết nện, giáng xuống doanh trại ĐBP, đúng đó là Giáp đã làm.

Giáp đã chuẩn bị nhiều tháng, như những đàn kiến, VM thồ bằng xe đạp qua những khu rừng rậm để chở vũ khí đạn dược lương thực tới địa bàn. Với lòng nhiệt tâm vô bờ họ đã kéo đại bác lên triền núi nhắm xuống người Pháp, những kẻ điên rồ đóng trong khu thung lũng theo chủ trương trên đường bảo vệ Lào.

Hai phía nỗ lực trước Hội nghị Genève và hậu quả của ngày 7-5 (ĐBP thất thủ), Smith, thứ trưởng ngoại giao Mỹ nói nói “Người ta không thể thắng trên bàn Hội nghị nếu thua trận”

Pháp có thể vẫn tiếp tục chiến tranh nếu người dân không phản đối và đòi hòa bình, CSVN chịu chia đôi đất nước vì Nga và Trung cộng muốn vậy. Trong cuộc chiếm Đông dương lần thứ hai Johnson, Westmoreland tưởng lầm Khe sanh đầu năm1968, thực ra CS dụ cho Mỹ tới đó để đánh Tết Mậu thân, họ biết không thể trực diện đọ sức với Mỹ.

Tướng Giáp theo đuổi cuộc chiến tranh làm hao mòn ý chí chiến đấu của người Mỹ. Điều quan tâm chính của ông ta là chiến thắng chứ không phải tổn thất. Trong cuộc nói chuyện tại Hà Nội, Karnow hỏi tướng Giáp “Các ông chiến đấu chống Mỹ được bao lâu?” thì Giáp trả lời không do dự “Hai mươi năm nữa, có thể một trăm năm, cho tới khi nào chiến thắng bất kể tổn thất là bao nhiêu”.

Bởi thế Mỹ cũng như Pháp đương đầu với một kẻ thù mà cứu cánh của họ là thiêng liêng, sẵn sàng chấp nhận hy sinh ghê rợn để đạt mục đích và Mỹ cần học bài này kẻo quá trễ.

Neil Sheehan- Đặc phái viên của United Press International (UPI) tại Việt Nam từ tháng 4-1962 tới tháng 4-1964và New York Times, là tác giả cuốn A Bright Shining Lie.

Trong phần đề tựa cuốn Trận Điện Biên Phủ của Jules Roy (22) Sheehan dẫn lời một ký giả Úc nói (7/1963) Tướng lãnh Mỹ tại miền nam VN cũng lạc quan như Pháp trước đây.

Châu thổ Cửu long quan trọng nhất về kinh tế miền nam và là nơi dân cư đông đúc, chính phủ Sài gòn cũng đang sụp đổ dưới cuộc tấn công của du kích Việt Cộng như Việt Minh tấn công Châu thổ BV năm 1952.

Năm 1963, chín năm sau ĐBP, các Tướng lãnh, các nhà ngoại giao Mỹ cũng sẽ chịu chung số phận người Pháp trước đây. Tại Mỹ cũng như tại Pháp trước đây, người dân không tha thiết với cuộc chiến tại một nước xa xối Á châu không liên quan trực tiếp tới họ.

Sheehan nói theo quan điểm Jules Roy thất bại không phải vì thiếu người, súng đạn nhưng là những lý do vô hình như sự kiêu căng của các nhà lãnh đạo quân sự, chính trị Pháp, họ tự lừa dối và tinh thần yếu đuối lại khinh địch. Roy viết Navarre tin tưởng theo lý thuyết quân sự Tây phương cho rằng Việt Minh thiếu phương tiện tiếp vận, chuyên chở để đưa quân tới, đại bác và không quân Pháp sẽ trấn áp pháo binh VM . Ông ta tin khả năng vũ khí của mình sẽ giết hại VM từ trên đồi xuống và có thể giữ hai phi trường. ĐBP chấm dứt sự tìm kiếm một trận theo lối cổ điển đã sắp đặt mà Pháp dùng hỏa lực và kỹ thuật mới để nghiền nát đối phương CS.

Navarre và Bộ tham mưu đã đánh giá thấp mưu trí và phương tiện của địch. Họ không nhận thức được là các lý thuyết quân sự Tây phương không những thất bại không thắng được chiến lược chính trị quân sự của địch nhưng còn đưa tới thất bại mà thực ra là thảm bại. Sheehan nói thời gian tôi ở VN (1962-1964) các nhà ngoại giao và quân sự Mỹ biết rất ít về kinh nghiệm của người Pháp, nếu chịu khó học hỏi có thể thấy những yếu điểm của Pháp để rút lui trước khi quá trễ.
Theo người Mỹ thì Pháp chiến đấu dở, thua là đúng. Họ chỉ nói Pháp giữ chế độ thuộc địa lỗi thời nên đã thua. Người Mỹ biết chiến đấu vì đã đánh bại Đức, Nhật và Trung cộng tại Triều tiên, họ chiến đấu cho dân chủ sẽ thắng, CS sẽ thua. Mỹ không biết rằng người Pháp chiến đấu gan dạ hơn quân đội QGVN mà họ huấn luyện, người Mỹ không biết là can đảm không đủ thắng VM gian giảo, có phương sách, sau này là VC. Giống như Pháp, Mỹ tin tưởng vào lý thuyết quân sự Tây phương, chiến tranh qui ước, tin tưởng vào tiền bạc, súng đạn, cố vấn, máy bay, xe tăng, đại bác…Jules Roy kể lại Navarre không tin vào báo cáo của tình báo ở Hà Nội, Tướng Cogny đã cho biết VM tập trung bốn, năm sư đoàn quanh ĐBP, một lực lượng dữ tợn đe dọa căn cứ, toán làm việc của Cogny bị kết án là bi quan sai lầm để phóng đại sự quan trọng. Người Pháp cho việc VM tập trung bốn sư đoàn tại ĐBP là một dự án không tưởng, họ tính toán theo lý thuyết quân sự Tây phương cho là địch không có phương tiện chuyên chở cung cấp cho một đạo quân như vậy. Jules Roy cho rằng Tướng Navarre tin chỉ phải đối đầu với một sư đoàn địch, không đáng sợ. Đáng tiếc thay, họ tập trung bốn sư đoàn tại ĐBP, đã dùng những phương tiện không theo qui ước để tiếp tế và họ đã tràn ngập doanh trại Pháp.

Tướng Paul Harkins, Tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ đầu tiên tại VN cũng như Navarre không tin báo cáo đã cho biết VC lập những tiểu đoàn lưu động với súng Mỹ mà họ lấy được, ông tin tưởng sẽ thắng CS.

Jules Roy nói không ai tin vào sự chuyển vận, tiếp tế của VM, không ai tin được sự khôn ngoan của họ, theo ông đúng ra Navarre phải đánh giá đúng tướng Giáp mà thực ra ông ta coi Giáp chỉ là người chẳng học trường quân sự nào cả. Các tướng Mỹ khinh địch, coi VC chỉ là bọn nhà quê dốt nát, Sheehan cho biết một tướng Mỹ nói người VN không khôn ngoan, họ không có truyền thống võ bị như Mỹ.

Nhiều người Mỹ tin vào sự di động và sự kiểm soát, ảnh hưởng của họ đối với dân quê, có nhiều phương tiện hơn VC.
Cuối cùng chính phủ Pháp quyết định bỏ Đông dương, 9 năm sau khi can thiệp (1973), người Mỹ không còn muốn nghe nói tới chiến tranh VN.

Kết luận

Xin điểm qua các nhận định trên của giới chức quân sự cũng như các nhà nghiên cứu. Trước hết là giới quân sự.
Navarre người chịu trách nhiệm trận ĐBP mặc dù có đưa ra nhiều lý lẽ chính đáng để biện minh cho trận đánh nhưng không hề thấy ông tự nhận sai lầm của mình dù lớn nhỏ. Ông ta đổ lỗi cho chính phủ đã không cung cấp đủ lực lượng, phương tiện khiến cho quân Pháp tại Đông dương yếu kém nhiều so với VM. Navarre nói Không quân Pháp thiếu thốn, không được tăng viện hoặc gửi tới quá trễ, Trung cộng gia tăng viện trợ ồ ạt khi trận đánh tiếp diễn là một nguyên nhân lớn đưa tới thất thủ.

