Công hàm 1958: một vấn đề thuộc phạm vi công pháp quốc tế
Về một số ý kiến tiêu biểu của các học giả trong, ngoài nước về nội dung và hiệu lực ràng buộc của công hàm 1958.
Kính gởi: các cơ quan truyền thông BBC, VOA, RFA… về những bài trích dẫn, hay những bài có liên quan đến chủ đề.
Kính gởi: Quí học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, học giả Lưu Văn Lợi, Tiến sĩ Balazs Szalontai, Thạc sĩ Hoàng Việt, Nhóm phóng viên Biển Đông… vì những ý kiến trích dẫn.
Kính gởi: “các Nhân sĩ , Trí thức”, tác giả thư ngỏ “Thư ngỏ của các nhân sĩ, trí thức gửi Quốc hội, Lãnh đạo Nhà nước và Đảng CSVN” vì ý kiến trích dẫn.
Kính gởi, đồng thời cám ơn, các trang báo Dân Luận, Đàn Chim Việt… những trang báo đã tạo điều kiện cho một “tiếng nói khác” có cơ hội được bày tỏ chính kiến của mình.
—————————————————————–
Công hàm ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng là tài liệu quan trọng nhứt của phía TQ đưa ra nhằm chứng minh VN đã công nhận chủ quyền của nước này tại HS và TS.
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải quốc gia. Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau:
Điều 1: Lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý. Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3: Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của TQ thì không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ.
Điều 4: Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả HS và TS.
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm 1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau:
«Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. »
1/ Công hàm 1958 là một «tuyên bố đơn phương»:
Nhiều người gọi «công hàm» 1958 của Phạm Văn Đồng là «lá thư» của ông Đồng gởi cho ông Chu Ân Lai, với hy vọng làm giảm thiểu tính quan trọng của văn bản. Thực ra việc gọi thế nào không quan trọng, mà quan trọng là trên quan điểm quốc tế công pháp văn bản này có hiệu lực pháp lý hay không?
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ thông qua (từ nay gọi tắt là Nguyên tắc Hướng dẫn) có nội dung:
Des déclarations formulées publiquement et manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm dịch: Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng.
Khoản 5 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
5. Les déclarations unilatérales peuvent être formulées par écrit ou oralement.
Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết hay bằng lời nói.
Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đã thể hiện một cách công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.
Khoản 2 của Nguyên tắc Hướng dẫn:
2. Tout État a la capacité d’assumer des obligations juridiques par des déclarations unilatérales.
Tạm dịch: Mọi quốc gia đều có khả năng đảm nhận những ràng buộc pháp lý qua các tuyên bố đơn phương.
Trên phương diện quốc tế công pháp, quốc gia gọi là VNDCCH có thể bị ràng buộc do tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đông. Vấn đề cần tìm hiểu là bị «ràng buộc» về những điều gì?
2/ Công hàm không có hiệu lực vì người ký không có tư cách pháp nhân
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến đóng góp về công hàm 1958 thường hay nói đến tư cách pháp nhân của ông Phạm Văn Đồng. Các ý kiến này cho rằng ông Đồng không có tư cách để ra một tuyên bố liên quan đến vấn đề lãnh thổ.
TS Nguyễn Hồng Thao, trong cuốn «Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông » nói về việc này như sau:
La note de Pham Van Dong ne contient aucune renonciation explicite de la souveraineté sur les deux archipels au profit de la Chine. La portée de cette note n’a pas non plus la valeur obligatoire de renoncer à une souveraineté. En vertu de ses fonctions, un Premier Ministre n’a pas la compétence de céder le territoire. Cela relève au pouvoir de l’Assemblée Nationale de Viet Nam
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng không hề nói đến việc từ bỏ chủ quyền ở hai quần đảo cho TQ. Hiệu lực của lá thư này cũng không có giá trị bắt buộc ở việc từ bỏ chủ quyền. Theo chức năng của ông này, một thủ tướng không có thẩm quyền để nhượng lãnh thổ. Đây là thẩm quyền thuộc về Quốc hội.
