WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Vai trò của trí thức miền Bắc sau 1975 [2]

Đọc: Phần 1 - Phần 2Phần 3

Ảnh minh hoạ (internet)

Ảnh minh hoạ (internet)

Lấy trí nhân mà thay cường bạo
Lấy đạo nghĩa mà thắng hung tàn
Nguyễn Trãi

Tôi không có chủ tâm nhìn lại quá khứ để tự hành hạ mình và gián tiếp hành hạ người khác. Tôi cũng không có chủ tâm tìm cách phê phán hay hạ nhục những người đã có thời ở phía bên kia mà tôi đã nêu tên tuổi, đã đưa ra những sự việc trong phần bài trước. Đó chỉ là những việc cần phải nói, cần phải viết cho nhu cầu sự thật.

Tôi cho rằng, ở một góc độ nào đó – một góc độ ẩn khuất mà có thể bản thân không hiểu được – ở một thời điểm nhất định trong một hoàn cảnh nhất định – họ đã tin tưởng và chọn lựa. Sự chọn lựa từ một hoàn cảnh theo ý nghĩa của J.P Sartre: Con người là con người từ một hoàn cảnh. ( L’homme-en-situation). Chính hoàn cảnh quyết định con người là thế này hay thế kia.

Nói theo nghĩa đời thường thì: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

Nhưng nói theo triết lý của trường phái Tự Do – nói như nhà tư tưởng F.A. Hayek – tác giả cuốn sách: The road to Serfdom(Đường về nô lệ) có thể đó là sự sai lầm chân thật của họ, dù đó là những sai lầm rất nặng nề.[1]

Người ta thường nói: Đường xuống hỏa ngục thì đầy những kẻ thiện chí!!

Sự đồng cảm ở đây với những người vừa kể trên của người viết bài này trở thành chân lý của đời sống.

Bằng chứng là nay nhiều người trong số họ cũng ngao ngán vỡ lẽ kiểu Nguyễn Văn Trung: dấn thân vào cách mạng là một thứ đầu tư phá sản.

Mà khi biết ra được thì đã trễ.

Nhiều người nay khi tóc đã bạc – nhìn lại cuộc đời tranh đấu cho một lý tưởng – coi như họ đã hoang phí cả cuộc đời tuổi trẻ vào một thứ ảo tưởng như trường hợp Hồ Ngọc Nhuận, Lê Hiếu Đằng, Ngô Công Đức, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Cao Lập.

Như thế, phải nhìn nhận có một thứ sai lầm chân thật.

Nhà thơ Vân Hải trong truyện ngắn Người cùng làng mở đầu bằng hai câu thơ như một hối tiếc cho cả một thời:

Khi biết mình ngu dại

Tóc trên đầu bạc phơ.[2]

Và tâm trạng hối tiếc ấy cũng được cả những người trí thức miền Bắc mà tên tuổi không thiếu như Dương Thu Hương, Vũ Thư Hiên, Bùi Tín và hằng trăm người khác không tiện liệt kê hết.

Nhìn lại cảnh tượng đất nước hiện nay trong vòng mấy chục năm qua – kẻ còn chút lòng – không khỏi động não thì hóa ra không phải con người.

Năm 1975, người cộng sản miền Bắc thừa hưởng một nửa phần nửa đất nước miền Nam – dù có chiến tranh – hầu như nguyên vẹn. Nó cho thấy một tiềm năng của một xã hội có triển vọng tân tiến, một xã hội dân sự có khung hình pháp lý dân chủ, tự do.

Họ chỉ cần bỏ ra chút xíu cái phần còn lại là tạo dựng được một thể chế chính trị cởi mở – xây dựng trên tự do, dân chủ.  Và sẽ có một nước Việt Nam ngang hàng với các nước lân bang như Đại Hàn, Singapore v.v… về mọi mặt.

Họ đã không làm được. Tự hỏi vai trò người trí thức miền Bắc đã làm được gì trong khoảng thời gian ấy?

1. Họ đã làm được cái việc là phá nát miền Nam

Ngồi nhìn lại cái ngày 30 tháng tư, cái ngày mà tựa đề một bài hát của người cộng sản hát nhai nhải trên đài phát thanh: Bão Nổi Lên Rồi. Quả thật đó là cơn bão đến cấp số 9 tàn phá miền Nam. Nó quét sạch trên đường đi của nó nhà cửa, tài sản vật chất, ngay cả của chìm của nổi, vốn liếng văn hóa, tinh thần tôn giáo và nhất là niềm tin và tương lai con người.

Tai họa của cơn bão ấy, chúng tôi đã chịu một mình.. Không một ai dơ tay ra đỡ chúng tôi hoặc lên tiếng.

Thế giới bên ngoài tạm thời bị cô lập không một ai biết điều gì đang xảy ra ở miền Nam trong những năm tháng ấy.

Có lẽ chưa ai nghĩ đến điều này – và đây là lần đầu tiên được đặt ra – Những người trí thức miền Bắc, họ ở đâu, họ nghĩ gì và thái độ họ ra sao?

Nói chung có thể họ vui mừng và chấp nhận chiến thắng ấy như một điều vinh dự – trong đó những năm tháng khốn khổ nay có thể được đền bù. Những biện pháp xảy ra sau đó như đánh tư sản mại bản, chiến dịch triệt tiêu văn hóa đồi trụy và nhất là chính sách phân biệt ngụy quân, ngụy quyền và chính sách tập trung cải tạo là một điều tất yếu phải xảy ra thôi.

Người miền Nam nay được coi là ngụy quân ngụy quyền – họ mất cái căn cước là người quốc gia vì chủ nghĩa lý lịch. Nếu có gọi họ là người vô tổ quốc cũng không hẳn là sai.

Cái tâm trạng chung là buồn và bất lực. Và cảm giác mất quê hương.

Dù sau này ông Võ Văn Kiệt có nghĩ rằng sau ngày giải phóng, có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn – Câu nói đó cũng không vì thế mà thay đổi được tình thế.  Câu nói đó trên thực tế cũng hoàn toàn sai. Trừ một thiểu số người đã chót theo cộng sản, số còn lại đều buồn.

Tại sao lại buồn, đó là điều mà những người trí thức miền Bắc cần tìm hiểu.

Sau năm 1975, nhiều bất hạnh đã xảy đến cho miền Nam nói sao cho hết.