Vị Tư lệnh đã biết là không quân Pháp yếu quá, thiếu máy bay, phi công nhưng lại cho đóng quân tại một vùng rừng núi hiểm trở, xa xăm chỉ tiếp tế được bằng hàng không thì đó là một lỗi lầm tai hại. Navarre thiếu tin tức tình báo, khinh địch nên đã đem quân vào miệng cọp.

Jules Roy, sĩ quan cao cấp Không quân Pháp đã trích dẫn nhiều danh ngôn cho thấy nhiều khuyết điểm của kế hoạch Navarre trong trận đánh lịch sử này. Tuy nhiên, tư tưởng phản chiến, khuynh tả của Roy đã khiến cho quan điểm của ông ta không còn vô tư khách quan khi ngày càng kết án gay gắt vị Tư lệnh này. Không những kết án Navarre, Roy chê trách luôn cả Chính phủ, người dân Pháp khiến nhận định của ông ta đã trở thành cực đoan, tự cao, kiêu ngạo. Lại nữa, chín năm sau trận đánh, Jules Roy đi thăm ĐBP và hết lời ca ngợi đối phương khiến cho mọi ý kiến, nhận định của ông trở thành khuynh tả, một chiều.

Quân sử 4 của Bộ tổng tham mưu VNCH cung cấp thêm một số chi tiết về khuyết điểm của Pháp như việc khai quang lòng chảo, bố phòng các cứ điểm, khinh địch, không ước đoán đúng lực lượng, khả năng tác chiến, vận chuyển tiếp tế của VM. Ngoài ra Navarre lại mở chiến dịch phân tán chủ lực Pháp không cứu vãn ĐBP đắc lực.

Qua phần ý kiến các nhà nghiên cứu, Bernard Fall tác giả nổi tiếng về chiến tranh Đông dương nêu lên nhiều nhận định sâu sắc tuy nhiên ông cũng có vài điểm mâu thuẫn. Tác giả nói Pháp ước lượng VM pháo 103,000 quả nhưng theo Navarre họ đã bắn xuống lòng chảo trên 200,000 quả đạn pháo lớn (23). Bernard Fall nói hỏa lực địch không quá mạnh hơn Pháp, VM có hỏa lực mạnh gấp ba Pháp nhưng Pháp có không quân và 10 xe tăng và ông cũng nói không quân Pháp quá yếu, lực lượng cao xạ địch quá mạnh như thế là đã công nhận hỏa lực địch hơn xa Pháp.

Ngoài ra Bernard Fall cũng đề cập một điểm quan trọng thể hiện sự khó khăn vô cùng của quân đội viễn chinh Pháp: năm 1950 Quốc hội Pháp ra tu chính án Luật Ngân sách hạn chế nhập ngũ trong nước nên đã giới hạn rất nhiều việc đưa quân sang Đông dương, đó là lý do tại sao quân lưu động của VM gấp ba lần Pháp. Sau cùng Bernard Fall nhận định nguyên do trên hết, lớn hơn hết đưa tới thất thủ ĐBP vì Mỹ đã không thực hiện được kế hoạch oanh tạc ồ ạt cứu nguy mặt trận vào giờ chót.

Giáo sư Logevall bằng giọng ôn hòa chỉ trích sự sai lầm của Navarre khi cho đóng quân tại ĐBP để bảo vệ Lào, đáng lẽ ông phải giành lực lượng để bảo vệ châu thổ sông Hồng quan trọng hơn. Người Pháp sai lầm đánh giá cao khả năng không quân có thể oanh tạc đường tiếp tế của VM, thực ra họ đã bất lực ngăn chận đường tiếp liệu của địch. Ông cho rằng đúng ra phải tập trung oanh tạc tại khu lòng chảo, nói chung tác giả nhìn nhận cán quân quân sự vẫn nghiêng về VM trên toàn cõi Đông dương cho dù Pháp giữ được ĐBP.

Tác giả Ted Morgan nêu một ý kiến riêng hữu lý, ông cho rằng việc Mao tăng viện trợ về phòng không và pháo binh cho VM là yếu tố quyết định cho trận đánh. Theo ông, Mao có ưu thế chính trị vì không phải đưa ra Quốc hội, trong khi Mỹ phải bàn thảo, quyền quyết định của chính phủ bị giới hạn.

Ted Morgan cho biết một số chi tiết quan trọng về nội dung bản báo cáo của Ủy ban điều tra nguyên do thất thủ ĐBP: Navarre thiếu tin tức tình báo về viện trợ của Trung Cộng cho Việt Minh, về lực lượng, hỏa lực địch, khả năng tiếp vận của địch, khinh địch và chủ quan. Chọn lựa căn cứ sai lầm ở chỗ chỉ có phương tiện liên lạc duy nhât bằng không vận, căn cứ không thể ngăn chận VM qua Lào như chủ trương.

Navarre đã không thay đổi kế hoạch, rút quân trước ngày 10-12-1953 khi không nhận được tăng viện từ Pháp, vả lại đồng thời ông cho mở chiến dịch lớn Atlante tại Trung Việt đã phân tán lực lượng khiến quân tổng trừ bị không còn.
Chính phủ Pháp cũng chịu trách nhiệm vì đã chọn một ông Tướng Tư lệnh không có kinh nghiệm tại chiến trường Đông Dương.

Tư lệnh phó Cogny cũng phải chia xẻ trách nhiệm về sự thất bại, ông đã không cho thay đổi chiến thuật phòng thủ của Castries, không cảnh báo Castries về cách mà VM giấu đại bác trong hang núi. Castries giao Đại tá Langlais quyết định mọi việc mà đúng ra ông phải giữ quyền chỉ huy.

Howard R. Simpson, người Mỹ tác giả cuốn Điện Biên Phủ, Trận Đánh Oai Hùng Người Mỹ Đã Quên có nêu 6 điểm chính khuyết điểm của Pháp tại ĐBP và chiến trường Đông Dương, nó cũng là khuyết điểm của Mỹ sau này:

-Khinh địch, tưởng là không quân pháo binh sẽ trấn áp VM.
-Pháo đài tiếp tế bằng không quân sẽ thất bại vì pháo binh, cao xạ địch sẽ chận đứng mọi cuộc tiếp tế
-ĐBP là du kích chiến uyển chuyển, người Pháp cho VM chỉ là du kích thực ra họ đã tổ chức thành nhiều sư đoàn chính qui
-Ảnh hưởng tệ hại thời tiết, sốt rét, nóng bức sẽ khiến lính Pháp suy yếu mất tinh thần
-Tại một nước thuộc thế giới thứ ba, các đạo quân Tây phương trú đóng nhiều sẽ bi tuyên truyền là thực dân.
-Cuộc chiến cần được người dân trong nước mình ủng hộ. Quân Pháp, Mỹ bị người dân chống đối ảnh hưởng tới cuộc chiến.

Những nhận định về ĐBP do Simpson đề ra trong phần dẫn nhập như trên có tính tổng quát, mặc dù ông đã phỏng vấn nhiều người sống sót sau trận ĐBP nhưng nhận định của ông mơ hồ, không cụ thể và sâu sắc cho lắm.

Stanley Karnow, ký giả, sử gia người đề tựa sách của Simpson kể trên chỉ trích Navarre cho là một ông Tướng không thích hợp với chiến trường Đông Dương, không chú trọng về tình báo, đóng quân trong thung lũng là điên rồ. Tác giả ca ngợi tinh thần chiến đấu kiên cường của VM, của Tướng Giáp, sẵn sàng hy sinh xương máu cho tới khi nào chiến thắng.

Tác giả không đề cập cụ thể mà chỉ ca tụng tinh thần chiến đấu mù quáng điên cuồng của VM, ca ngợi những kẻ coi mạng người dân rẻ như bèo.

