Trần Trung Đạo, tiếng vọng từ bên kia đại dương
Nếu không có biến cố 30-4-1975, và không có những con thuyền lá tre kia, cố lao đi để tìm sự sống thật mong manh trong cái mênh mông của biển cả, giông tố của đất trời, thì chúng ta sẽ không có một nhà thơ đa tài Trần Trung Đạo hôm nay. Những cơn mưa nguồn, gió bể ấy là những nhát búa gõ vào hồn thơ anh, rồi như tiếng chuông ngân lên từ cõi lòng, vọng về bên kia bờ đại dương.
Tôi là người thích thơ, rất ham đọc thơ ngay từ thuở thiếu thời. Nhưng có lẽ làm rung động và ảnh hưởng đến tâm hồn tôi đậm nét nhất là thơ của Trần Mạnh Hảo, chứ không phải là những bài thơ được học trong sách vở, và những bài giảng của thầy cô giáo. Sau này ra nước ngoài, người đã làm ấm tâm hồn tôi nơi giá lạnh trời Âu này, lại là những vần thơ đượm nỗi buồn hoài cổ Trần Trung Đạo. Nếu nói thơ Trần Mạnh Hảo phảng phất, hay được toát ra từ những bài (triết) thánh ca, cao sang, hào sảng, giầu hình tượng thì thơ Trần Trung Đạo là những bản nhạc u hoài vọng lên từ những cây đa buồn vạn cổ, với những mái lá rêu phong, ngân nga tiếng chuông chùa thuở ấy.
Tôi không có ý so sánh, nhưng hai nhà thơ họ Trần này, có bài tâm bút viết về mẹ, Trần Mạnh Hảo với Đêm Giao Thừa Nhớ Mẹ, Trần Trung Đạo với Mẹ và Quê Hương, đọc đêm giao thừa, không riêng tôi, cả bạn bè đêm đó đều khóc.
Có thể nói những bài thơ hay nhất của Việt Nam từ xưa đến nay, đều được viết ra từ cảm xúc về mẹ, về quê hương. Trần Trung Đạo cũng không nằm ngoài qui luật đó, thơ anh có rất nhiều bài hay về đề tài này. Trần Trung Đạo mồ côi mẹ khi anh chưa đầy tháng, do vậy anh lớn lên không bằng những lời ru, và dòng sữa mẹ, đắng cay của cuộc đời đã nuôi anh khôn lớn. Vết nứt đầu đời ấy như nhát dao chém vào tâm hồn anh, một vết thương không bao giờ thành sẹo:
“Ngày mẹ chết con chưa tròn một tháng
Cha tần tảo nắng sớm với chiều mưa
Thiếu sữa mẹ đời con thành đại hạn
Thiếu lời ru con lớn với lọc lừa.
Ngày mẹ chết con nằm trong máng cỏ
Có hay đâu mưa kéo một phương trời
Cha vấn cho con một vành tang nhỏ
Con mang đi, đi suốt phận con người”
( Chuyện đời mẹ)
Cứ đến ngày Vu Lan, ngày của mẹ không nơi nào, không vang lên tiếng ngâm, lời hát bài Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười của Trần Trung Đạo, kể cả các tổ chức cộng đồng tị nạn chính trị, hay các cộng đồng người Việt khác. Cả bài thơ là lời tự sự nhớ thương mẹ quằn quại, như được nối hai đầu từ một cõi xa vọng về. Tình thương chỉ được vỡ òa khi chiếc Phone rung lên trong căn phòng tĩnh mịch, và tiếng mẹ buồn như tiếng lá thu rơi. Nhà thơ bảo đó là cảm giác thật, khi anh gọi điện cho mẹ nuôi Hòa Hưng. Nhưng tôi cho rằng, đằng sau cái thực, phải chăng trong sâu thẳm còn có cõi ảo nào đó. Cho nên mỗi lần đọc Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, tôi có những cảm giác khác nhau, lúc hay và ấm đến lạ kỳ, nhưng có lúc hay đến rợn người. Hay đến nỗi, tôi có ông bạn dứt khoát chỉ gọi tên nhà thơ là ông Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười:
“…Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.”
Trần Trung Đạo còn rất nhiều bài viết về mẹ, có bà mẹ đã cưu mang anh trong lúc cuộc sống gần như tuyệt vọng. Có những bà mẹ chỉ thoáng qua cuộc đời anh, nhưng tất cả đều hiện lên ăm ắp tình người, tình mẫu tử. Không dừng lại cái tôi nhỏ bé đó, thơ Trần Trung Đạo thể hiện đậm nét hơn, rộng lớn hơn khi viết về mẹ, mẹ Việt Nam.