Chính vì không chịu đựng nổi liên tục ngày này qua tháng nọ – mỗi ngày mỗi hà khắc – mỗi ngày thấy sự bất công phi lý – mỗi ngày thấy tương lai vô định mà họ mang nỗi nhục ấy phải liều mình ra đi.

Hành lý mang theo không phải tiền bạc mà là cái đầu – một ý chí quyết vươn lên làm lại cuộc đời – và một trái tím rướm máu.

2. Sự đối kháng của người dân miền Nam

Trước sự bóc lột tận xương tủy, sự chà đạp lên phẩm giá con người một cách thô bạo nhất, thái độ dân miền Nam là gì? Suy từ thân phận của tôi ra, tôi nghĩ rằng mình như con cá nằm trong chậu, không lối thoát.

Sự đối kháng của người dân miền Nam là hoàn toàn tiêu cực: sự bất lực, sự chán nản, sự ê chề, sự nhục nhã, sự chịu đựng và cuối cùng là trốn chạy, là chọn sự ra đi thay vì ở lại đối đầu.

Trí thức miền Bắc thì chọn lựa thái độ chính trị con Đà Điểu. (La politique d’Autruche), quay mặt làm ngơ để cho chính quyền muốn làm gì thì làm

Việc ra đi là một bước đường cùng, tìm trong cái chết một lẽ sống. Ra đi hay là chết  là quyết tâm không thể sống chung. Đó là sự đối kháng quyết liệt nhất, sự phủ nhận toàn diện sự hiện hữu của chế đố ấy, sự không khoan nhượng.

Cho đến bây giờ, tôi tin chắc một cách xác tín rằng – ngay những thành phần trí thức tiến bộ nhất của miền Bắc cũng như giới lãnh đạo miền Bắc chưa hiểu đầy đủ hết ý nghĩa của việc ra đi này. Phải là người trong cuộc – phải là nạn nhân của chế độ ấy mới hiểu hết được. Ngay cả những người ra đi trước 1975 và những người ra đi ở thời điểm 1979 cũng đã có khoảng cách về nhận thức và kinh nghiệm sống  rồi.

Xem lại những đoạn phim về hình ảnh người vượt biển với bao gian nan mới thấy hết được sự tàn bạo của kẻ tự nhận là chiến thắng.

Xin ghi lại hình ảnh một trong những cảnh đau thương đó. Vụ chìm tầu ở Cát Lái. Bến Phà Cát Lái, gần Thủ Đức đã xảy ra vụ chìm tầu rất là thương tâm.. gồm gần 300 người chết đuối không thoát ra được. Đây chỉ là một vụ trong 9 vụ chìm tầu khác được chính quyền cộng sản thu tiền và cho phép ra đi công khai được gọi là: Đi bán chính thức. Việc ra đi như thế nhằm chủ yếu vào người Tàu gốc Việt. Nhưng sau này thì các cuộc ra đi bán chính thức phần lớn là người Việt Nam, mang giấy tờ giả là người Việt gốc Hoa.

Sau vụ chìm tầu, phải mấy ngày sau mới trục được tầu lên và các xác chết đã phình thối. Được biết có nhiều xác chết mẹ con còn ôm dính lấy nhau không gỡ ra được. Người ta đành để như thế chôn cả hai mẹ con trong một quan tài..Tôi cũng có người bạn đồng nghiệp bị chết ở Vũng Tầu, khi xác chết trôi vào bờ thì cả người bị cá rỉa không còn nhìn ra hình dạng người nữa.

Được tin này, chúng tôi cũng là người sắp trốn đi theo diện Phương Án II thấy rụng rời. Tin đồn tầu chìm này lan rộng ra khắp Sài Gòn làm nao núng không ít những người cũng sắp ra đi. Và chỉ hơn một tháng sau đó, tôi cũng ra đi như thế. Thật biết là cái chết gần kề mà như thể có động lực gì bí ẩn vẫn thúc đẩy ra đi, coi cái chết sao nhẹ thế!!

Đây là những vụ buôn người không hơn không kém cũng như sau này buôn gái sang Đài Loan, Đại Hàn.

Không có việc gì mà người cộng sản không làm.

Tất cả những chính sách bất nhân, vô nhân đạo ấy đều được kẻ chiến thắng – ngay cả đối với thành phần trí thức tiến bộ nhất của chính quyền cộng sản – coi như những biện pháp chính đáng phải thi hành. (Mesures légitimes).

Thật ra nó chỉ là Cái chính đáng của kẻ chiến thắng [3]. Họ nói không biết ngượng.

Người trí thức cộng sản đề cập đến vấn đề nhận thức luận kiểu này họ gọi đó là thái độ  là duy ý chí. Biết như thế mà họ vẫn nhắm mắt tin tưởng, nhắm mắt rêu rao một cách phi lý. Về điểm này, lại một lần nữa, F.A. Hayek coi đó là một thái độ khinh miệt trí thức con người. của một lớp người “chuyên nghề buôn bán qua lại các ý tưởng”.[4]

Trong khoảng thời gian ít nhất 15 măm, toàn dân miền Nam chịu đựng những trù dập, những biện pháp được coi như trả thù của kẻ chiến thắng mà người ta bắt buộc phải làm như vậy và không thể làm khác được.

Trong suốt những năm ấy, người ta không nhận được bất cứ tín hiệu phản kháng chính thức nào của nạn nhân cũng như của thành phần trí thức tiến bộ!!

Đó là một thời gian dài một bên chịu đựng, một bên áp đặt mà không một ai nhận thức ra được sự bất công tàn bạo trong mối tương quan giữa kẻ chiến thắng và kẻ chiến bại.

Sau 38 năm nhìn lại, người ta dần dần mới nhận thức rõ được đó là sự say mê điên cuồng chiến thắng, tiếp theo là sự bất lực và yếu kém trong quản lý và nhất là sự vô trách nhiệm vô giới hạn (Irresponsabilité illimitée) từ trên cao đến xuống thấp đã đưa đất nước đến bên bờ vực thẳm.

Vì thế, cho đến nay không biết ai là người trực tiếp trách nhiệm về những tội ác đổ trên đầu con dân miền Nam.

Từ 1975-1990, con dân miền Nam bị rơi vào tình trạng tâm sinh lý bất động co dúm lại mà không có một phản ửng nhỏ dù là tự vệ (Immobilisme convulsionnaire).  Mặc cho kẻ chiến thắng bạo hành.

Thế giới bên ngoài không biết đến. Trí thức, nhà văn phía bên kia im lặng đồng lõa!