Cuối cùng Neil Sheehan, đặc phái viên UPI tại VN 1962-64, trong phần đề tựa cuốn sách của Jules Roy nói Navarre và bộ tham mưu đã kiêu ngạo, khinh địch, cho rằng Việt Minh thiếu phương tiện vân chuyển để đưa quân đội, tiếp liệu tới ĐBP. Navarre tin tưởng vũ khí của mình sẽ tiêu diệt đối phương, đánh giá thấp mưu trí và phương tiện địch. Theo ông lý thuyết quân sự Tây phương không thắng được chiến lược chính trị quân sự của địch mà còn đưa tới thảm bại.

Navarre đã không tin vào báo cáo của Tướng Cogny tại Hà Nội, ông Tư lệnh phó này cho biết VM đã tập trung bốn hoặc năm sư đoàn quanh ĐBP, một lượng dữ dội đe dọa căn cứ. Navarre không tin và kết án Cogny bi quan, sai lầm, ông tưởng rằng VM chỉ có thể đem tới một sư đoàn. Ý kiến của Sheehan thiên về lý thuyết, có khuynh hướng chê bai Mỹ và Pháp tại Đông dương.

Ý kiến của giới quân sự và các nhà học giả như trên đã cùng chung quan điểm trước hết là qui trách nhiệm cho Navarre, người đã đưa kế hoạch lập căn cứ tại đây. Trận ĐBP diễn ra khi Navarre đã biết là VM ngày càng mạnh hơn Pháp, quân lưu động đông hơn gấp ba lần nên ông đã cho lập căn cứ tại đây nhử cho địch tới để giết một mẻ lớn, làm suy yếu địch. Đáng tiếc thay vì thiếu tình báo, vì không có kinh nghiệm chiến trường Đông Dương nên ông đã đưa quân vào tử địa để rồi ĐBP trở thành một thảm kịch cho quân Pháp.

Trên trang mạng Vietnam.net thượng tuần tháng 5-2014, nhân dịp 60 năm ĐBP, họ đăng một loạt bài của CSVN về trận đánh lịch sử này. Bài số 5, Ký ức Him Lam, Trận mở đầu ĐBP cho biết VM đã xử dụng 40 khẩu pháo từ 75 cho tới 120 ly giáng xuống tiền đồn Pháp 5 giờ chiều 13-3-1954. Nhiều ụ súng, chiến hào giao thông hào của Pháp bị phá, thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê dương số 3 và 3 sĩ quan khác bị trúng đạn chết ngay. Điện đài bị phá hủy nhưng họ cũng thú nhận các đồng đội VM bị hy sinh quá nhiều. Những dữ kiện trên cho thấy hỏa lực VM có khả năng áp đảo.
Bài số 8 mang tên 7 Tướng Pháp và 1 Điện Biên nói về quân số tỷ lệ giữa ta và địch là 3.3/1(hơn gấp 3), pháo 3.1/1, không quân Pháp có một phi đội 14 chiếc máy bay, VM không có chiến nào. Thực ra họ nói khiêm tốn, phòng không VM tối tân và rất mạnh chế ngự bầu trời ĐBP.

Tuy nhiên cũng không phải chỉ một mình Navarre đã đưa tới thảm kịch Điên Biên. Năm 1972, sau khi CSBV thất bại trong trận An Lộc, Bình Long, báo chí Sài Gòn có đăng một bài nhận định của một giới chức quân sự VNCH, ông này nói Việt Minh năm 1954 chỉ đánh được Pháp vì quân đội Pháp là một quân đội quá tồi. Nhận định này tuy hơi cực đoan nhưng không phải là thiếu cơ sở. Bernard Fall đã nói ở trên, không quân Pháp quá yếu. Thật vậy toàn bộ chiến trường Đông Dương hồi đó Pháp chỉ có trên 100 máy bay trong khi giữa thập niên 60 Không quân Mỹ và VNCH có trên 4,000 máy bay (24).

Tháng 6-1974, không quân VNCH có hơn 2,000 máy bay. Đứng thứ tư trên thế giới hồi đó (25) Những năm 1971, 1972 nếu kể cả Không quân Mỹ thì tổng cộng số máy bay tại miền nam VN có thể gấp vài chục lần số máy bay Pháp tại Đông dương năm 1954. Trên thực tế năm 1971, mặc dù có ưu thế về không quân nhưng cuộc hành quân Lam Sơn của VNCH đã gặp nhiều khó khăn, trắc trở huống hồ tại ĐBP, một hay hai trăm máy bay Pháp chỉ là muối bỏ biển trước màng lưới phòng không dày đặc của đối phương. Tại ĐBP Pháp phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp bốn lần. Tướng Giáp đã tung hết chủ lực quân vào trận đánh tổng cộng năm sư đoàn và chấp nhận hy sinh nhiều nhân mạng để đạt mục đích, đó cũng là một yếu tố quyết định đối với số phận ĐBP.

Ngay như VNCH và Mỹ năm 1971, tiếp tế cho các ngọn đồi tại Hạ Lào bằng không quân còn trở ngại huống hồ Không quân Pháp tại ĐBP. Với một lực lượng không quân quá yếu như vậy mà Navarre chọn lập căn cứ tại khu lòng chảo xa xôi chỉ tiếp tế bằng cầu không vận thì phải nói là một khuyết điểm lớn mà ai cũng chê trách. Ông ta đã khinh thường đối phương, chủ quan đến độ ngây thơ nên đã phải trả giá đắt.

Những lý do mà Navarre nêu ra trong toàn cuốn sách Đông Dương Hấp Hối, Agonie de l’Indochine để tự bênh vực có thể là hợp lý: áp lực địch quá mạnh, viện trợ của Trung Cộng cho Việt Minh gia tăng ồ ạt, cán cân lực lượng nghiêng về VM. Nhưng không thể phủ nhận được ông ta phải chịu trách nhiệm nặng nề cho sự sai lầm của mình. Logevall cho rằng đúng ra thay vì lập căn cứ ĐBP để bảo vệ Lào, Navarre giành lực lực lượng bảo vệ châu thổ sông Hồng quan trọng hơn. Trong trường hợp trận chiến lớn diễn ra tại đây, Pháp dễ tiếp tế, tăng viện hơn và có thể rút chạy khi cần hơn là bị chôn chân tại khu lòng chảo Điện Biên.

Như Navarre đã trình bầy, tình thế năm 1953, 1954 rất bi đát đối với Pháp tại Đông dương vì địch mạnh hơn Pháp, ta thử hỏi tại sao? cuộc chiến Đông Dương 1946-1954 chỉ là sự đương đầu giữa Mỹ và Trung Cộng hơn là giữa Việt Minh và Pháp. Hoặc nói khác đi sự đương đầu giữa Thế giới tự do và CS. Như Ted Morgan đã nói Mao có lợi thế hơn Mỹ tại chiến trường này, lệnh của Mao được thi hành ngay trong khi chính phủ Mỹ phải tham khảo Quốc hội, phải bàn luận, thăm dò ý kiến người dân. Từ đó ta suy ra lý do tại sao viện trợ của Mỹ cho Pháp lại ít hơn của Trung cộng cho VM tại chiến trường này.

Các trận chiến lớn tại Bắc Việt những năm 1952, 1953, 1954 không còn được coi là du kích chiến khi hai bên đã đánh tới cấp sư đoàn và năm 1954 ĐBP đã đánh tới cấp quân đoàn, Navarre đã gọi lực lượng chính qui địch là Quân đoàn VM. Trong những trận đánh lớn như vậy bên nào nhiều vũ khí đạn được, hỏa lực mạnh sẽ nắm ưu thế, cách đây hơn hai trăm năm, Napoléon đã từng nói bên nào nhiều đại bác sẽ nắm phần thắng. Như Navarre đã nói trong Đông Dương Hấp Hối, những năm 1953, 1954 Pháp ngày càng suy yếu hơn địch và trận ĐBP cũng chỉ là kết quả của tất nhiên của tình thế, của cán cân quân sự hai bên.