Về hiệu lực của công hàm 1958 sẽ nói ở dưới. Về tư cách pháp nhân, ý kiến này không phù hợp với quan điểm Quốc tế Công pháp. Thật vậy, điều 4 của Nguyên tắc Hướng dẫn, những viên chức nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao… là những người có tư cách để ra một tuyên bố. Nguyên văn điều 4:
4. Une déclaration unilatérale n’engage internationalement l’État que si elle émane d’ une autorité ayant compétence à cette fin. En vertu de leurs fonctions, les chefs d’État, les chefs de gouvernement et les ministres des affaires étrangères sont habilités à formuler de telles déclarations. D’autres personnes représentant l’État dans des domaines déterminés peuvent être autorisées à engager celui-ci, par leurs déclarations, dans les matières relevant de leur compétence.
Tạm dịch như sau: một tuyên bố đơn phương chỉ ràng buộc quốc gia (vào các vấn đề thuộc phạm vi) quốc tế khi tuyên bố này phát xuất từ một quan chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng của họ, chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ ngoại giao (là những người) có quyền để thành lập một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện cho quốc gia trong những lãnh vực nhứt định có thể được phép gắn kết (quốc gia vào các vấn đề thuộc lãnh vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ.
Theo tinh thần điều 4 văn bản hướng dẫn này, ông Phạm Văn Đồng là thủ tướng chính phủ nước VNDCCH, dĩ nhiên có tư cách và đầy đủ thẩm quyền để ra một tuyên bố về một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế.
Thí dụ dẫn từ hồ sơ CIJ về tư cách pháp nhân của người ra tuyên bố.
Trường hợp tranh chấp giữa Mã Lai và Singapour về các đảo Pedra Branca (tên Mã Lai là Pulau Batu Puteh), Middle Rocks và South Ledge (quan trọng hơn cả là đảo Pedra Branca). Nội vụ được đưa ra Tóa án Công lý Quốc tế (CIJ) vào tháng 2 năm 2003 và được phân xử ngày 23 tháng 5 năm 2005.
Trước tòa, theo các chứng cớ lịch sử, Mã Lai đã chứng minh được chủ quyền lịch sử của mình ở đảo Pedra Branca, từ thời mới lập quốc (vương quốc Johor, thế kỷ 15) cho tới năm 1850. Trong khi Singapour, được tiểu vương Johor nhượng cho Công ty Đông Ấn thuộc Anh vào ngày 02 tháng 8 năm 1824, lãnh thổ bao gồm tất cả các đảo trong vòng 10 hải lý. Trong khi đó đảo Pedra Branca cách Singapour đến 24 hải lý. Nhưng trong một khoảng thời gian dài, từ năm 1850, vương quốc Johor (quốc gia tiền nhiệm Mã Lai) đã không hành sử chủ quyền của họ tại đảo này. Khi người Anh ở Singapour cho xây một ngọn hải đăng trên đảo năm 1850 thì không gặp sự phản đối nào của vương quốc Johor. Mặt khác, nhân dịp trả lời lá thư của Singapour về chủ quyền đảo Pedra Branca năm 1953, viên Bộ trưởng lâm thời Bộ ngoại giao vương quốc Johor viết công hàm xác nhận đảo Pedra Branca «không thuộc chủ quyền Johor». Mặc dầu phía Mã Lai phản đối rằng viên bộ trưởng kia không có thẩm quyền để tuyên bố về một vấn đề «lãnh thổ». Nhưng tòa đã bác lý lẽ này vì cho rằng tuyên bố đó không có ý nghĩa của một tuyên bố về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của vương quốc Johor về chủ quyền đảo Pedra Branca.
Công hàm 1953 của vương quốc Johor tương tự với trường hợp công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đó không phải là một kết ước về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của nước VNDCCH về quyết định của nước CHNDTH (về lãnh thổ và hải phận của TQ). Công hàm 1958 không hề là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền.