Đã hẳn ở bình diện cá nhân, người ta cũng còn gặp gỡ được những người cộng sản có một tấm lòng như trường hợp các ông Võ Văn Kiệt, Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ (quan tâm tới một số trí thức miền Nam đi học tập) hay Tống Văn Công (Người đã lo lắng quan tâm đến hoàn cảnh của họa sĩ Chóe sau khi đi cải tạo về)[5]. Ông cũng là người sau này, xin ra khỏi Đảng)

Và muộn màng hơn nữa có các ông Bùi Tín kết án việc đi học cải tạo và Phạm Xuân Nguyên bênh vực việc cho tái xuất bản sách của Dương Nghiễm Mậu.

Tôi cũng chia sẻ một cách sâu xa con người của ông Bùi Tín khi “giải phóng” xong miền Nam, ông rất hả hê vì đã trả được những món nợ các cháu con bà chị đã hy sinh tại chiến trường Huế, Quảng Trị v.v…

Và ít ra ông là một trong những trí thức hiếm hoi lên tiếng công khai phê phán nhà nước trong các vụ cải tạo, vụ chèn lấn các tôn giáo v.v…[6]

Nói cho cùng, họ chỉ nói lấy được.

Nhắc lại một lần nữa. Họ không biết ngượng. Nói thẳng là có sự khinh miệt giữa kẻ thắng – người thua. Họ khinh miền Nam vì họ thắng. Miền Nam khinh miệt lại vì họ ngu dốt quá.

3. Giải trừ những huyền thoại về đế quốc Mỹ xâm lược và vai trò Giải Phóng miền Nam cũng như những ngữ từ có ý miệt thị.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam giữa đôi bên – ngoài võ khí giết người – ngoài việc  ám sát thủ tiêu các viên chức xã ấp – ngoài việc giật mìn phá hoại cầu cống đường xe lửa, đường bộ – còn một trận chiến các danh từ.

Danh từ đủ loại cỡ lớn, cỡ nhỏ đủ loại như chiến tranh xâm lược, bọn Thực dân mới, bọn lính đánh thuê, bán nước, chống Mỹ cứu nước, Giải phóng miền Nam, Mỹ-Ngụy, Mỹ-Diệm, Mỹ-Thiệu, bọn ngụy quân, ngụy quyền, thứ văn hóa phản động, đồi trụy v.v.. Tất cả được đơn giản hóa, tóm gọn đến cực kỳ như những khẩu lệnh.

Nó tiêu biểu trong một tuyển tập truyện ngắn của Bảo Ninh, Hà Nội lúc không giờ:

Năm 2000:

‘Chỉ một minh Tú, một tay mọt sách, nguyên sinh viên trường Tổng Hợp là không ngại rúc vào đó, ngụp lặn lục tìm trong bụi, tha về phòng một bao tải nặng chịch những cuốn tiểu thuyết chưa bị mối xông. Nhưng bởi tất cả đều rặt một nòi thối tha mục nát văn chương chống Cộng, chữ nghĩa tối tăm, mờ ám, nội dung láo toét, ít ai kiên nhẫn đọc nổi quá nửa trang, chất giấy lại không hợp để vấn thuốc và khổi thì quá nhỏ để gói bọc một thứ gì, thành thử đống sách của Tú chẳng mấy ai buồn ngó, dù rằng nó cứ vơi đi. Người ta thấy các mẩu vụn của những Chu Tử, những Xuân Vũ, những gì đó nữa quanh chỗ đựng điếu cầy và trong nhà bếp, trong nhà cầu’.

Cái nhìn về miền Nam một cách xàm tấu như vậy riết nhiều người coi như sự thật, thành chân lý, thành đúng quá không cần bàn cãi nữa.

Họ tuyên truyền là số một, không ai hơn họ.

Họ hô hào: Nhà nhà, người người – ba đảm đang – phải hy sinh tất cả để vào giải phóng đồng bào ta trong Nam đang bị cùm kẹp bởi Mỹ -Ngụy. Cái khẩu hiệu trên nó giống và tương tự như sự nhận xét của  F.A Hayek. Ông gọi là sự ngu dốt riêng đã tạo sự khôn ngoan chung[7].

Nay nó đã biến thành một thứ kiến thức vô thức tập thể – Người người nói – Nói mỗi ngày – nói mọi nơi – trong đám đông, trong học tập. Và không ai bảo ai, nó được kích động bằng những tràng pháo tay.

Và chẳng may có ai nói khác đi – Đích thị kẻ đó là phản động. Đó cũng là câu chuyện được kể trước đây trong sách Quốc Văn Giáo khoa thư lớp Đồng Âu kể rằng: Có một người đi đường bị một con chó cắn và sủa mãi. Ông tức điên lên và nghĩ ra được cái kế, ông hô to: Chó dại, chó dại. Dân làng tưởng thật đã đổ xô ra và cầm gậy gộc đập chết con chó.

Chúng ta nên tội nghiệp con chó hay nên tội nghiệp những người đã ngu dại nghe lời xúi bậy đập chết con chó?

Cho nên cũng chẳng lấy gì làm lạ khi thấy giới trí thức miền Bắc im lặng, đồng lõa trước những biện pháp của chính quyền cộng sản ở miền Nam sau 1975 và những biện pháp ấy được coi là chính đáng vì họ quá bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, bị bịt mắt.

Sự tuyên truyền ấy ngày này qua tháng nọ biến họ có những suy nghĩ có điều kiện như một thứ phản xạ máy móc cực đơn giản và cực độ về lẽ phải trái. Ta phải, địch sai. Ta yêu nước, địch bán nước. Nói theo triết lý trong Kim Dung thì có kẻ chính, kẻ tà.

Người cộng sản là bàng môn chính phái còn miền Nam là bàng môn tả đạo.

Điều ấy được cũng chứng tỏ trong một bài viết của Lý Chánh Trung, ông cho rằng: Ông là một trí thức miền Nam mà sau 18 tháng học chủ thuyết Mác Xít-Lênin, mặc dầu ông đã theo học nghiêm túc, viết lách cũng không tệ lắm, tư tưởng cũng không tồi lắm, nhưng mấy lần thi chỉ đạt điểm trung bình. Chỉ có lần chót, chắc nhờ sự can thiệp của một cán bộ nào đó, tôi mới được điểm trung bình khá. Trong khi các cô sinh viên – học trò ông – cười nói: Thầy viết như thế này thì làm sao đạt điểm cao được như tụi em được, vì thầy viết theo ý thầy, còn em viết “y chang” như sách, sách viết như thế nào thì trả bài “y chang” như vậy  [8].