Embers of Wars trang 498 đăng hình một chiếc máy bay vận tải khổng lồ Mỹ tại phi trường Orly ngoại ô Paris ngày 23-4-1954 đang mở cửa cho lính nhẩy dù Pháp lên để bay tới ĐBP. Bức hình cho ta thấy sự khó khăn của Tây phương về tiếp viện, vận chuyển là nhường nào, người ta không thể ngờ việc tăng viện, chuyển quân có thể nhiêu khê như thế. Navarre đã so sánh vấn đề này cho rằng Trung cộng viện trợ cho VM bằng đường bộ và đường thủy gần ngay biên giới trong khi Pháp và Mỹ phải chuyên chở quân cụ, binh lính từ nửa vòng trái đất. Đây cũng là một trong những lý do chính đưa tới thất bại của Pháp, đưa quân đi chiến đấu tại một mảnh đất quá xa xôi, tốn kém rất khó hy vọng đạt thắng lợi.

Khu lòng chảo lâm vào tình trạng nguy khốn tháng 4-1954 là do ưu thế viện trợ của khối CS cho VM, nhưng người Mỹ vẫn còn cơ hội cứu vãn tình thế vào giờ chót bằng không lực. Cơ hội cuối cùng đã vuột khỏi tầm tay vì nội bộ nước Mỹ chia rẽ và nó đã chính là nguyên nhân quan trọng hàng đầu đưa tới thảm kịch Điện Biên.

© Trọng Đạt

———————————————————————————————————-

Chú Thích
(1) Agonie de l’Indochine trang 197, 198
(2) Sách đã dẫn trang 251-255: Les Causes de La Chute de Dien Bien Phu
(3) Sách đã dẫn, trang 42, 47
(4) La Bataille de Dien Bien Phu, Julliard, 1963. Bản dịch The Battle of Dien Bien Phu
(5) Sách kể trên trang 1
(6) Sách kể trên trang 35, Machiavelli nhà sử gia, chính trị gia Ý (1469-1527)
(7) Sách kể trên trang 288, Barley d’Aurevilly nhà văn Pháp Thế kỷ 19
(8) Sách kể trên trang 288
(9) Sách kể trên, trang 289-291, 294, 304-306
(10) Quân sử 4, trang 159 với hình lòng chảo bị khai quang
(11) Quân sử 4 trang 172, 173
(12) Bernard Fall là người Pháp gốc DoThái , đậu Ph.D năm 1955, Giáo sư đại học tại Mỹ, tác già cuốn sách nổi tiếng viết về ĐBP, Hell in a Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu, in năm 1966. Phần kết luận từ trang 450-463.
(13) Sách kể trên trang 451, về điểm này trong Agonie de l’Indochine trang 220 Navvarre nói VM đã bắn hơn 200,000 quả đạn pháo binh và súng cối hạng nặng xuống ĐBP trong suốt trận đánh (…le nombre de projectiles d’artillerie et de mortiers lourds tirés par l’ennemi au cours de la bataiile a dépassé 200,000)
(14) Hell in a Very Small Place trang 455, 456
(15) Sách kể trên, trang VIII, IX
(16) Bernard Fall, Street Without Joy, các trang 316, 318, 320, 321, 324
(17) Fredrik Logevall, Embers of War, The Fall of An Empire And The Making Of America’s Vietnam, 2012, trang 543-546
(18) Ted Morgan- The Valley Of Death, The Tragedy At Dien Bien Phu That Led America In to The Vietnam War, 2010 trang 409, 410
(19) Sách kể trên, Epilogue trang 639, 640
(20) Dien Bien Phu, The epic Battle America Forgot, xuất bản 1994, tác giả Howard R. Simpson các trang xvii, xix, xx, xxi, xxiii, xxiv. Ông là cựu viên chức ngoại giao Mỹ, đã là phóng viên chiến trường ĐBP và nhiều chiến trường khác, Cố vấn của Giám đốc trường Hải quân và Phụ tá giám đốc văn phòng đặc trách Đông nam Á châu sự vụ, ông đã phỏng vấn nhiều người sống sót sau ĐBP tại VN, Pháp
(21) Sách đã dẫn, trang 179, 181
(22) Introduction of Neil Sheehan, trang xi-xx
(23) Agonie de l’Indochine trang 220
(24) Hell in a Very Small Place trang 458
(25) South Vietnam air force, www. globalsecurity.org; Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 877

 

 

51 Phản hồi cho “Nguyên nhân thất thủ Điện Biên Phủ [2]”

  1. Hoàng says:

    Trong trận Điện Biên Phủ, có một tên người Việt là Phạm Văn Phú đi lính cho giặc Pháp, leo lên đến cấp bậc trung úy, chiến đấu chống lại dân tộc, đất nước và nhân dân Việt Nam để bảo vệ quyền lợi của giặc Pháp xâm lược.
    Cũng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có một lần Phạm Văn Phú bắt nhịp bài La Marseillaise (Quốc ca của Pháp) cho lính người Việt trong quân đội của giặc Pháp xâm lược vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1, nên được các sĩ quan Pháp cảm kích. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, hắn ta bị quân đội nhân dân Việt Nam bắt giam cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều sỹ quan Pháp khác. Phạm Văn Phú là một người Việt Nam nhưng không chống lại giặc Pháp xâm lược mà lại đi lính cho giặc để chống lại quê hương, tổ quốc. Đã thế, Phạm Văn Phú không bắt nhịp cho lính hát bài hát Việt mà lại là bài quốc ca của quân xâm lược. Đối với Phạm Văn Phú và những kẻ như hắn, tổ quốc của hắn không phải là Việt Nam, mà nước Pháp, nói chính xác hơn, tổ quốc của Phạm và Văn Phú và đồng bọn là đồng tiền Phờ răng của giặc Pháp.
    Ấy vậy mà sau năm 1954, được quân đội và nhân dân Việt Nam tha mạng vì tội bán nước, làm tay sai và đánh thuê cho giặc Pháp, hắn chạy vào nam tiếp tục đánh thuê cho giặc Mỹ xâm lược, lấy đồng đô la của giặc Mỹ làm “tổ quốc – danh dự – trách nhiệm” và ngoi lên đến cấp bậc thiếu tướng, giữ chức tư lệnh quân đoàn 2, quân khu 2 của cái quân đội bán nước, tay sai, đánh thuê cho Mỹ. Tháng 3/1975, trước sức tấn công vũ bão của quân đội và nhân dân Việt Nam, Phạm Văn Phú bại trận, chạy trốn khỏi Tây Nguyên. Ngày 30/4/1975, trước sức mạnh tấn công áp đảo của toàn dân tộc, cái gọi là quốc gia VNCH bại trận, đầu hàng không điều kiện. Không chịu nổi sự nhục nhã vì chẳng lẽ lại để bị quân đội và nhân dân Việt Nam bắt làm tù binh lần thứ 2, hắn đã uống thuốc độc để tự tử, kết thúc một cuộc đời chuyên bán nước, làm tay sai cho giặc. Âu đó cũng là lẽ công bằng của trời đất và tổ tông nước Việt dành cho những kẻ đi ngược lại quyền lợi của dân tộc, đất nước và nhân dân Việt Nam.

    • Tien Ngu says:

      Thưa,

      Nghe cò mồi nó tự phong, tự sướng, mà anh Ngu…thở dài…

      Giặc Pháp với giặc Cộng, giặc nào láo ác hơn?
      Giặc nào làm hại dân tộc VN nhiều hơn?

      Nhắm con mắt, ai cũng trã lời được, giặc Cộng nó ác hại cả tỉ lần giặc Pháp.

      Giặc Cộng nó biến dân VN thành…láo, bởi nó cai trị bằng…láo
      Giặc Cộng nó tàn sát dân VN tàn độc hơn. Anh em, cha con, bà con gì cũng bôi mặt giết nhau
      Giặc Cộng biến người VN thành…dốt, ngu dân dể cai trị

      Vân vân và vân vân
      Kề nữa ngày cũng chưa hết…

      Vậy thì Phạm văn Phú có dịp đánh giặc Cộng, là chuyện vô cùng phải đạo.
      Dựa giặc tây hay giặc Mỹ gì đầ đánh giặc Cộng, là cái chuyện nên làm.

      Giặc Cộng bị Phú đánh, thành ra nó thù, nó chửi.

      Âu cũng là chuyện…thường.

      Cái láo của giặc Cộng là con mẹ gì, chúng cũng hát là …nhân dân.

      Thực sự nhân dân VN, đều là nạn nhân của nạn Cộng láo….

