WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Đọc Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi

Bách khoa toàn thư mở viết về Nguyễn Trãi như sau: ‘Nguyễn Trãi (1380-1442),hiệu là Ức Trai là đại thần nhà Hậu Lê, một nhân vật vĩ đại về nhiều mặt, rất hiếm có trong lịch sử. Công lao sự nghiệp của ông rất lớn. Đạo đức phong cách của ông rất cao đẹp. Ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, đồng thời là một nhà văn lớn, nhà thơ lớn, nhà sử học, nhà địa lý học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc’.

Trong lịch sử Việt Nam hiếm có người nào được ca ngợi như Nguyễn Trãi và cho dù lời khen có thế nào thì cũng không ai phản đối vì một lẽ đơn giản: Nguyễn Trãi xứng đáng được khen như vậy. Năm 1980, UNESCO công nhận ông là ‘Danh nhân văn hóa thế giới’. Dù bản thân ông là người quân sư chính cho cuộc kháng chiến chống quân Minh mất hơn 10 năm trời nhưng các tác phẩm mà ông để lại cho hậu thế thật đồ sộ đáng kính nể, trong đó có các tác phẩm chính như: Bình Ngô đại cáo, Quốc Âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí…

Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng đầu tiên và lớn nhất của Việt Nam dưới thời phong kiến. Tài năng của ông cộng với tư tưởng nhân nghĩa của ông thể hiện rõ trong bài “Bình Ngô đại cáo’. Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại tuyệt phẩm này của ông để hiểu thêm về một người anh hùng dân tộc vĩ đại.

Tư tưởng ‘vì dân’, lấy dân làm gốc của ông được nói đến rõ ràng ngay từ câu đầu tiên:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Ông miêu tả cảnh khốn cùng và lầm than của người dân trong 20 năm bị quân Minh đô hộ:

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Cảnh lầm than mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng xảy ra cách đây đã 600 năm và do quân xâm lược gây ra nhưng sao bây giờ vẫn cảm thấy quen quen?

Cuộc kháng chiến dù là chống quân thù hay bất cứ cuộc cách mạng, cuộc đổi đời nào thì buổi ban đầu cũng vô cùng khó khăn, thiếu thốn đủ đường, từ lực lượng đến lương thực và lòng người thì ly tán…

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Nguyễn Trãi hiểu rằng người có ‘chính nghĩa’ có ‘chí nhân’ sẽ là người chiến thắng sau cùng chứ không phải sức mạnh của sự ‘hung tàn’ hay ‘cường bạo’:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Khi lòng người đã thuận, bão đã nổi lên rồi thì không gì cản được:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Những chuyện tưởng không bao giờ xảy ra đã xảy ra:

Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Tướng quân Minh là Vương Thông bị quân ta vây trong thành, Liễu Thăng và Mộc Thạnh đã đem 10 vạn quân từ Vân Nam sang cứu viện. Đạo quân này đã bị quân ta đánh bại hoàn toàn. Quân Minh tuyệt vọng xin giảng hòa và rút quân về nước, nhiều tướng sĩ đòi đánh vào thành Đông Quan tiêu diệt hết quân Minh trả thù cho những tội ác mà chúng đã gây ra cho nhân dân ta nhưng Nguyễn Trãi không đồng tình, ông cho rằng phải lấy hòa hiếu, nhân nghĩa để đối đãi với kẻ thua cuộc vì ông biết dù có thua trận này, về lâu dài quân Minh vẫn mạnh hơn chúng ta nhiều lần. Đây cũng là triết lý của nhà Phật là ‘lấy ân báo oán, oán sẽ hóa giải’ hay nói theo ngôn ngữ ngày nay thì đó chính là: ‘Tinh thần hòa giải và bao dung’:

Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Thế gian luôn thay đổi và vũ trụ chuyển động không ngừng, sau đổ vỡ, đau thương và tang tóc sẽ đến lúc hồi sinh, hạnh phúc và viên mãn. Âu đó cũng là lẽ trời:

Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Ước mơ về một ngày mai tươi sáng sẽ đến với chúng ta nếu chúng ta biết đoàn kết và đồng thuận với nhauvề một tương lai chung, một tương lai mà tất cả mọi người đều có chổ đứng như nhau.