18 tháng theo học triết lý Mác Xít-Lênin, Lý Chánh Trung vẫn chưa thuộc bài. Phải biết nói như con vẹt.

Vấn đề của chúng ta ngày hôm nay – nhất là trí thức miền Bắc – là chúng ta cần biết tẩy não, giải trừ tất cả những  điều do tuyên truyền bịa đặt, do nói dối trá, do che dấu quá lâu..Và sự thật sẽ giải phóng chúng ta. Nhiều người trí thức có thể không đồng ý với tôi, nhưng đó vẫn là sự thật!!

Chẳng lẽ quý vị cứ tiếp tục ăn bánh vẽ mãi sao!!

_______________

[1] F.A, Hayek, The road toSerfdom Đường về nô lệ, Phạm Nguyên Tường dịch, nxb Tri thức, trang 407

[2] Vân Hải, Chuyện người cùng làng, trang 15

[3] Về điểm này, sau 4 năm sống dưới chế độ ấy, tôi nhận ra lối lý luận của người cộng sản là lối lý luận thiếu tri thức luận. Tức là thiếu phê bình-. nói huỵch tẹt là lý sự cùn. Họ nói thế nào cũng được..Trong những buổi học tập chính trị kéo dài trên cả năm trời-. Họ, những cán bộ miền Bắc, ra rả chửi chế độ tư bản bóc lột, bần cùng hóa người lao động, biến họ thành tay saivv. Họ đưa trường hợp công nhân Đại Hàn chỉ hưởng có 400 đô la- một tháng. Như vậy là bóc lột công nhân. Họ thừa biết là công nhân viên nhà nước lúc bấy giờ lương bổng được 30 đô la một tháng đã là niềm mơ ước rồ.

[4]  F.A. Hayek, Đường về Nô Lệ, Pham Nguyên Tường, trang 406

[5] Chóe, Nguyễn Hải Chí, Tử tội, Tủ sách Tiếng Quê Huong xuất bản. Ai chưa có dịp đọc, xin mời đọc. Chóe  được ông Tống Văn Công giúp cho làm Báo Lao Động mới với nhiệm vụ trình bày tờ báo. Họa sĩ Chóe qua đời ngày 12-3-2003, sau 3 tháng sang Mỹ chữa bệnh.

[6] Xem Thành Tín, Mặt Thật, Hồi ký chính trị, các trang 215-218.

[7]  F.A. Hayek, Đường về nô lệ, Phạm Nguyên Tường dịch, nxb Tri Thức, trang 413

[8] Lý Chánh Trung, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 13-11-1988

Pages: 1 2

14 Phản hồi cho “Vai trò của trí thức miền Bắc sau 1975 [2]”

  1. Trẻ says:

    以 大 義 而 勝 兇殘,
    以 至 仁 而 易 彊 暴。
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Hai câu mở đầu bài viết nên dịch theo như thế rõ nghĩa hơn. “trí nhân” – “chí nhân”, “đạo nghĩa” – “đại nghĩa”.

  2. Nguyễn Thế Viên says:

    Các ý kiế về trí thức cuả Đại Ngàn, Vo Trang rất hay! Chân trí thức, những người có hiểu biết một cách hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội, tuy không nhiều nhưng không phải ai cũng đáng quý. Bên cạnh những trí thức đem kiến thức cuả mình phục vụ cho nhu cầu chính đáng cuả nhân loại, cũng không it trí thức sử dung hiểu biết cuả mình phục vụ cho những ý đồ xấu, trong đó có bọn cầm quyền độc tài! Có những trí thức can đảm sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng có những trí thức hèn cam chịu thân phận nô lệ để yên than, hoặc thậm chí, để vinh thân.
    Đôi khi, có người cố khoác áo trí thức để thoả mãn “danh dữ hão”. Điển hình là các chóp bu CSVN: ông/bà nào cũng phải có bằng này, cấp nọ. Với kiến thức “dổm”, họ làm sao hiểu được sự khác biệt giưã học vị và kiến thức!?
    Nguyễn Thế Viên

  3. Tudo.com says:

    Trich: “Có lẽ chưa ai nghĩ đến điều này – và đây là lần đầu tiên được đặt ra – Những người trí thức miền Bắc, họ ở đâu, họ nghĩ gì và thái độ họ ra ”

    Một số được gọi là ” trí thức ” thật ra chỉ là những bồi bút của Đảng, mừng, lên mặt ” chỉ đạo ” ta đây hiểu rộng hơn dân miền Nam.
    Số trí thức, ý thức thật sự thì sợ, như Nguyễn Tuân từng nói ông còn sống là nhờ ” biết sợ “.

    Thời phong kiến, trí thức ghét bạo chúa, có thể từ quan về ở ẩn, làm thơ, dạy học. Nhưng thời cách mạng vô sản không ưa Bác Hồ, Bác Mao, Bác Stalin thì rán cắn răng chịu đựng. Chứ bày đặt từ nầy từ nọ thì sẻ không ” từ trần ” một cách tưởi, thì cũng chết từ từ như Nguyễn Hữu Đang hay Nguyễn Mạnh Tường !
    Trí thức trong thế giới Tự do dùng lý luận hợp lý để thuyết phục dư luận qua ngòi bút, ” trí thức ” trong thế giới CS dùng dao găm mã tấu để lý luận.
    Dao găm Mã tấu mà chém tới tấp thì bút viết nào chịu cho nổi !

    • ĐỈNH NGÀN says:

      CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN VÀ CHỦ NGHĨA PHẢN NHÂN VĂN