Nỗi nhớ nhà, nhớ quê quằn quại thường trực trong anh dù có trải qua bao năm tháng sống trên xứ người. Bao nhiêu năm lưu lạc ấy, là bấy nhiêu năm nhà thơ sống trong dằn vặt, với nỗi đau không bao giờ vỡ mủ. Toàn bài là những câu hỏi tưởng như giả định, lời thơ trầm buồn nhưng làm cho người đọc ngẹn ngào đến rưng rưng:
“ Thưa mẹ
Chúng con là người Việt Nam lưu lạc
Ngày ra đi không hẹn buổi quay về
Chẳng phải là sương mù
Sao khóc lúc đêm khuya
Chẳng phải gió sao đời là giông bão
Chẳng phải mây sao miệt mài trôi nổi
Chẳng phải là rừng sao héo úa mỗi tàn canh…
Và mười tám năm dài, dù đã đủ lớn khôn, nhưng chúng con vẫn ngơ ngác trên xứ người, đau đáu một nỗi nhớ thương, tủi hận, nhìn về nơi xa ấy bão tố đang thét gào:
… Chúng con đi gót chân mòn vạn dặm
Ngơ ngác nhìn nhân loại, tủi thân nhau.
Mười tám năm trời nuôi lớn một niềm đau
Mang một vết thương vẫn còn đang mưng mủ
Khi ngoảnh mặt trông về trốn cũ
Lòng chưa kịp buồn, nước mắt nhỏ trên tay. ..”
(Trích từ- Thưa mẹ chúng con đi)
Những câu hỏi tu từ được lặp lại, như những mũi khoan xoáy vào lòng người đọc- Có còn nhận ra tôi không? Có còn nhận ra tôi không? Nếu Mai Mốt Tôi Về, là một trong những bài thơ hay và điển hình nhất nói về nỗi đau, nỗi nhớ quê hương đến khôn cùng của Trần Trung Đạo:
“Có còn nhận ra tôi không?
Hỡi thành phố cũ
Những mái ngói xanh rêu
Bức tường vôi loang lổ
Bài thơ xưa ghi dấu một phần đời..
..Có còn nhận ra tôi không?
Hỡi cây đa cũ trong sân
Nơi tôi đứng những chiều thu lá đổ
Đừng hát nữa đa ơi, bài ca buồn vạn cổ
Tấm thân gầy đau nhức nhối trong đêm…”.
Thân phận và nỗi đau của con người xuyên suốt thơ Trần Trung Đạo. Một em bé mất cha, mất mẹ trên đường vượt biên, hay thân phận một cô gái Việt Nam hành nghề giang hồ trên đường phố Bangkok, khi anh bắt gặp. Trong thơ anh hình ảnh họ hiện lên thật đáng thương, sự đồng cảm ấy đã quyện vào hồn thơ, làm lòng người rưng rức:
“Người con gái Việt Nam
Trên đại lộ Si Ayuthaya, Bangkok
Em đứng đó một mình ôm mặt khóc
Như chợt nhớ ra đây không phải Sài Gòn
Mái tóc thu buồn
Mái tóc héo hon
Bay phơ phất giữa phố phường xa lạ
Mười sáu tuổi kiếp giang hồ chung chạ
Trôi lang thang như những bọt bèo…
Anh bất lực như lời tự sự, sẻ chia, anh cảm thấy có lỗi như kẻ trốn chạy. Và anh cũng chỉ là một người anh nhu nhược, chỉ biết giấu lòng mình vào những vần thơ:
…Đêm nay anh viết nốt bài thơ
Dẫu biết chẳng thể nào tới tay em được
Thơ của anh
Tâm sự của một người anh nhu nhược
Giữa muôn vạn khổ đau chỉ biết đứng nhìn..”
(Người con gái VN trên đại lộ Si Ayuthaya)
Cũng như nhà văn Phạm Tín An Ninh khi viết với một cái tâm trong sáng, thì Trần Trung Đạo cũng vậy, anh viết từ tận đáy lòng trung thực, không bị chi phối bởi xung quanh. Cho nên thơ, văn của anh làm người đọc rất nhẹ nhàng, thanh thản, và không kén người đọc. Từ người lính VNCH, đến anh bộ đội, hay các cháu sinh viên đều tìm đọc.