Cuộc đời và số phận của Nguyễn Trãi cho chúng ta hiểu rằng vì sao chế độ phong kiến phải kết thúc. Vì không có dân chủ, mọi quyền hành tập trung hết ở nhà vua nên dù là một vị đại công thần như Nguyễn Trãi cũng phải chịu một cái án oan khiên ngút trời, bị tru di tam tộc. Tội của ông đó là ông quá giỏi và quá thẳng thắn, nên bị triều đình ghen ghét. Nếu không có Nguyễn Trãi chắc gì Lê Lợi đã lấy được thiên hạ? Và cho dù Nguyễn Trãi đã chấp nhận “Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi’ nhưng ông cũng không thể thoát khỏi số phận người sĩ phu, trí thức ngày xưa, bị kẻ cầm quyền ‘vắt chanh bỏ vỏ’. Bài học lớn nhất dành cho trí thức Việt Nam ngày nay là thay vì thụ động chờ được làm ‘tôi tớ’ cho một ông vua nào đó thì hãy nhập cuộc, thay đổi tư duy cách nhìn để trí thức Việt Nam trở thành lực lượng tiên phong, dẫn dắt và lãnh đạo quần chúng, chung tay kiến thiết một nền dân chủ thật sự cho dân tộc và đất nước để những người tài giỏi không bị hắt hủi và có cơ hội phục vụ nhân dân và tổ quốc.

Nguồn: Ethongluan.org
—————————————–
Phụ lục :

Bình Ngô Đại Cáo

Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cố tở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.

 

11 Phản hồi cho “Đọc Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi”

  1. Thu Ha says:

    Bai` viê´t cua mô. t hoc. sinh trình dô du? sú?c làm Báo tu`ò`ng , thu`ò`ng thây´ o´ các tru´ò´ng hoc o? Vn

  2. Hoàng Lê says:

    Cám ơn tác giả đã đăng lại một áng văn quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam. Lâu rồi mới có dịp đọc lại vẫn thấy hay và xúc động. Tôi không đồng ý với tác giả khi cho rằng Nguyễn Trãi thả quân Minh về vì e sợ ‘chúng trả thù’, mà đó chính là xuất phát từ tấm lòng nhân ái của ông. Trong bài văn ông có giải thích lý do thả cho quân Minh trở về là vì “Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh” và vì không muốn quân ta phải hy sinh thêm nữa “Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”. Đọc lại áng văn này để thấy tủi hổ cho những nhà lãnh đạo Việt Nam, đàn áp người dân đi biểu tình bày tỏ lòng yêu nước, hậu duệ của Nguyễn Trãi mà hèn như vậy sao?

  3. Tuan says:

    Đây là bài thơ giá trị và hay nhất đối với tôi và tôi đã học thuộc lòng một phần khi đang học lớp 9. Ước gì nhà trường đều dùng bài thơ này cho học sinh phân tích ít ra cũng trong bài thi học kỳ thay vì thơ của Tố Hữu hay của cụ Hồ những bài thơ chẳng thấy có chút giá trị về dân tộc tính gì cả.
    Ví dụ như bài thơ của Tố Hữu dưới đây nó nói lên cái lý tưởng cho nhiều thế hệ thanh niên vô tư trở thành những kẻ nhiệt tình đến độ độc ác và giết chính đồng loại của mình

    “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
    Mặt trời chân lý chói qua tim
    Hồn tôi là một vườn hoa
    Rất đượm hương và rộn tiếng chim ca”

    • Võ Danh says:

      Với cộng sản thơ văn hay tất cả mọi thứ đều phải được chính trị hóa,để mang tính Đảng rồi mới được phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân.Thơ của văn hào Nguyễn Trãi nặng tình dân tộc, sặc mùi phong kiến,thiếu chất Mác xít thì sánh sao bằng thơ của Hồ chủ tịt hay Tố Hữu…Bạn đừng có mơ bài BNĐC này được phổ biến rộng rãi trong học đường.

  4. Trần Tôn says:

    Xin lỗi phải thắc mắc hỏi là Đạo Nhân có họ hàng anh em gì với ông Việt Hoàng này không dzậy?