      Sự sống là điều quý giá nhất của hành tinh. Đó là sản phẩm của Đai vũ trụ mà không bất kỳ ai tạo ra được. Ngay cả nhiều ngàn năm trước một bậc hiền triết của phương Đông là Khổng tử đã nói “đại đức viết sinh” tức cái đức lớn nhất là bảo tồn giá trị sự sống là điều trên hết.
      Cho nên đối với một mầm cây, một con vật nhỏ, nếu không có lý do gì chính đáng, cần thiết mà tiêu diệt nó đi đó là tính cách phản nhân văn, không phải chủ nghĩa nhân văn.
      Nhưng con người là giá trị cao nhất trong mọi sinh vật, con người không phải chỉ có sự sống thân xác mà còn ý nghĩa của sự sống ý thức, sự sống tinh thần, sự sống trí tuệ.
      Bởi thế nghĩa vụ làm kinh tế phát triển, xã hội phát triển, cá nhân phát triển, đó là chủ nghĩa nhân văn.
      Trái lại nếu chỉ làm cho xã hội khô cứng, kinh tế èo uột, con người bị lệ thuộc, bị khống chế mọi mặt, tinh thần cá nhân bị lũng đoạn nhiều phương diện, đó là thực tế phi nhân văn, phản nhân văn.
      Chế độ hay cơ chế xã hội độc tài, chỉ hướng con người, xã hội vào những điều giả tạo không có thật, buộc con người tin vào những điều không khách quan, không chân lý, phản sự thật, đó là phản nhân văn vì tướt đoạt linh hồn, ý thức trong sang, tự do của con người một cách ác độc, ngu xuẩn và thấp kém.
      Bởi thế mọi hoạt động tuyên truyền một chiều trong xã hội, cấy vào đầu óc con người những ý nghĩa không thực chất, làm ý thức nhận thức trở thành méo mó, phản năng lực, đó là phi nhân bản, là tội ác mà rất nhiều người không nhận ra được điều đó. Có nghĩa giá trị đúng đắn, cần thiết, cao quý của nhân loại là giá trị thông tin khoa học, khách quan. Ngược lại mọi sự tuyên truyền lệch lạc, thủ đoạn, vụ lợi, một chiều, bịp bợm, giả trá thực chất đều là ác độc đối với cá nhân và đối với toàn xã hội. Đó chỉ vì cái lợi riêng nhỏ hẹp mà làm hại chung cho cái đại nghĩa nhân văn của cuộc sống và thế giới.
      Đấy nói chung sự khác nhau hay sự trái ngược chiều giữa trí thức và phi trí thức, phản trí thức, giữa nhân văn và phi nhân văn, phản nhân văn chỉ là như thế.

      ĐẠI NGÀN
      (15/3/14)

  4. Vo Trang says:

    Học Thức, Trí Thức và Trí Tuệ?
    Từ trước cho đến gần đây thôi tôi vẫn nghĩ có 1 khoãng cách giữa học thức và trí thức. Bởi vì có những người có học mà vẫn u mê, trí thức vẫn mơ màng, phán đoán lệch lạc, khi trái khi phải , lão đão như người say rượu… Có lẻ trong 1 dịp khác, nếu được, tôi sẽ noí về khoãng cách giữa Trí Thức và Trí Tuệ

    Trước hết nói về học thức như là những nhận thức, kiến thức, hiểu biết qua thành quả của việc học hành thì thường chúng ta lại rơi ngay vào những đặt để của những giá trị học đường, bằng cấp (academic). Trường học và trường đời đều là những môi trường đào tạo và tô luyện con người. Nhất là ngày nay, khi xã hội đã chuyên biệt hóa những phương hướng đào tạo để sản xuất những chuyên gia thì giá trị của 1 văn bằng Tiến Sĩ Kỹ Sư không là nền tảng cho 1 nhận định những lãnh vực không nằm trong chuyên ngành của họ, chẳng hạn như về văn học, xã hội. Những nhận thức như thế là những giá trị của chính cá nhân họ trong những lãnh vực liên hệ dù môi trường giáo dục nói chung đã đóng góp không ít cho những vốn liếng như thế.

    Rồi từ kết quả của “học thức”, con người có vận dụng được những gì mình đã học để thăng hoa cuộc đời chính mình và đóng góp cho xã hội (trí thức) hay không thì lại là 1 chuyện khác. Không phải 1 văn bằng Tiến Sĩ Xã Hội Học là tư cách để bình phẩm về những giá trị của xã hội. Một thực tế chúng ta có thể thấy đó là những nhà lãnh đạo Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Việt-Nam không có bằng cấp học thức chính quy mà vẫn điều khiển, xữ dụng được những “đại trí thức” bằng cấp đang bậc thầy của họ. Ở đây tôi không thảo luận về những con người của “cơ hội chủ nghĩa”. Những người này chỉ xữ dụng học thức, trí thức như là 1 công cụ để phục vụ cho những cơ hội lòn lách của mình. Đây là 1 vấn đề của nhân cách – không phải là 1 câu hỏi cho trình độ học thức hay trí thức.

    Trở lại vấn đề chính, không ít trong lịch sữ của xã hội , chúng ta đã thấy được có những con người có học thức , trí thức rất cao nhưng lại là những nhân vật nguy hiễm, bại hoại, thậm chí là 1 tai họa cho cả nhân loại, chẳng hạn như Karl Marx trước đây và ngày nay là những đệ tử của ông: giới trí thức Xã Hội Chủ Nghĩa!

    Ông Trần Trung Đạo phàn nàn giới trí thức Việt Nam ngày nay ở nhan nhản đầy đường ( ra khỏi cửa là đụng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ) thế mà đất nước vẫn độc tài, lụn bại… Tôi đồng ý với những phân tích và nhận định của ông. Nhưng đối với cái gọi là giới trí thức XHCN thì ông Trần Trung Đạo ( vẫn) đã nhìn từ quan điễm của 1 hệ thống tư tưởng dân chủ tự do nên sẽ không có câu trả lời: giới trí thức XHCN là những thành phần có học thức, trí thức tin tưởng vào hệ thống tư tưởng của chủ nghĩa Xã Hội và Chủ nghĩa Cộng Sản. Hệ thống tư tưởng đó là cái gì? – là NIỀM TIN vào sự tiến hóa của loài người trên cơ bản của những cuộc đấu tranh giai cấp mà phương pháp đấu tranh là phải dùng bạo lực. Vì xã hội loài người chỉ là 1 sự tồn tại của 2 giai cấp thống trị và bị trị, 1 xã hội chỉ ổn định khi giai cấp thống trị là giai cấp đại diện cho sư tiến hóa đó. Cho nên lý luận về sự cần thiết của 1 thể chế độc tài là lý luận “logic” của người trí thức Cộng Sản! Trong đấu tranh cách mạng, họ xữ dụng bạo lực, thậm chí dã man. Khi đã thành công, cướp được chính quyền họ kêu gọi hòa bình như là 1 gía trị của xã hội để phục vụ cho cái chế độ của họ mà không thấy thẹn vì điều này vẫn nằm trong cái lý luận “logic” ấy!