(Ở thí dụ này ta cũng thấy một nước, do thái độ của chính phủ nước này, có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở một vùng lãnh thổ nào đó. Trường hợp VN và TQ tại hai quần đảo HS và TS, ta dễ dàng chứng minh VN có chủ quyền lịch sử tại hai quần đảo này, thông qua các tấm bản đồ, hay các sử liệu lịch sử, do chính từ TQ thành lập. Nhưng nếu trong một thời gian dài, nhà nước VN có những tuyên bố, hay các động thái tương đương với sự «đồng thuận – acquiescement», các hành vi này được xem là tự nguyện «từ bỏ chủ quyền», VN có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở các nơi này. Điều này có ý nói rằng vấn đề chủ quyền lịch sử là quan trọng nhưng thái độ của nhà nước đối với vùng lãnh thổ đó còn quan trọng hơn.)
Ta cũng có thể dẫn từ các bản án mẫu của CIJ về các tuyên bố đơn phương mà vai trò của người tuyên bố, cũng như hoàn cảnh của tuyên bố bị đặt lại, nhưng vẫn không thể hủy bỏ hiệu lực của tuyên bố.
Trường hợp quốc vương Jordanie tuyên bố từ bỏ vùng lãnh thổ Cisjordanie là một thí dụ khác. Ngày 31 tháng 7 năm 1988 quốc vương Jordanie đọc tuyên bố trước thần dân của ông về việc từ bỏ mọi liên hệ và thẩm quyền chính thức của Jordanie trên vùng lãnh thổ Cisjordanie. Tuyên bố này trái với tinh thần hiến pháp của Jordanie, vì nhà vua không có thẩm quyền quyết định về phạm vi lãnh thổ. Tuyên bố của quốc vương Jordanie không hề nhắm đến một quốc gia nào (không phải là tuyên bố đơn phương) đồng thời vừa vi hiến. Dầu vậy hiệu lực của tuyên bố cũng đã được áp dụng trên thực tế, dân tộc Palestine chưa được thực sự độc lập cũng như quốc gia Palestine chưa được chính thức thành hình, nhưng vùng lãnh thổ Cisjordanie thực sự không còn thuộc thẩm quyền của Jordanie.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì vi hiến.
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến ở VN gần đây cho rằng chiếu theo hiến pháp VN, ông Đồng không có tư cách để tuyên bố về một vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ. Thật vậy, theo hiến pháp của VN hiện tại, hay trong thời kỳ ông Đồng làm thủ tướng, vấn đề phân định biên giới phải được thể hiện bằng một kết ước, có sự đồng thuận giữa hai nước, phải được quốc hội thông qua. Ý kiến của TS Nguyễn Hồng Thao đã dẫn ở trên trong chừng mực cũng nằm trong chiều hướng này.
Nhưng tuyên bố 1958 của ông Đồng, đã nói ở trên, không phải là một « tuyên bố về lãnh thổ », có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ nước VNDCCH. Nếu văn bản có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ thì tuyên bố này vi hiến.
Xét nội dung của cả hai bản tuyên bố. Bản tuyên bố của TQ trước hết là một tuyên bố về chủ quyền, theo đó TQ khẳng định ý chí của họ về chủ quyền của TQ tại Đài Loan, Bành Hồ… (đang dưới quyền kiểm soát của phe Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo). Sau đó là tuyên bố về hệ thống đường cơ bản và bề rộng lãnh hải 12 hải lý (điều 2). Điều 3 khẳng định quyền tài phán của TQ tại vùng không gian và vùng nước thuộc lãnh hải TQ. Điều 4 qui định các đảo Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) cùng các đảo khác của TQ đều có qui chế xác định ở điều 1 và điều 2.
Bối cảnh bản tuyên bố của TQ, sẽ nói rõ hơn ở phần dưới, cũng như tuyên bố của nhiều nước khác cận biển trong cùng thời kỳ, được thể hiện sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Một Nghị định thư không bắt buộc về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được thông qua. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận. Ta thấy tuyên bố bề rộng lãnh hải 12 hải lý của TQ hoàn toàn phù hợp với Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải.
Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng là tuyên bố ủng hộ tuyên bố của TQ về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của nước này. Thực ra việc này không cần thiết. Bởi vì, cũng như tuyên bố của các nước khác, nếu nội dung tuyên bố của TQ không có điều gì phải phản đối, tự động tuyên bố này có hiệu lực đối với tất cả các nước trên thế giới. (Tuyên bố của TQ bị Hoa Kỳ phản đối vì hệ thống đường cơ bản lấn biển khá xa).