      • nguyen ha says:

        Này bạn Hoàng,rất nhiều người Việt đi lính cho Pháp và cả cho Mỹ,tất cả họ dưới mắt của bạn là “lính đánh thuê”,”vô tổ quốc” .Đâu là Sự that ?? TBT CS Lê Duẩn đả trả lời cho bạn ” Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên xô và Tàu “!! Hơn thế nửa ,sau khi CS Nga và Đông Âu sụp đổ ,thế giới đả thấy một chủ nghĩa CS VÔ LUÂN và BẤT TÀI, điều nầy lại chứng tỏ những người cầm súng chống lại CS là Có-lý-tưởng. Ngược lại,bọn CS chính là những kẻ chiến đấu Vô-lý-tưởng hay nói cách khác, lý -tưởng của những kẻ băng hoại-mafia- ăn cướp…chiến đấu vì “bao tử” hơn là vì Tổ quốc ( nhà văn Nguyện binh Phương nói trong tác phẩm Xe lên-xe xuống).Rất mong bạn Hoàng sớm giác ngộ ,bước ra khỏi cái đám CS còn lại ,với lá cờ Đỏ -Vô-tổ quốc ,đang bán đất nước …!

    • HN says:

      CS là tội phạm của dân tộc VN, của nhân loại, giết được nhiều VC là có công với nhân loại
      Tướng Phù có công giết nhiều VC phải là người có công với VN, với thế giới

  2. Long Vân says:

    Nguyên nhân sâu xa vì sao Pháp thất bại ở ĐBP là vì Pháp là đội quân xâm lược. Lịch sử VN đã chứng minh, bất kỳ đội quân xâm lược nào dù hùng mạnh đến mấy khi xâm lược VN đều bị nhân dân VN đánh cho đại bại, bất kỳ bọn bán nước nào cũng bị nhân dân tiêu diệt. Lý thường Kiệt đã tuyên bố:
    Nam quốc sơn hà Nam đế cư
    Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
    ——————————————–

    Sông núi nước Nam, vua nước Nam ở,
    rành rành định phận ở sách trời.
    Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm,
    Chúng bây thất tại tan tành.

    • Tien Ngu says:

      Có mồi à,

      Anh Ngu cũng bái em mấy bái…

      Biết thì hát, không biết thì thôi, em? Hát theo vẹt thì ra cái mẹ gì?

      Xưa dân ngu, thiếu thông tin, còn bị xúi dại, nay có internet, Việt kiều về xứ, em?

      Pháp bại trận thời điểm đó vì nó bị Phát xít chơi cho kiệt quệ, Tàu Cộng lại đang cái lúc…lên đời, nó backup Việt Cộng tới bến.
      Không có Tàu Cộng cố gang bơm sau đít Việt Cộng để bành trướng cái chủ nghĩa Cộng láo, Việt Cộng lấy cái đéo gì mà đánh Tây?

      Bớt cái tật láo, tự sướng đi em.

      Xưa, uýnh lộn bằng gươm giáo gậy gộc, thì còn nói dóc được. Cái thời Tây, không có vũ khí của Trung Cộng, Việt Cộng chỉ có nước chết như rạ trước súng đạn Tây thôi em.

      Mẹ nó chớ, đánh Tây là cả nước đánh, mà có mồi giặc Cộng cứ láo là chỉ có Cộng đánh…

  3. Lương says:

    Thằng ngoại bang nào dù giàu mạnh đến mấy mà xâm lược VN thì cuối cùng đều chuộc lấy thất bại. Thàng VN nào bán nước, làm tay sai cho ngoại bang xâm lược VN cuối cùng đều bị nhân dân VN tiêu diệt. Lịch sử hàng ngàn năm của VN đã chứng minh điều. Cho nên, một Điện Biên Phủ, chứ ngàn Điện Bên Phủ thì dù 10 năm hay 100, 200, 300 năm, cuối cùng giặc Pháp cũng bại trận mà thôi.

    • noileo says:

      Việt cộng Hồ chí Minh học tập và làm theo Lê Chiêu Thống rước quân xâm lược giặc tàu nhà Mao vào Việtnam mở ra một thời kỳ bắc thuộc mới, dựa vào quân xâm lược chống lưng đỡ đầu gây cuộc nội chiến Quốc/Cộng phục vụ ý đồ “tổ quôc xã hội chủ nghĩa” tội ác, đó là Hồ chí Minh, bọn cộng sản Lao động Tàu đẻ đã phạm tội phản quốc làm tay sai cho ngoại bang xâm lược.

      Việt cộng Hồ chí Minh, Việt cộng Võ Nguyên Giáp, bọn cộng sản lao động Tàu đẻ biến thái cuả bọn cộng sản Việt nam dân Chủ cộng hòa [từng đón giặc Pháp vào hà nội-19/5/1946] học tập và là theo Lê Chiêu Thống cầu cứu giặc tàu, năm 1788 Lê Chiêu Thống lê gót sang tàu cầu cứu giặc tàu nhà Thanh, 142 năm sau, năm 1950, Việt cộng Hồ chí Minh lê gót sang tàu cầu cứu giặc tàu nhà Mao, làm tay sai cho giặc tàu, dựa vào giặc tàu nhạ̀ Mao đánh phá Việt nam (Quốc Gia Vị̉êt Nam), giành chính quyền VN phục vụ ý đồ tổ quốc xã hội chủ nghĩa tội ác

      1-1-1955, diễn lại tấn tưồng Lê Chiêu Thống & Tôn sĩ Nghị tiến vào Thăng Long 166 năm trước, Việt cộng Hồ chí Minh & cố vấn Trung quốc vỹ đại tiến vào Hà nội, dựa vào giặc tàu chống lưng đỡ đầu khủng bố nhân dân Hà nội, ly khai QUốc Gia Việt nam, dựng nên tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt nam Dân chủ Cộng hòa tội ác, vong bản ngoại lai tay sai giặc tàu thề đánh người nam đến người bắc cuối cùng tiêu diệt nền dân chủ tụ do của Việt nam bành trướng chủ thuyết mác Lê tội ác vào Việt nam

      *****

      LỊch sử Việt nam cho thấy kẻ VN nào nhờ cậy đến giặc Tau, cầu cứu giặc tàu chống lưng đỡ đầu giành quyền cai trị VN, là kẻ ấy đã tạo cơ hội i cho giăc tàu tiến vào VN mở ra một thời kỳ bắc thuộc mới

      Lich su VN, Tổ tiên Việt nam luôn luôn răn dạy & nghiêm cấm con cháu Việt nam rước giặc Tàu vào Việt nam, luôn luôn răn dạy & ghiêm cấm con cháu Việt nam dựa vào giặc Tàu mà tranh giành quyền lực cai tri Việt nam điều tất yếu dấn đến kết cuộc giặc Tàu đô hộ Viet nam ,

      Đối với lịch sử Việt nam, đối với Tổ tiên Việt nam, kẻ nào rước giặc tàu vào VN, dựa vào giặc tàu cuop chính quyền, tranh giành quyền cai trị Việt nam, kẻ đó tội phạm phản quốc, can tội tiếp tay giặc tàu đô hộ Việt nam

      Đối với lịch sử Việt nam, đối với Tổ tiên Việt nam, hành động của Việt cộng Hồ chí Minh học tập và làm theo Lê Chiêu Thống rước giặc tàu nhà Mao vào Việtnam, dựa vào giặc tàu nhà Mao chống lưng đỡ đầu gây cuộc nội chiến Quốc/Cộng phục vụ ý đồ “tổ quôc xã hội chủ nghĩa” tội ác, đó là Hồ chí Minh, bọn cộng sản Lao động Tàu đẻ đã phạm tội phản quốc

    • Tien Ngu says:

      Dóc!

      Tàu Cộng chiếm hải đảo biển đông, giết dân đánh cá VN, cấm không cho đánh cá…

      Sao Vn Cộng láo không đánh đuổi nó đi?
      Xếp Tàu Cộng qua chỉ đạo, VN Cộng láo còn…bắn sung chào, để cho nó lên lớp quốc hội, là sao?

      Hồ chí Minh, bây giờ cho đến Phú Trọng, đều là tay sai bán nước cho Tàu Cộng, sao nhân dân VN không dám lên án và tiêu diệt tụi nó?