    Gần đây, có tác gỉa lên mạng nêu vấn đề cần phải cải tổ hệ thống giáo dục tại Việt-Nam để cứu nguy cho 1 sự sụp đổ… không tranh luận về “gốc gác” của tác giả, tôi vẫn thấy hình như cả những người bất đồng ý kiến với ông ta cũng không biết mình đang đứng ở đâu? – và đang nói gì? Giáo dục trong những chế độ Cộng Sản là công cụ của chế độ để sãn xuất những cán bộ phục vụ cho chế độ đó – tại Việt-Nam là thành quả của 40 năm cách mạng của đảng CSVN. Hơn xa những chế độ độc tài mang nhiều tính tự phát và lãnh tụ cá nhân như ở Lybia, Syria, Tunisia, các chế độ độc tài cộng sản đã có 1 hệ thống tư tưởng để cũng cố và làm nền tảng cho những chính sách cai trị của họ. Không chỉ trong lãnh vực giáo dục mà trong tất cả các lãnh vực sinh hoạt khác như Xã Hội, Tôn Giáo, Văn Hoá… tất cả đều phải được giám sát và chỉ đạo để phục vụ chế độ bởi vì chế độ Cộng Sản là một chế độ toàn trị!

    Không lộ liễu như trong cương lĩnh của Giáo Hội Phật Giáo (Quốc Doanh) Việt-Nam : Dân Tộc – Đạo Pháp – Chủ Nghĩa Xã Hội… tôi có người bạn gởi cho tôi 1 cái link trên YouTube về một bài thuyết giảng tính Vô Ngã trong giáo lý của đạo Phật. Khởi đầu tôi đã có cái cảm nhận về 1 sự sắp đặt khi vị sư dẫn chứng những con số thống kê 1 cách rất chuyên nghiệp về sự cống hiến các cơ quan tại Sài Gòn. Từ 1 nhận thức về tính Vô Ngã của vạn vật, vị sư hàm ý vậy thì tiếc gì mà không cống hiến những cơ quan của cơ thể nhất là khi 1 người đã qua đời… Có vấn đề gì khi giảng giải tính Vô Ngã của vạn vật? – Không! – không có gì sai trái cả. Hiểu được tính Vô Ngã của các pháp để phá vỡ những cái “chấp” đã làm con người đau khổ và trầm luân mãi là tinh thần của giáo lý Phật Giáo. Nhưng từ đó để kêu gọi đóng góp cơ quan cho nhà nước là 1 định hướng có dụng ý – nhất là những đóng góp như thế không nhằm cải tổ 1 hệthống y tế đại chúng vốn đã thối nát mà chỉ phục vụ được 1 thị trường mua bán cơ quan như hệ thống y tế của Cộng Sản Việt-Nam ngày nay…

    Từ cái nhìn như thế, chỉ khi nào cái chế độ này sụp đổ thì 1 sự cải tổ giáo dục mới mang ý nghĩa khai phóng thật sự mà thôi. Nếu không, càng cải tổ thì chỉ càng cũng cố thêm cho sự tồn tại của cái chế độ này. Chỉ khi nào chế độ này sụp đổ thì tinh thần tự do tôn giáo mới hoàn toàn được phát huy, văn hóa ngàn năm của dân tộc mới được phục hồi và bảo toàn… Đó là lý do tại sao 1 nhận định, 1 lập trường là cẩn thiết vì nó định hướng cho tất cả thái độ và hành động của 1 người.

    Trong khi giới trí thức xã hội chủ nghĩa hiểu rõ được họ đang nghĩ gì, đang làm gì thì giới trí thức “Quốc Gia” vẫn đang tiếp tục lang thang trong khung trời của một “kiến thức mở”…? Ah! tôi vừa tình cờ tìm được 1 danh từ mới và chính xác làm sao? – vì có lẻ không còn 1 danh từ nào hay hơn để chỉ 1 tình trạng vô định trong nhận thức của người trí thức Việt-Nam ngày nay!

    • ĐẠI NGÀN says:

      XÁC ĐỊNH LẠI Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA TRÍ THỨC

      Trí thức là con người như mọi người. Nhưng trí thức là người có học hơn mọi người trong chính hoàn cảnh của mình. Nhưng có học không chưa đủ. Trí thức cần nhất là có nhận thức, có ý thức, và có mục đích tốt. Có nghĩa nếu nhận thức, ý thức, mục đích không tốt, đó không phải là trí thức mà là phi trí thức hay phản trí thức. Có nghĩa trí thức đúng nghĩa mọi thời đều giống nhau trong một đất nước hay trong toàn nhân loại.
      Nên trí thức là con người nên nó phải khuôn theo cơ chế, đặc tính của xã hội.
      Trong một xã hội tự do, khai phóng, người trí thức phát huy hết được các tiềm năng, năng lực của mình để giúp ích cho mọi người, cho xã hội nói chung.
      Trong những thể chế độc đoán, trí thức trở thành công cụ để phục vụ cho cá nhân độc tài, cho nhóm quyền lợi hay cho đảng cẩm quyền. Trí thức dần dần bị vô hiệu hóa, bị xu mị hóa, bị phi tri thức hóa và bị phản trí thức hóa. Một kẻ độc tài hay nhóm độc tài đôi khi không có tài cán gì mà vẫn điều khiển được cả ngàn trí thức, bởi vì đó không còn là trí thức thật mà trở thành công cụ sai bảo không hơn không kém.
      Như vậy trí thức chỉ có ý nghĩa, giá trị hay danh nghĩa trong các xã hội tự do đúng nghĩa, xã hội nhân văn đúng nghĩa thế thôi.
      Học thuyết Mác xuất phát từ khởi điểm nhân văn, đó là điểm sáng ban đầu của Mác cũng giống như bao đầu óc khác đồng thời với Mác. Nhưng kết cục Mác chủ trương độc tài, chuyên chính vô sản, đó là cái thậm ngu, thậm phản cách mạng, thậm phản xã hội, thậm phản nhân văn của Mác. Bởi vì như trên đã nói, trí thức đúng nghĩa là tinh hoa của xã hội. Độc tài vô sản chỉ thực chất làm tiêu diệt trí thức đúng nghĩa, làm xã hội trở thành bầy cừu khổng lồ, thế làm gì còn nhân văn, còn phát triển nữa. Đó là bài học nhãn tiền trong suốt thế kỷ qua trên toàn thế giới nhân loại về chủ nghĩa Mác. Nên tính quái đản của chủ thuyết Mác chính là vừa cái ngu vừa cái ác của Mác đối với con người nói chung và xã hội loài người nói chung. Vết nhơ của Mác muôn đời đối với nhân loại có lẽ sẽ không bao giờ gột rửa được.