Tức là, có hay không có tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng, nếu VN không lên tiếng phản đối hay bảo lưu về một điều gì đó liên quan đến nội dung tuyên bố của TQ, tự động tuyên bố này có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không phải là một tuyên bố về « lãnh thổ ». Vì vậy tuyên bố này không vi hiến.
Dầu vậy, theo tập quán quốc tế, một tuyên bố đơn phương nếu đi ngược lại tinh thần hiến pháp của quốc gia tuyên bố, hiệu lực của tuyên bố vẫn có thể cao hơn hiến pháp của quốc gia. Tuyên bố đơn phương không phải là một văn bản «hành chánh» thuộc phạm trù quốc gia mà là một văn bản (hay hành vi) thuộc phạm trù quốc tế. Một văn bản hành chánh chịu chi phối của luật quốc gia nhưng một tuyên bố đơn phương (liên quan đến một vấn đề quốc tế) chịu chi phối của luật pháp quốc tế. Mà luật quốc tế có giá trị «cao» hơn luật quốc gia.
Thí dụ sau đây cho thấy những rắc rối đưa đến từ việc mâu thuẩn giữa luật quốc nội và luật quốc tế về tuyên bố đơn phương.
Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela về lập trường của Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes. Công hàm này xác định chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes.
Năm 1971, Ủy ban Quốc gia Colombie nhận được một khiếu nại cho rằng công hàm 1952 vi hiến vì các vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ phải được thể hiện bằng một hiệp ước, và phải được quốc hội thông qua. Thực tế là công hàm của Bộ ngoại giao có làm thay đổi « biên giới » nước Colombie, vì trực tiếp nhìn nhận quần đảo Los Monjes thuộc Venezuela. Tháng 3 năm 1971 Ủy ban Quốc Gia Colombie phán xét rằng Ủy ban không có thẩm quyền để hủy bỏ công hàm 1952 bởi vì đây là một văn bản thuộc phạm vi quốc tế. Một văn bản quốc tế thì phải áp dụng Quốc tế Công pháp. Tháng 4 năm 1971, phán quyết này lại khiếu nại lên Ủy ban Quốc Gia. Lần này lý lẽ phía khiếu nại cho rằng phán quyết không phù hợp với hiến pháp Colombie trong các vấn đề liên quan đến các văn bản quốc tế. Bên khiếu nại nhấn mạnh, để tuyên bố có hiệu lực, ý chí của hai quốc gia cần phải được thể hiện. Tức là, quan điểm của hiến pháp Colombie thì không công nhận hiệu lực các tuyên bố đơn phương mà chỉ nhìn nhận các hết ước có tính qui ước (có sự đồng thuận của hai bên).
Điều ghi nhận ở đây, khác với hiến pháp của phần lớn các quốc gia khác, hiến pháp Colombie không nhìn nhận « tuyên bố đơn phương » là một văn bản quốc tế. Một văn bản quốc tế, theo họ, phải có sự đồng thuận của hai bên. Trong trường hợp chủ quyền quần đảo Los Monjes, phải xác định bằng một hiệp định.
Vấn đề quần đảo Los Monjes được đưa lên Ủy ban Hiến Pháp quyết định. Ủy ban này cũng từ khuớc vì cho rằng không có thẩm quyền (23-5-1975). Cuối cùng, ngày 20-10-1992, Ủy ban Quốc gia phán quyết : Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela là không có gia trị.
Nhưng dường như hành động của Ủy ban Quốc gia Colombie chỉ nhắm đến việc giải quyết trong nội bộ Colombie, để xoa dịu thành phần chống đối. Vì trên thực tế, hiện nay nhà nước Colombie công nhận chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes qua việc phân định hải phận giữa hai nước. Việc tranh chấp hai bên là vùng nước chung quanh Los Monjes, phía Colombie chủ trương các đảo này có hiệu lực giới hạn trong khi phía Venezuela đòi hỏi vùng biển phía ngoài các đảo, có đầy đủ hiệu lực.
4/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế.