      Bỏ cái tật láo tự sướng đi cò mồi à. Mở con mắt …hí lên em.

      Đói dốt chết mẹ, mà cái tật láo tự sướng cũng không bỏ. Lạ đời thiệt….

    • Trần Tưởng says:

      Đúng vậy. Thằng Tàu 1000 năm mới chạy ra khỏi VN ,còn thằng Tây khoảng 100 năm .
      Thằng Tây chưa ra khỏi hằn VN, đã vội rước thằng Tàu về mà đội ,nó bảo giết dân miền
      Bắc thì tàn sát cả trăm ngàn người . Nó bảo đánh dân miền Nam ,thì tàn sát hàng triệu
      người . Cứ làm tay sai cho bọn Tàu như thế này ,chắc cũng khoảng triệu năm hay hơn
      nưã ,mới hòng thoát ra cảnh nô lệ .

  4. văn thân says:

    hồi tôi còn bé khoảng 10 tuổi ,tôi dược nghe một người lính comando của pháp nói chuyện với ba ôi và một vài người ban trong một buổi nhậu,ông ta nói nguyên văn vè mặt trân diện biên phủ -lồ…. .mẹ nó súng bán chĩ dược băng dầu băng thừ hai dạn rơi ngay trước mặt..nòng súng dỏ lòm dái vào súng xong bắn chả dược thì dánh cái déo gì nửa .thực phẩm ,thuốc men dạn dược thà dù xuống dều rơi vào phòng tuyến của việt minh không nhìn tủi nó khie6ng mà tức anh ách .thua là phải rồi .thắng thế déo nào dược.. . ông ta tên là chiên tên thường gọi là bác chiên. khi vào nam ông ta không chịu chuyển qua quân dội quốc gia , giải ngủ về nhà di làm thợ hồ .sau này du7o75a nhà nước pháp truy trả một số tiền rất lớn.
    sau ngày giải phóng tôi nghe một người cộng sản tham dự trận dánh nói rằng : dạn 105 của mỷ bắn 10 trái nổ dủ 10 còn dạn của trung quốc thì 10 quả nổ chỉ có 3 quả dạn mỷ ở d6au mà bắn ? thì mỷ thả dù tiếp tế cho pháp nhưng gió dưa qua bên mình thì dạn mỷ bắn pháp chú còn ở dâu nửa.thì ra anh chú sam dả tiếp tế dạn dược cho việt minh dánh pháp. .
    hè dỏ lửa 1972. quân cộng sản bắcviệt bao vây thị trấn an lộc ở bình long chiền thuật bao tròn diệt gọn dả máy bay tiếp tế cho mặt trân an lộc.tướng giáp chắc mẩm dồ tiếp tế cho thị trấn an lộc sẻ rơi vào tay mình giống như mặt trân diện biên phủ vậy.nào dè chú sam chơi xấu dem cái dù có lổ chừ không phải dù thường như mặt trân diện biên phủ . dồ tiếp tế dược lót một lớp mouse dầy . cái lổ dả triệt tiêu sức cản của không khí dồ ti61p tế không lọt ra ngoài phòng tuyến của cộng sản bắc việt. nhờ vậy sư doàn 5 trung doàn chín mới tử thủ và chiến thắng tiêu diệt 90% quân cộng sản bắc việt da số chết vì B52 rải thảm . nếu mắt trận diện biên phủ mà mỷ thả dù tiếp tế cho pháp bằng cái dù có lổ như ở mặt trận an lộc thì phần thắng chưa chắc dả về phe việt minh .
    chính trị là như thế dó theo tôi nghỉ hoa kỳ muốn giúp ông hồ chí minh loại anh thực dân pháp ra khỏi dông dương nên mới phải làm như vậy..pháp thả dù củng như mỷ dều bay vào trận dịa của việt minh thì pháp làm sao kết tội hoa kỳ dược ?
    ??????? các bạn kết tội ông hồ chí minh là cộng sản thì thật là hồ dồ.thiếu khách quan và không trung thực theo thiển ý của tôi .ÔNG HỒ CHÍ MINH LÀ MỘT NGƯỜI VIỆT NAM YÊU NƯỚC THẬT SỰ TRONG DẦU ÔNG TA CHỈ THỜ DUY NHẤT MỘT CHẾ DỘ — DỘC LẬP TỰ DO DÂN CHỦ -THỰC SỰ MÀ THÔI.CỘNG SẢN CHỦ NGHỈA CHỈ LÀ PHƯƠNG TIỆN DỂ ÔNG TA HOÀN THÀNH SỰ NGHIỆP CỦA MÌNH .KHOÁC ÁO CỘNG SẢN MÀ LÒNG THÌ SUỐT DỜI AO ƯỚC – KHÔNG CÓ GÌ QÚY HƠN DỘC LẬP TỰ DO. CHO DÂN TỘC VIỆT NAM..mỏi tay rồi xin tam ngưng các bạn dọc vui lòng sửa giùm lổi chính tả nói hay không bắng hay nói phải không mong các bạn góp ý về com ment này của ti6i.

  5. Hoàng says:

    Bố mẹ đẻ bà Trần Lệ Xuân từng kêu gọi lật đổ nhà Ngô

    Nguyên văn một tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ nói về báo cáo của ông Paul M.Kattenburg, Phó Giám đốc Đông Nam Á Sự vụ tại Bộ Ngoại giao Mỹ, ghi lại cuộc nói chuyện giữa ông này với ông bà LS Trần Văn Chương, bố mẹ đẻ bà Trần Lệ Xuân ngay 3 tuần sau khi ông này tuyên bố từ chức Đại sứ VNCH tại Mỹ và bà mẹ bà Nhu từ chức Quan sát viên VNCH tại Liên Hiệp quốc (tức vào ngày 16/9/1963), nội dung cho biết: ông bà chịu sức ép rất nhiều người Việt muốn lật đổ chế độ nhà Ngô “nhiều người Việt từ tất cả các phía” đã yêu cầu chồng bà hãy lãnh đạo một chính phủ đoàn kết quốc gia”, và vận động Mỹ ủng hộ “Chính phủ” này; thậm chí bà mẹ này sau đó còn “tổ chức biểu tình chống nhà Ngô trước Tòa Bạch ốc” và “kêu gọi cộng đồng Việt khi thấy bà Nhu là lấy xe tông liền, nếu không nên ném trứng và cà chua”!
    Ngoài tài liệu trên, còn vô số các tài liệu giải mật khác, hồi ký của tư lệnh, bộ trưởng quốc phòng Mỹ, ghi nhận về thái độ và phán quyết của Tổng thống Mỹ…hay chính hồi ký, bài viết, cuốn sách của các trí thức VNCH, học giả phương Tây thời đó, đều bày tỏ thất vọng, lên án chế độ nhà Ngô với đủ tệ hại, thối nát, độc tài, man rợ… Ấy nhưng, trái ngược hẳn với những tư liệu “nhân chứng”, “vật chứng” kể trên, khá nhiều hậu sinh Cờ vàng như Việt Tân, hay các con chiên Dòng Chúa cứu thế, các dân chủ gia hiện nay lại hết lời ca tụng chế độ nhà Ngô. Một trong các fan cuồng đó là Lê Công Định, với một vài bài như “LS Lê Công Định: Công lao Tổng thống Ngô Đình Diệm cần được tôn vinh”, “Lê Công Định – Kỉ niệm ngày mất cố tổng thống Ngô Đình Diệm, là nhân vật lịch sử” với việc xem ông Diệm là“một nhân vật từng có sự nghiệp vĩ đại nhất của dân tộc ở thế kỷ 20” “nhân vật lịch sử đã từng tranh đấu và ngã xuống vì quốc gia Việt Nam”, cho Ngô Đình Nhu là “một nhà tư tưởng lớn hiếm hoi của Việt Nam”, ước nguyện “phục hoàn và tôn vinh tương xứng với sự nghiệp vĩ đại của ông””, xa hơn nữa, Định còn hết lời ca ngợi các tướng dưới trướng của nhà Ngô. Những bài viết này của Định được đám Cờ vàng, zân chủ trong nước hết lời ca tụng, chia sẻ loạn xạ.
    Cứ đến ngày giỗ ông Diệm hay ngày 30/4 đám zân chủ trong nước lại cùng con chiên, linh mục chống Cộng cực đoan Dòng Chúa cứu thế “suy tôn”, “tưởng nhớ Ngô Tổng thống”, ca ngợi chế độ này và oán trách, phủ nhận chế độ sau đã theo Mỹ lật đổ nhà Ngô, so sánh cả với Chủ tịch Hồ Chí Minh về “lòng yêu nước”, “tinh thần dân tộc”…
    Bảo sao đến Chính phủ Mỹ cũng phát ngán các dân chủ gia và Cờ vàng, đang hết mình thết lâp quan hệ đồng minh với Đảng Cộng sản Việt Nam vì lợi ích hai đất nước. Việc Tổng thống Mỹ Obama không “lên lịch” tiếp đón các đại diện XHDS độc lập trong chuyến thăm tới đây đang khiến giới zân chủ cuồng Mỹ thất vọng tràn trề. Hiện trên mạng mới chỉ xuất hiện một vài đại diện NGO trong nước nhận được giấy mời đến dự buổi phát biểu của Tổng thống Mỹ tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Hà Nội sáng ngày 24/5/2016 với hàng ngàn người tham dự mà chẳng có rận chủ nào.
    Chia buồn, không lẽ Tổng thống Mỹ không nghe được lời cầu khẩn của ca sỹ nổi tiếng Mai Khôi và cả đống thỉnh nguyện thư, lời cầu van “đại diện XHDS Việt Nam” của Việt tân, VOICE và các tổ chức phản động hải ngoại bu quanh Nhà trắng suốt cả tháng qua. Có lẽ khi cầu khẩn những điều này, họ quên mất rằng, Tổng thống Mỹ đại diện cho lợi ích nước Mỹ, nhân dân Mỹ trong quan hệ với Chính phủ Việt Nam hiện nay chứ không còn ôm ấp cái bóng ma quá khứ kia nữa