      THƯỢNG NGÀN
      (15/3/14)

  5. Trầm Luân says:

    Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn.
    Lấy chí nhân mà thay cường bạo.
    (Trích Bình Ngô Đại Cáo năm 1427– Nguyễn Trãi)

    Không phải “đạo nghĩa” và “trí nhân” như tác giả ghi. Bản gốc vẫn còn lưu tại Thư Viện Quốc Gia.

    • NGÀN KHƠI says:

      ĐEM ĐẠI NGHĨA ĐỂ THẮNG HUNG TÀN
      LẤY CHÍ NHÂN MÀ THAY CƯỜNG BẠO

      Lời đanh thép này của danh nhân Nguyễn Trãi trong tuyên cáo bình Ngô cách đây nhiều trăm năm không phải chỉ phản ảnh tâm hồn Nguyễn Trãi, tâm hồn Lê Lợi mà cũng phản ảnh cả tâm hồn của toàn thể dân tộc Việt Nam ta từ muôn đời trước cho đến lúc đó.
      Tiếc rằng tâm hồn ấy do thời thế sau này, do thời cuộc nhất định, do những hoàn cảnh hay cơ chế xã hội cụ thể mà làm cho bị mai một đi, bị chệch hướng đi, bị suy thoái đi, bị huyễn hoặc đi, bị xa rời với bản chất thật của nó đi, quả thật hoàn toan vô cùng đáng tiếc. Cho nên ý nghĩa thật của những người trí thức đúng đắn ngày nay và mai sau là làm sao khơi gợi dậy, làm sao bảo tồn và phát huy thật vẽ vang tâm huyết và mục tiêu dân tộc mà vị anh hùng ngàn đời Nguyễn Trãi đã hào hùng tuyên bố.

      NON NGÀN
      (15/3/14)

  6. THƯỢNG NGÀN says:

    TRÍ THỨC VÀ GIAI CẤP

    Trí thức là người có học, có hiểu biết, có suy nghĩ theo nhận thức khoa học. Như vậy cũng có nghĩa trí thức vượt lên trên, hay vượt ra ngoài các giai cấp. Bởi giai cấp là gì, là các tầng lớp người đang hoạt động theo các yêu cầu kinh tế nào đó nhất định trong xã hội. Cơ sở của giai cấp, như vậy là cơ sở kinh tế mà không là gì khác. Có nghĩa, khi người ta không còn hoạt động đúng nghĩa là các thành phần kinh tế nào đó nữa, lúc đó người ta cũng đã thoát ly ra khỏi giai cấp mà đã trở thành một thứ giai tầng xã hội. Trí thức, do vậy là một giai tầng xã hội, và những người hoạt động văn hóa, xã hội nói chung, kể cả giới quản lý xã hội, cũng không thuộc giai cấp nữa, mà thuộc vào một giai tầng xã hội nào đó.
    Ngày xưa xã hội ta hay nói “sĩ, nông, công, thương”. Có nghĩa có ba giai cấp chính, tức giai cấp kinh tế là nông, công, thương. Sĩ thật sự là giai tầng xã hội, không phải giai cấp kinh tế theo nghĩa thực tế của nó. Như thế cũng có nghĩa trong xã hội phong kiến, vua quan, tăng lữ cũng là thứ giai tầng xã hội, không phải giai cấp kinh tế, vì họ không trực tiếp làm kinh tế, không trực tiếp sản xuất kinh tế. Điều này cũng có nghĩa giữa các giai tầng và giai cấp kinh tế có thể có sự qua lại lẫn nhau, đó chính là ý nghĩa “quan nhất thời dân vạn đợi” là như vậy.
    Nhưng khi Mác vận dụng quan niệm biện chứng luận của Hegel để đưa vào ý nghĩa giai cấp theo quan điểm của mình, đó là việc làm mang tính cách siêu hình hóa giai cấp, bởi vậy quan điểm “đấu tranh giai cấp” theo Mác, thực sự nó đã trở thành một quan niệm thần bí, không còn ý nghĩa xã hội, ý nghĩa kinh tế, hay ý nghĩa thực tiển nữa. Từ nó nó cũng dẫn đến quan niệm cách mạng xã hội, xây dựng xã hội mới trong tương lai của Mác hoàn toàn thành phá sản, và thực tế điều này đã được lịch sử cận và hiện đại của loài người chứng tỏ. Nhưng vì bản chất giáo điều, chủ quan, độc đoán, Mác đã nâng quan niệm của mình lên thành một quan niệm chuyên chính, dó đó nó càng ngày càng đi xa xã hội nhân văn, xã hội dân sự mà thật tình lúc đầu Mác cũng có nhắm tới. Chính quan niệm chuyên chính vô sản hay độc tài vô sản đã tự nướng mất mọi tính nhân văn trong học thuyết Mác mà ai cũng đã biết.
    Trí thức miền Bắc cũ do hệ thống chuyên chính đã có, chỉ biết khung theo một chiều như một thân phận tất yếu thì chẳng có gì phải nói. Bởi họ không có quyền nghiên cứu hay không có quyền nói khác các tài liệu đã có từ Liên Xô thì cũng chẳng có gì đáng trách.
    Nhưng các trí thức miền Nam, nhất là các dạng trí thức khuynh tả mà loạt bài ông Nguyễn Văn Lục đã phơi ra, thì quả thật rất trớ trêu và trách nhiệm cũng như lỗi lầm của họ rất lớn. Đáng lẽ ra trong điều kiện được hoàn toàn tự do nghiên cứu, các trí thức ngành khoa học xã hội nhân văn miền Nam cũ phải phát huy đúng vai trò của họ, phải nghiên cứu và phê phán chính xác học thuyết Mác để làm đầu tàu trí thức khoa học cho cả nước. Đằng này họ lại hoàn toàn làm ngược lại. Tức cũng chỉ nói theo một chiều cách đơn giản, nhẹ dạ theo kiểu khuynh tả trong cách thức làm dáng hay dạng phong trào. Và điều này sau năm 75 thì họ mới thật sự hoàn toàn choáng váng mà mỗi trường hợp rất may ông Lục đã thuật lại rất rõ ràng và cụ thể. Trong khi đó, giới trí thức trương Luật của miền Nam thì hoàn toàn khác, họ đã tỏ ra điềm tĩnh và chững chạc hơn nhiều. Có lẽ họ am hiểu nhiều về luật pháp, về kinh tế, về chính trị xã hội mà giới thuần túy văn khoa của miền Nam hầu như hoàn toàn mù tịt. Còn giới trí thức khoa học tự nhiên thì không cần nói, vì chuyên môn của họ là hoàn toàn lãnh vực cơ bản hay tự nhiên, khuynh hướng chính trị của họ là khuynh hướng cụ thể cá nhân, không cần đi vào các quan niệm sâu sắc hay nhiêu khê như các ngành khoa học có liên quan đến nhân văn hoặc xã hội.
    Nên nói tóm lại, sự phi trách nhiệm của giới khoa học nhân văn và xã hội miền Nam cũ là điều hết sức rất đáng trách. Có nghĩa họ đã không làm hết vai trò, không đảm nhiệm đúng vai trò trí thức quan trọng của họ đối với xã hội và cả nước, tức làm đầu tàu dư luận, hướng dẫn dư luận xã hội đúng đắn, theo chiều hướng khoa học thật sự, mà thực chất họ đã tự hạ thấp theo kiểu xu thế thời sự. Cũng có thể họ e sợ tính bạo lực như thế nào đó chăng, đây cũng là giả thiết, ngoài ra còn một giả thiết khác, là một kiểu đón gió theo cách thời trang, như Lữ Phương hay Nguyễn Trọng Văn, và một số người khác thực hiện, nhưng rất tiếc là hướng gió đã xảy ra hoàn toàn không theo họ trông đợi hay không như họ mong muốn.