Có ý kiến cho rằng công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của phía TQ vi phạm luật quốc tế. Ý kiến này cho rằng tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế vì hệ thống đường cơ bản của TQ không phù hợp với Luật quốc tế về Biển 1958.
Theo khoản 8 bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
8. Une déclaration unilatérale en conflit avec une norme impérative du droit international général est nulle.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương mâu thuẩn với một nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế thì nó không có giá trị.
Như đã nói ở phần 2, tuyên bố về hải phận của TQ là một tuyên bố đơn phương. Nếu tuyên bố này mâu thuẩn với luật Quốc tế thì tuyên bố này không có giá trị. Dĩ nhiên công hàm 1958 cũng không có giá trị.
Ta thấy qui ước về đường cơ bản trong Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp 1958 không khác nhiều nội dung bộ Luật biển 1982. Hệ thống đường cơ bản của TQ từ năm 1958 đến nay không thay đổi. Trong chừng mực, một số đoạn trong hệ thống đường cơ bản của TQ khá xa bờ, nhưng việc lấy các đảo cận biển để làm điểm cơ bản thì việc này không mâu thuẩn với Luật quốc tế về Biển. Tập quán này đã được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng (kể cả VN). Tuyên bố về đường cơ bản của TQ bị các nước (như Hoa Kỳ) phản đối. Nhưng nói rằng nó không có giá trị trên toàn bộ là không thuyết phục. Bởi vì, nếu bị chống đối, TQ (hay VN cũng như các nước có chung trường hợp), có thể thay đổi để phù hợp với Luật biển 1982.
Vì thế khi cho rằng tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không có giá trị vì ủng hộ một tuyên bố vi phạm luật quốc tế là không có căn cứ.
5/ Nội dung Công hàm 1958:
Đây mới là điều quan trọng nhứt để bàn cãi. VN có thể bị ràng buộc pháp lý ở các điểm nào trong nội dung bản tuyên bố 1958?
Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
7. Une déclaration unilatérale n’entraîne d’obligations pour l’État qui l’a formulée que si elle a un objet clair et précis. En cas de doute sur la portée des engagements résultant d’une telle déclaration, ceux-ci doivent être interprétés restrictivement. Pour interpréter le contenu des engagements en question, il est tenu compte en priorité du texte de la déclaration ainsi que du contexte et des circonstances dans lesquelles elle a été formulée.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn bản phải được giải thích một cách hạn chế. Để giải thích nội dung của những cam kết này, ta phải đặt ưu tiên cho văn bản của tuyên bố cũng như bối cảnh và trường hợp mà tuyên bố được thể hiện.
Bà Monique Chemillier-Gendreau giới hạn hiệu lực của công hàm 1958 ở « bề rộng lãnh hải ». Bà viết như sau:
«La déclaration de Pham Van Dong se tient strictement, il est vrai, à la reconnaissance de la largeur de la mer territoriale chinoise. Il est donc inexact de soutenir que le Viet Nam aurait ainsi «réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois» sur les archipels ».
Tạm dịch: Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ hạn chế ở việc nhìn nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Cho rằng Việt Nam «tái xác định việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc» ở các quần đảo là điều không đúng.
TS Nguyễn Hồng Thao cũng có cái nhìn tương tự, công hàm chỉ nhằm mục đích công nhận lãnh hải 12 hải lý. Ông cũng cho rằng công hàm có giá trị về chính trị hơn là pháp lý:
La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Ông Lưu Văn Lợi cũng viết tương tự:
«Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải phận rộng 12 hải lý và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải lý.
Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng không nói gì đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc?»
Trong bài phỏng vấn tiến sĩ Balazs Szalontai của BBC, ta cũng tìm thấy ý nghĩa khá giống như vậy:
Dẫu vậy, ông (Phạm Văn Đồng) có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
Chiếu theo tinh thần khoản 7 của Nguyên tắc Hướng dẫn, nếu nội dung văn bản không rõ rệt (việc nhà nước VNDCCH sẽ “ghi nhận và tán thành” cái gì) thì việc diễn giải nội dung tuyên bố này phải giải thích một các hạn chế. Đó là điều mà quí vị Monique Chemillier-Gendreau, Nguyễn Hồng Thao, Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai đã diễn giải.