    • Trần Hoàn says:

      Thôi mầy ơi!
      Mỹ đang dùng gậy ông đập lưng ông đấy. Đảng Cộng láo chúng mầy sẽ được tế thần với Tầu phù rồi sau đó sẽ vĩnh viển giả từ cõi đời nầy. Đừng có phét lét lợi ít nhân dân hai nước cái con khỉ Hồ heo chó mèo gì cho mệt.

  6. Samson says:

    Hèn chi thằng Trung quốc xâm lược nay áp dụng chiến lược “tầm ăn dâu”. Và CSVN đối phó lại có chiến lược ” teo chim, teo d…”. Rốt cuộc, biển, đảo của Tổ quốc mất dần vào tay bọn Trung quốc . Ngư dân Việt khốn khổ mất ngư trường, phải mò sang các nước bạn ăn cắp cá, bị Mã Lai tóm 252 lần !

    Các Nước Bắt Nhiều Ngư Dân VN
    09/04/2016

    Bản tin VOA ghi rằng Malaysia đã tố cáo lãnh hải bị tàu Việt Nam xâm phạm nhiều nhất.

    Bộ trưởng đặc trách an ninh quốc gia Shahidan Kassim ngày 8/4 cho hay trong tổng số 273 vụ bắt giữ từ năm 2010 tới tháng 2 năm nay, các tàu cá Việt Nam chiếm phần lớn, với 252 trường hợp.

    Vụ bắt giữ gần đây nhất xảy ra hôm 5/4 khi 4 tàu cá Việt cùng 24 thuyền viên bị Cơ quan Thực thi Hàng hải Malaysia chặn bắt trong vùng biển Kemaman, tịch thu gần 500 kg hải sản.

    Trước đó, hồi cuối tháng 3, Malaysia đã bắt giữ 25 ngư dân Việt trên 3 chiếc tàu, tịch thu ngư cụ và sản lượng đánh bắt.

    Đầu tháng 3, Malaysia chặn bắt 42 thuyền viên Việt Nam cùng 3 chiếc tàu, tịch thu hơn 8 tấn hải sản trị giá trên 48 ngàn đôla.

    Trong khi đó, bản tin RFA ghi rằng từ ngày 3 đến 7 tháng tư năm nay, Thái Lan đã bắt giữ tổng cộng 11 tàu cá và 102 ngư dân Việt Nam vì cho vi phạm vùng biển của nước này.

  7. Samson says:

    Dân tộc Việt nam bị tên tay sai cho đế quốc Liên xô Hồ chí Minh lừa gạt :

    Hồ chí Minh có phải là người yêu nước không ?

    Trên tờ báo Thanh Niên phát hành ở Quảng Châu ngày 20/12/26, Hồ chí Minh đã viết rằng: “Cái danh từ tổ quốc là do các chính trị gia đặt ra để đè đầu nhân dân, để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có tổ quốc, cũng chẳng có biên giới”.

    Ngày 26/12/1956, trên trang đầu của Tạp Chí Cách Mạng Đồng Minh Hội, Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa ái quốc cần bị tiêu diệt, để thay thế bằng chủ nghĩa Cộng sản”.

    Thế đã rõ là một kẻ chối từ Tổ quốc như Hồ chí Minh thì làm sao có thể là một người yêu nước .

    *** Tổ chức Việt Minh của Hồ chí Minh đánh Pháp là vì độc lập, tự do cho đất nước hay là vì lý do nào khác ?

    Trong “Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam” do Hà nội ấn hành, Hồ chí Minh đã từng xác nhận: “Chúng ta theo chủ nghĩa Quốc tế, không theo chủ nghĩa Quốc gia. Chúng ta phải nâng cao tinh thần đấu tranh giải phóng, nghĩa là hình thức thì dân tộc mà nội dung là quốc tế”.

    Thế đã rõ là bên ngoài, Hồ chí Minh lừa bịp dân chúng rằng Việt Minh đánh Pháp là để giải phóng đất nước khỏi tay thực dân Pháp . Nhưng sự thật bên trong , Hồ chí Minh dùng tổ chức Việt Minh đánh Pháp là để giúp Cộng sản quốc tế sớm nhuộm Đỏ hoàn cầu .

    Trong cuốn “Bác Hồ Trên Đất Nước Lênin”, tác giả Hồng Hà thuật lại rằng trong ngày Lễ Lao Động 1-5-1924 ở Mạc Tư Khoa ( Liên xô), Hồ chí Minh được xếp đứng trên khán đài danh dự cùng với các đại biểu Quốc tế Cộng sản sau Lá Cờ Đỏ thêu hàng chữ “Chúng Tôi Nguyện Đem Lá Cờ Của Người Đi Khắp Thế Giới”.
    (Chữ Người của khẩu hiệu trên là Lenin, lá cờ là cờ Búa Liềm của Liên Xô )

    *** Tàu Cộng được Liên xô uỷ cho trách nhiệm hỗ trợ Việt Minh của Hồ chí Minh đánh Pháp. Kể từ sau khi đuổi xong Tưởng giới Thạch ra khỏi Trung Hoa ngày 1-10-1949 , Mao trạch Đông đã có thể viện trợ ồ ạt khí giới cho Việt Minh, cử các tướng lãnh tài giỏi và cố vấn sang giúp Việt Minh, tiếp nhận Việt Minh sang Trung Hoa để huấn luyện về quân sự và chính trị ….. Và nhờ đó, Việt Minh đã đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ .

    Trong cuốn “Lịch Sử Đảng Cộng sản Đông Dương,Tổng kết trận chiến Điện Biên Phủ ” do Cộng sản Hà nội xuất bản có ghi rằng sau chiến thắng Điên Biên Phủ, Hồ chí Minh tuyên bố: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng Sản để giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.”

    Thế đã rõ Hồ chí Minh đánh Pháp là để giúp Cộng sản Quốc Tế, đứng đầu là Liên xô, trong công cuộc nhuộm Đỏ hoàn cầu, chớ chẳng phải vì độc lập, tự do cho Việt Nam chi sất .

  8. Samson says:

    Không có Điện Biên Phủ, Việt Nam cũng sớm thu hồi lại độc lập . Chính chiến thắng Điện Biên Phủ đã dẫn đến thảm trạng của đất nước ngày nay .