Thật vậy khi viết về chiến tranh anh có cái nhìn công bình hơn. Hay thân phận con người trong cuộc chiến dưới ngòi bút của anh cũng đồng cảm, tình người hơn. Bị đẩy ra khỏi trường Luật, sau năm 1975, anh lang thang như kẻ không nhà. Vật vờ trên đường phố Sài Gòn, anh bắt gặp anh bộ đội thương binh cụt chân cũng vờ vật như anh. Anh chợt nhận ra rằng, trong cuộc chiến này mất mát đâu chỉ có riêng anh:
“Anh cúi xuống nhìn đôi chân gỗ
Mắt rưng rưng không nói thêm lời
Ngoài hiên mưa bắt đầu rơi
Rơi thấm ướt lòng chúng tôi đêm ấy
Tôi cầm lấy tay anh
Đôi bàn tay lạnh giá
Mắt nhìn nhau như đã nói nghìn câu
Tôi thấy trong vô cùng hun hút đêm sâu
Chảy trong chúng tôi chung một dòng máu đỏ
Đời chúng tôi đời những đứa con hoang
Tim chúng tôi rung một nhịp Việt Nam
Hồn chúng tôi hồn bốn nghìn năm cũ…
(Anh bộ đội thương binh tôi gặp)
Tôi đồng ý với nhà phê bình Lương Trung Thư, khi anh cho rằng “Thơ Trần Trung Đạo, không có gì mới, nếu như không muốn nói là rất cũ”. Qủa thật như vậy, thơ Trần Trung Đạo không những cũ về thể loại, mà từ ngữ cũng không mới. Nhưng do cách sử dụng ngôn từ của anh rất tài tình, nên thơ anh rất gần, dễ hiểu, dễ thuộc và giầu nhạc tính. Cũng như nhà thơ Trần Mạnh Hảo, thơ của anh được nhiều nhạc sỹ phổ nhạc, và hát rất hay. Rất tiếc, dù các nhạc sỹ rất tài hoa nhưng dường như chưa chuyển tải hết hồn cốt của bài thơ vào nhạc, nên nó theo một chiều hướng khác.
Mấy năm gần đây, nhà thơ Trần Trung Đạo chuyển sang viết cả văn xuôi, tâm bút và tiểu luận. Là nhà thơ nên tâm bút của anh phảng phất chất thơ trong đó, giầu hình tượng, lay động lòng người. Tiểu luận của anh sắc mà không khô. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ, ông nhà thơ này cả ngày đi làm ở hãng xưởng, không hiểu thời gian, sức lực đâu mà ông ấy cầy ra nhiều thứ thê.
Rất mong có ngày được trở lại với đề tài văn xuôi của anh.
Đức Quốc, 18- 5-2011
© Đỗ Trường
© Đàn Chim Việt
Cám ơn t/g cho tôi được thưởng thức thơ của TTĐạo. Thơ TTĐạo rung động hồn người đọc, lời thơ thật nhẹ nhàng tự nhiên không uốn nén, nhưng mỗi lời thơ đâm thẳng vào hồn, chia sẻ với người đọc tâm trạng, tiềm thức và kỷ niệm của TTĐạo. Tôi vốn rất thích đọc thơ và làm thơ. Nhưng tôi thật tình ngả mũ trước tài hành thơ của TTĐạo. Tôi sẽ cố kiếm ra sách thơ của anh, nếu đã xuất bản.
Xin góp một bài thơ về ” ra đi ”
TÌNH VIỂN XỨ
Đất tự do thuyền hướng về cập bến
Ta gặp em trên đất lành yêu mến
Có tuyết trắng biển xanh gió hiền diu
Có tình người ở xứ lạ mà quen
Đường anh đi chiều nay về gió nhẹ
Tâm hồn anh sao gió lộng không nguôi
Thần tự do hiện xa triền sóng vổ
Người tự do trên sống nước mây trời
Hay cho anh như là cơn gió nhẹ
Hay là cây cho gió trải tâm tình
Trong tim anh dù cho ngàn ngấn lệ
Vẩn long lanh in đậm chử ân tình
Đêm dài đặc tâm hồn anh thao thức
Sao cho thời gian động lại dòng đời
Nghe rờn rợn biển đường trong tâm thức
Gì đâu vỉnh viển đời đời người ơi !
VH
Nếu như học sinh trong nước còn cần đến văn mẫu, thì đây là bài bình hoàn chỉnh và hay. cảm ơn tác giả.
Hai mươi năm trước mẹ vật vã những lời thơ như thế !
Gần bốn mươi năm trôi qua , lại trôi qua !