Nhưng văn bản có hai đoạn văn: Đoạn 1 «ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc». Đoạn 2: chỉ thị cho các cơ quan nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Các vị này chỉ nói về đoạn văn thứ hai mà không xem xét đoạn văn thứ nhứt của công hàm 1958.
Nội dung của tuyên bố 4-9-1958 về hải phận của TQ là một tuyên bố khẳng định chủ quyền về lãnh thổ.
Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm 1958, đã có ý kiến về công hàm này. Nhà báo Frank Ching trong bài “Paracel Islands Dispute” trên Far Eastern Economic Review ngày 10-02-1994 ghi lại lời của Phạm Văn Đồng về nguyên nhân và nội dung công hàm 1958. Ông Đồng nói ngắn gọn, nhưng rõ rệt:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Cũng trong bài báo của Frank Ching nói trên, có ghi lại lời ông Nguyễn Mạnh Cầm:
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”
Như thế công hàm 1958 không phải chỉ “ủng hộ” bề rộng lãnh hải 12 hải lý như bà Monique Chemillier-Gendreau,TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai đã nói. Những người trong cuộc, ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm, đã nhìn nhận nội dung công hàm 1958 là công nhận chủ quyền của TQ ở HS và TS. Ông Phạm Văn Đồng biện hộ “nói vậy” vì lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Ông Cầm thì biện hộ vì HS và TS thuộc miền Nam quản lý, việc ủng hộ là “cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc”.
Nội dung công hàm 1958 sẽ rõ rệt hơn, nếu quí vị học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai xem xét thái độ của VNDCCH từ năm 1954 cho đến năm 1975 về hai quần đảo HS và TS. Ta sẽ tìm thấy nhiều bằng chứng nhà nước VNDCCH tôn trọng nội dung công hàm 1958. Trường hợp các bản đồ in sau 1958 một số có ghi HS và TS dưới tên Tây Sa và Nam Sa đồng thời ghi chú thuộc TQ. Hay các bài báo đăng trên báo Nhân Dân, xác định vùng biển, vùng trời HS thuộc TQ v.v… Các động thái này cho thấy chính phủ VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Và đó cũng là mục đích của công hàm 1958.
Mặt khác, bà Monique Chemillier-Gendreau có viết:
«Néanmoins, son silent devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.»
Tạm dịch: dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân.
Tuy đoạn văn này nối liền với đoạn văn dẫn trên của học giả Monique Chemillier-Gendreau nhưng không thấy học giả VN nào nói tới.
Thử xét thêm lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm. Vì HS và TS do VNCH quản lý do đó công hàm 1958 không hiệu lực. Ở điểm này, học giả Monique Chemillier-Gendreau cũng có cái nhìn tương tự: “người ta không thể cho cái mà người ta không có”.
Tuy nhiên, theo nội dung Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam là duy nhứt. Trên thực tế, VN có hai vùng lãnh thổ do hai chính phủ khác nhau về ý thức hệ lãnh đạo, nhưng trên quan điểm luật pháp quốc tế nước VN chỉ có một. Ông Cầm không thể viện dẫn việc HS và TS do VNCH quản lý thì có thể tuyên bố chủ quyền các quần đảo này của nước nào cũng được. Bởi vì, HS và TS thuộc bên nào quản lý thì chúng cũng thuộc về một nước Việt Nam duy nhứt. Khi chủ trương một quốc gia duy nhứt, hai nhà nước lãnh đạo hai vùng lãnh thổ khác biệt, đều có bổn phận như nhau trong việc bảo toàn lãnh thổ, cho dù phần lãnh thổ này do bên này hay do bên kia quản lý.
Mặt khác, lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm, cũng như của ông Đồng, đã xóa bỏ lập luận “công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến vấn đề chủ quyền” của các học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai về nội dung công hàm 1958. Nội dung công hàm bao gồm việc nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Học giả Greg Austin, trong cuốn China Ocean’s Frontiers, có ý kiến:
Of all the items of evidence presented by the PRC as proof of DRV recognition of Chinese sovereignty over the Paracel Islands, the most conclusive may be the note from the DRV Prime Minister supporting the PRC territorial sea declaration. The note was a government to government communication. And its subject was territorial sovereignty over, inter alia, the Paracel Islands; and the DRV not only raised no objection to the PRC claim but supported it.