    ĐẠI NGÀN
    (13/3/14)

    • Nguyễn Thế Viên says:

      ” Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời !”. Vấn đề đấu tranh giai cấp không có trong XH VN. Nó chỉ được HCM và bè lũ CS bất nhân nhâp cảng từ quan thầy Nga, Tàu. Mâu thuẫn giưã nghèo – giàu, sang – hèn , trí thức – bình dân… thì đâu cũng có nhưng bọn CS vô luân đã “nâng quan điểm” thành gia cấp đấu trang tạo nên bao nhiêu tang tóc. Giá trị đạo đức bị bị đảo lộn, Hận thù từ thành thị đến làng thôn. Vết thương cuả đấu tranh giai cấp vẫn còn di luỵ nhiều!
      Tội ác cuả HCM và bè lũ CS kể sao cho hết!
      Nguyễn Thế Viên

  7. Nguyễn Thế Viên says:

    Thưà hưởng một cách xuất sắc và sáng tạo kinh nghiệm từ CS Nga, Tàu, CSVN đã thành công trong việc tảy não nhiều người ,trí thức lẫn bình dân. Tuyên truyền dai dẳng và bạo lực triệt để là vũ khí cuả họ. Nơi nào mà họ hoàn toàn thống trị thì kết quả tẩy não càng thành công. Nhiều trí thức sau này cũng nhận ra được cái sai cuả mình, nhưng do hèn và do vẫn còn được hưởng lợi nên đã ngậm miệng. Hiếm người dám nói lên sự thật xấu xa cuả chế độ CS khi họ còn điạ vị, quyền lợi.
    Ông Võ Văn Kiệt không phải là người “CS có tấm lòng”. Những việc làm chiêu dụ trí thức chỉ là nhu cầu cứu nguy sự xụp đổ cuả đảng CS trước nguy cơ phá sản toàn bộ cuả đất nước. Hẳn ông phải được Bộ Chính Trị chỉ thị làm việc này.
    Khi đã bị thẩy não thì người ta chỉ có “lý sự cùn”!
    Nguyễn Thế Viên

  8. nguenha says:

    Một vị Tướng Âu châu thời Cổ đại đả nói ” Giáo dục binh sĩ là nuôi bọn phản động”. Đúng thế,một khi
    “đem chữ nghĩa’ đến với con người, thì không khác nào trao -”chìa-khóa” mở cánh cửa trí tuệ. Có suy tư
    tất nhiên biết TRÁI-PHẢI. Biết thế nên CS dạy cho con người toàn chuyện Dối trá.Đưa suy tư con người theo chiều mình muốn! Mao đả nói : “Cứ nói (tuyên truyền),nói lâu Dối trá trở thành Thật.”.Ở Miền Bắc,một số trí thức chịu ảnh hưởng giáo dục phương tây hoặc nho giáo,họ biết được “phải-trái”.Còn đa số lớn lên từ CS,họa -hoằn lắm mới biết “Sự that”.Tổ tiên họ còn chưa biết,huống chi chuyện thế sự.
    Ai dạy cho mà biết !
    Nghệ thuật biến con người đi “hai chân” trở thành đi “bốn chân”,Mao trạc Đông là Bậc Thầy ! Ấy vậy ,Mao còn bảo :”Trì thức thua cục Cứ…t”. Đúng là lấy cứ..t bôi vào mặt người khác,rồi bảo “mặt chúng mày dơ”. Đây cũng là đòn hiểm của CS../

    • NGÀN TRĂNG says:

      ÔI THÔI

      Ôi thôi quả thật điếm đàng
      Bảo người trí thức không bằng cục phân
      Nghe theo chỉ bọn ngu đần
      Còn người hay thảy chết trân rũ cười
      Đúng là ngu trí họ Mao
      Một câu nói mãi để đời ngàn năm !

      NẮNG NGÀN
      (14/3/14)

  9. Choi Song Djong says:

    ” Họ chỉ cần bỏ ra chút xíu cái phần còn lại là tạo dựng được một thể chế chính trị cởi mở – xây dựng trên tự do, dân chủ. Và sẽ có một nước Việt Nam ngang hàng với các nước lân bang như Đại Hàn, Singapore v.v… về mọi mặt.”. Hết trích.

    Cướp được của nhưng đi ném chúng vào sòng bạc thì cũng bằng không.Ngày ấy chúng còn đang say máu thù hận,mất hết lý trí chúng hành động như những người điên. Một đội quân man rợ được cầm đầu bởi một lũ kiêu binh hèn hạ thì cái quân đội ấy chỉ biết tàn sát,phá nát tất cả vì tất cả đối với chúng chỉ là kẻ thù.Ngày nay thừa hưởng di sản đó là một bè đảng tham lam,ác độc. Những thành phần đê tiện nhất nhảy ra nắm quyền lực,tranh nhau nuốt nhục để chỉ đổi lại tiền tài của cải cùng những vinh dự hão,chúng không ngần ngại bán danh dự,bán cơ đồ tiền nhân chỉ để đổi lấy chút hào quang giả tạo.

Phản hồi