Đất vẫn còn hoen máu !
Mẹ dù lòng còn thương con đau đáu vẫn chợt nhận ra :
Lỗi ở mẹ sinh ra những đứa con để mất nước rồi hèn hạ di tản tùy nghi
Năm này năm khác chỉ thẩn thơ than khóc , rồi bốc nhau khen hay!
Thật là : “ trải qua một cuộc bể dâu ….”
Mẹ đâu cần thơ , tiền !
Thơ , tiền đâu làm khô nước mắt trên vạt áo !!.
Hãy xếp bút nghiên để mẹ còn thấy là con của mình !.
SAO TRÁCH CON NGƯỜI
Lý chi lại trách con người
Trách người tốt xấu, trách người chẳng hay
Bởi đứng giữa cuộc đời mới biết
Cớ làm sao mà hỏng kia thôi
Ấy là thời thế tạo nên
Khác gì chiếc bách lênh đênh giữa dòng
Ai trụ được ai không trụ được
Cũng vốn là thân phận mà thôi
Việc đời rồi cũng qua mau
Hoa tàn lại nở nụ sau tiếp liền
Có chăng khác lòng riêng mới khác
Lòng chính chuyên hương ngát không gian
Nước non như cuộn tơ vàng
Đừng vò cho bẩn mới toàn điều hay
Chớ còn thói tháng ngày xu nịnh
Sống với người chỉ giống liu điu
Dầu sao nói ít hiểu nhiều …
VHT
TIẾNG GỌI BAN ĐẦU
(Ý-Yên xin phép TTĐạo, góp một
lời thơ về MẸ :
Mang thân phận một loài kiến nhỏ
Đi mãi quanh vòng một ly sữa cạn
Tên lính biển trong cơn đắm tàu
Hải đăng vụt tắt và la bàn rơi mất
Mịt mờ niềm nhớ gọi gác giờ khuya
Niềm nhớ con mang theo bóng dài
Một mình con đi đến trường xa
Nơi từng gia đình chim đùa trên mái ngói
Con gọi mãi lời đầu tiên cuộc đời
Chỉ thấy mái tranh từng giọt sương thu
Và nắng ngẩn ngơ trên những vòm xa hấp hối
Hôm nay, người du tử là con
Giật mình tự hỏi
Một tiếng êm đềm chi lạ
Một lời dịu ngọt nào quen
Danh từ thổn thức lúc nhớ lúc quên khi quên lúc nhớ
Qua những mùa trăng
Theo từng cánh gió
Trong niềm đau xót nước mặn ngàn khơi
Danh từ như gió mây trời bao phủ đời con
Ôi, con đã từng là con
Ôi, con đã từng có Mẹ !
(Ý-YÊN . Cũng Một Đời)
NƯỚC LÁ XAY
Nước rau má anh uống ngày ấy
Anh còn nhớ đến tận giờ đây
Nước raui má quê anh ngọt lịm
Đậm đà hương vị quê mình ấy
Có phải anh người Saigon
Ra đi lòng vẩn sắt son
Tết dọt xe đạp khắp phường
Tung tăng chạy khắp phường
Rồi anh giờ xa xứ
Dẩu không hiểu tiếng người
Con tim vào ngôn ngử
Nhớ quê giấu trong người
Đất nước anh điêu tàn quá
Nhưng lòng đất nước bao la
Anh hòa đồng vào cảnh lạ
Nguôi dần nổi nhớ đất xa
Nước lá xay anh uống ngày ấy
Anh còn nhớ đến tận giờ đây
Nước rau má xanh xanh màu
Chỉ hơi ngọt lịm cho vừa nhớ nhau
BÀI THƠ VẨN CÒN NGUYÊN
Em tặng tôi một bài thơ khi tôi ra đi
Rồi ngày tháng trôi nhanh
Em không còn nhớ nửa
Bốn mươi năm sau
Anh tìm về chốn củ
Anh gặp một bà già gầy guộc
Bà không biết anh
Anh tặng bà bài thơ
Bà khóc
Bài thơ vẩn còn nguyên
Anh cất đi một kỷ niệm
Của một thời yêu đương
Cho đến sau nầy
Anh đem tặng người thương mến
Kể từ chiều ấy mổi chiều một xa…
Tôi cho rằng cả bài luận này là một bài thơ trọn vẹn thì đúng hơn. Đọc cũng thấy rưng rưng như tác giả viết. cảm ơn
Một bài tiểu luận nhẹ nhàng, tràn đầy thi âm, cám ơn t/g.