    Sau 1945, chủ nghĩa thực dân cũ bước đầu bị sụp đổ. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 mang đến tiếng nói cho các dân tộc bị áp bức. Từ 1954 – 1960, hệ thống thuộc địa tan vỡ nhanh chóng .Các nước đế quốc cũ bị Thế chiến thứ 2 làm kiệt quệ đành phải từ bỏ thuộc địa của mình (như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha). Thêm nữa là Đại hội đồng Liên hiệp Quốc khóa XV năm 1960 thông qua văn kiện: Tuyên ngôn về thủ tiêu hoàn toàn Chủ nghĩa thực dân, trao trả độc lập cho các quốc gia và dân tộc thuộc địa .

  9. Tran Vinh says:

    Điên Biên Phủ- TĐ : Một bài viết vô giá trị :

    Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư cộng sản Liên Xô : “Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau buồn mà nói rằng “cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo”.

    Bí đề tài thì Trọng Đạt nên gác bút, chớ ráng viết mà quơ cả sách báo của bọn thiên tả vào làm tài liệu dẫn chứng thì chỉ bị phỉ nhổ mà thôi .

    Nhiều người đã lên án Bernard Fall và Stanley Karnow thiên tả. Điển hình như dưới đây :

    Nhà biên khảo Nguyễn Văn Lục :Cánh trí thức tả của Pháp như A. Camus, Simone de Beauvoir, J.P. Sartre, André Gide hay các nhà báo như Bernard B. Fall, J. Lacouture, Stanley Karnow, Alain Ruscio, David Halberstam, Oriana Fallaci, v.v.

    Nhà biên khảo Minh Võ : Sử gia thiên tả Stanley Karnow .

    Luật sư, nhà báo, giáo sư Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Phạm Kim Vinh : “Sử gia kiêm nhà báo Pháp Pierre Darcourt đã mang quân phục quân đội viễn chinh Pháp để đánh cộng sản tại VN năm 1946. Sau đó, khi giải ngũ, ông ta lại hùa theo một tác giả khác của Pháp là Bernard Fall để viết sách, báo ồn ào ca tụng cuộc chiến đấu của cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo “.

    Chinhnghia.com : Chúng ta cần phải cảnh giác với các tài liệu liên quan đến Việt Nam không chỉ của bộ máy làm hàng giả của tập đoàn cộng sản Việt Nam hiện nay mà của các tổ chức không phải Việt Nam, các nhà văn, nhà báo, nhà sử học không phải người Việt Nam như Bernard Fall, Burchetts, Jean la Couture, Jane Fonda .v.v… là không thể tin cậy được, bởi nó có dụng ý bôi đen sự thật .

    • Son La says:

      Các ông muốn nói cái gì thì nói, muốn khen hay chê là quyền của các ông, tôi chỉ biết cả thế giới công nhận ở Điện biên phủ Việt nam đã thắng, Pháp đã thua, thất bại nhục nhã và trận Điên Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã chấm dứt chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa thuộc địa của bon đế quốc trên toàn thế giới.
      Tôi thấy bài viết này rất khách quan và trung lập, rất có giá trị, rất đúng với cách đánh giá và nhận định của cả 2 phía. Cám ơn ông Trọng Đạt.

      • noileo says:

        Với thành quả “Điện Bên Phủ” tạo nên bởi ” tướng lãnh Trung cộng + súng đạn Trung cộng + xương máu Việt nam” [xương máu Việt nam do Việt cộng Hồ chí Minh & Việt cộng Võ Nguyên Gíap nupduoi chieu bai "khang chien" bim bip thu gom, cống hiến cho giac tau lam cong cu chien tranh tien danh VN], mở đường cho giặc tàu tiến vào Việt nam, giặc tàu đã mở ra một thời kỳ bắc thuộc mới cho Việt nam sau khi giac Tau đã bị người Việt nam, NGuyễn Huệ, Lê Lợi đánh đuổi ra khỏi bờ cõi Việt nam từ nhiều trăm năm trứoc, từ 1789, từ 1427.

        Diễn lại tấn tưồng Lê CHiêu Thống & Tôn Sĩ Nghị tiến vào Thăng long lấy ngôi vua cho Lê CHiêu Thống năm 1788, ngày 1-1-1955 Việt cộng Hồ chí Minh và cố vấn Trung quôc vỹ đại tiến vào Hà nội lấy ngôi chủ tịch cho Việt cộng Hồ chí Minh.

        Từ đấy, dựa vào Trung cộng chống lưng đỡ đầu, Việt cộng Hồ chí Minh & bọn trí thức cộng sản Lao động Tàu đẻ chân chính tim đỏ thẻ đỏ khủng bố nhân dân hà nội, khủng bố nhân dân miền bắc, ly khai Quốc Gia Việt nam, dựng nên tổ quốc xã hội chủ nghĩa VNDCCH tội ác, con đẻ của hiệp định Giơne vơ 1954 ô nhục

        *****

        LỊch sử Việt nam cho thấy kẻ VN nào nhờ cậy đến giặc Tau, cầu cứu giặc tàu chống lưng đỡ đầu giành quyền cai trị VN, là kẻ ấy đã tạo cơ hội i cho giăc tàu tiến vào VN mở ra một thời kỳ bắc thuộc mới, tất yếu dấn đến kết cuộc giặc Tàu đô hộ Viet nam ,

        Lich su VN, Tổ tiên Việt nam luôn luôn răn dạy & nghiêm cấm con cháu Việt nam rước giặc Tàu vào Việt nam, luôn luôn răn dạy & ghiêm cấm con cháu Việt nam dựa vào giặc Tàu mà tranh giành quyền lực cai tri Việt nam

        Đối với lịch sử Việt nam, đối với Tổ tiên Việt nam, kẻ nào rước giặc tàu vào VN, dựa vào giặc tàu cuop chính quyền, tranh giành quyền cai trị Việt nam, kẻ đó tội phạm phản quốc, can tội tiếp tay giặc tàu đô hộ Việt nam

        Đối với lịch sử Việt nam, đối với Tổ tiên Việt nam, hành động của Việt cộng Hồ chí Minh học tập và làm theo Lê Chiêu Thống, năm 1788 lê hiêu Thống lê gót sang tàu cầu cứu giăccj tàu nhà Thanh, năm 1950 Việt cộng Hồ chí Minh lê gót sang Tàu cầu cứu giặc tàu nhà Mao, dựa vào giặc tàu nhà Mao chống lưng đỡ đầu gây cuộc nội chiến Quốc/Cộng phục vụ ý đồ “tổ quôc xã hội chủ nghĩa” tội ác đó là Hồ chí Minh, bọn cộng sản Lao động Tàu đẻ đã phạm tội phản quốc, tiếp tay giặc Tàu đô hộ Việt nam, mở ra một thời kỳ bắc thuộc mới

    • Van Tuan says:

      Tran Vinh là cái thằng con khẹc nào mà nói ngu như con bò vậy? tài liệu nào mà chả xài được, ngay cả tài liệu VC cũng có thể xài được chứ đừng nói tài liệu thân Cộng

  10. Hoàng says:

    Thằng xâm lược nào cũng thực hiện chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh để lính chết ít, tốn ít tiền và dân chúng của nước đi xâm lược không phản đối.
    Nhưng VN lại có chiến lược “Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”, “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa… Nhưng nhân dân VN quyết không sợ. Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”.
    Như vậy, ngay từ đầu chiến lược chiến tranh giữ nước của VN đã phá tan chiến lược chiến tranh xâm lược của những tên thực dân, đế quốc xâm lăng VN.
    Vì vậy, bất cứ tên thực dân, đế quốc nào xâm lược VN đều chịu không nổi một cuộc chiến tranh kéo dài, nên cuối cùng chúng đều bị bại trận.

    • Lê Nam Việt says:

      Nó bại trận để rồi đám CS của tụi mà theo xin xỏ lạy lúc nó, ban cho cái nay cá khác, và khi Tổng Thống đến quốc sang VN dân chúng hai miền Nam-Bắc hò reo đón mừng như đấng cưu tinh, còn đám quan tham mặt lợn của tụi mày thì chẳng có người dân nào thèm ngó tới.
      Thật đẹp mặt cho “bên thắng cuộc”!

Leave a Reply to văn thân