    Rất tiếc tui phải nói là ông Việt Hoàng này cần tập có suy nghĩ riêng. Đừng cứ luôn viết theo, viết leo.

  5. Dâm Tiên says:

    Chúng ta chẳng nên văn chương khoa bảng nữa!
    BNĐC là ý chí mạnh mẽ quốc phòng, là áng văn
    chương dùng làm đề tài thi cửa. OK?

    Ngày trước, chỉ có Tàu và Ta.

    Ngày nay, có Tàu có ta, có đồng minh của ta.
    Tình hình nó khác cái thời Bình Ngô đại cáo rồi.

    Ta bỏ cái tính lẩn quẩn nhà nho đi, trời ui !

  6. Nguoi VN says:

    Giờ đã đến cho toàn dân hành động . Ai yêu nước thương dân thì phải tận diệt CNCS, XHCN, đảng Cộng Sản Việt gian buôn dân bán nước vinh thân .

    Tranh đấu, tranh đấu,… toàn dân VN đồng tranh đấu

    Chủ nghĩa CS hết thời
    Ném vào sọt rác cho rồi bạn ơi
    Ai người yêu nước Việt tôi
    Xả thân vì nước cứu người VN

    Kính chào đoàn kết trong tình “Yêu nước thương dân” .

    “V”

    HS. TS. VN

  7. Tuyên says:

    Đọc đoạn thơ ông Nguyễn Trãi miêu tả cảnh khốn cùng và lầm than của người dân trong 20 năm bị quân Minh đô hộ thì thấy:
    Đảng Cộng Sản Việt Nam là bọn quan quân thời nhà Minh !!!

  8. Đạo Nhân says:

    Rất trân trọng và tâm phục khẩu phục tác giả Việt Hoàng đã có thêm một bài viết vô cùng giá trị trên nhiều mặt bao gồm văn hóa,chính trị …Phải là người uyên bác về văn học mới có đủ khả năng để cống hiến người đọc bài viết trên. Người viết đã đọc bên ethôngluận.org vài hôm trước,thầm nghĩ nếu được phổ biến rộng rãi thì tuyệt vời.Rất vui vì ĐCV đã xuất sắc trong việc mở rộng cánh cửa văn học hải ngoại về nước cho đồng bào còn đang gặp vô cùng khó khăn trong việc truy cập kiến văn hải ngoại. ĐCSVN đã bịp mồm đồng bào mình bằng CA chìm nổi đi cùng đủ kiểu khủng bố dã man nhất có thể,chúng luôn luôn tìm đủ mọi cách nhằm bịt mắt giới trẻ trong tìm tòi truy cập NET để bảo toàn chế độ độc tài CA đảng trị . May mắn thay,nơi hải ngoại đã có được một số báo mạng như ĐCV,ethôngluận v.v. đã cung cấp rất nhiều kiến văn cùng nhiều tin tức xác thực nhằm khôi phục lại những gì mà ĐCSVN đã cướp mất của toàn dân Việt kể từ khi chúng cướp được chính quyền.Xin được ngả mũ gửi đến tác giả Việt Hoàng cùng BBT ĐCV lời kính chào đặc biệt nhất. Kính,ĐN

    • Việt Hoàng says:

      Cám ơn độc giả Đạo Nhân.
      Lâu lắm rồi mới thấy có người khen mình :-)
      Tất cả chúng ta chỉ có một ước mơ chung: Dân chủ cho Việt Nam.
      Nếu ông hiểu được những gì tôi muốn nói thế là mừng rồi.
      Kính
      Việt Hoàng

  9. nguyenha says:

    “Bình-ngô dại cáo”một tuyệt tác văn chương,ghi hồn-sông-núi,sao không dem vào giảng dạy trong nhà trường,học tòan “bá-láp”:thơ cuả Tố-Hửu, văn cuả Dặng-thai-Mai, văn chương “chôm-chỉa” của cụ Hồ… Thiệt là:”…Dối trời,lừa Dân ,dủ muôn ngàn kế,
    Gây thù óan trải mấy mươi năm..”
    Dảng sợ Bình-ngô-dại cáo là phải!!

Leave a Reply to Việt Hoàng