Tạm dịch: Trong tất cả các yếu tố do TQ đưa ra làm bằng chứng cho việc VNDCCH đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Hoàng Sa, yếu tố có tính thuyết phục nhứt có thể nói là công hàm của Thủ Tướng VNDCCH ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của nước CHND TH. Công hàm này là một văn kiện trao đổi giữa chính phủ với chính phủ. Chủ đề của công hàm là chủ quyền lãnh thổ, trong đó có Quần đảo Hoàng Sa. Nước VNDCCH không những đã không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.
Nhấn mạnh ở câu: Nước VNDCCH không những đã không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.
6/ Về hoàn cảnh ra đời công hàm 1958:
Hầu như các bài viết của các học giả VN đều vịn vào lý do “chiến tranh”, lý do căng thẳng eo biển Đài Loan ở thời kỳ đó, lý do hai nước VN và TQ là “đồng chí, anh em” trong khối xã hội chủ nghĩa,… để biện hộ cho sự xuất hiện công hàm 1958. TS Nguyễn Hồng Thao, trong sách đã dẫn, viết:
La note de Pham Van Dong a pour but de satisfaire une demande de la Chine aux pays du camps socialiste en vue de la soutenir dans sa lutte contre la politique poursuivie par des Américains dans le détroit de Formose, qui menacait la sécurité nationale à l’époque. La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng có mục đích nhằm thỏa mãn việc yêu cầu, nhắm đến các nước trong khối XHCN, nhằm ủng hộ TQ trong cuộc đấu tranh chống lại khuynh hướng chính trị theo đuổi của Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan, thời kỳ đó đã đe dọa an ninh quốc gia nước này. Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Trang web BBC có tóm lược bài viết của “nhóm phóng viên biển Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết, nội dung như sau:
bối cảnh của bản Công hàm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc là thời điểm “có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan”.
Trong bối cảnh đó, bản công hàm được giải thích là “đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp”, tức “chỉ là những tuyên bố mang tính chính trị và ngoại giao chứ hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý”.
Trên VOA, có bài phỏng vấn TS Hoàng Việt:
Trước hết là về bối cảnh đưa ra công hàm mà năm 1958 ông Phạm Văn Đồng đã ký. Thứ nhất là lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vẫn còn như là anh em, vừa là đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải phóng Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, sau đó trao trả lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung Quốc chiếm lại từ tay một số lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và sau đó đã trao trả lại cho Việt Nam.
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm gì? Đấy là lúc đó hai nước tình cảm rất là chặt chẽ với nhau.
Đã ghi ở trên, ông Đồng giải thích bối cảnh ra đời công hàm:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Lời giải thích này đã xóa đi tất cả những lý lẽ «vì hoàn cảnh» mà các học giả đưa ra để cố gắng hóa giải hiệu lực công hàm 1958. Bởi vì ai gây chiến tranh ? Dĩ nhiên là phía VNDCCH. Chiến tranh không phải là tình huống bắt buộc. Chỉ cần phía VNDCCH ngưng chiến tranh thì ông Đồng sẽ không phải «nói như vậy». Tức đã không ký công hàm, đã không nhượng trên giấy tờ chủ quyền HS và TS cho TQ.
Nhà báo Frank Ching nhận xét lời giải thích này như sau:
Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
Trong khi bối cảnh thực sự mà tuyên bố của TQ ra đời, theo TS Balazs Szalontai :
BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
Tiến sĩ Balazs Szalontai: Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng Chín 1958.
Điều này tác giả cũng đã nói ở phần trên, đây mới là bối cảnh đúng đắng về hoàn cảnh ra đời bản tuyên bố của TQ. Sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.
Điều đáng trách là các học giả VN không một người nào nhắc đến Nghị định thư nói về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được Hội nghị LHQ thông qua cùng lúc với 4 công ước. Nghị định thư ghi rõ thể thức hòa giải trong các trường hợp có mâu thuẩn quyền lợi giữa các nước trong khi áp dụng các công ước. Dĩ nhiên ta thấy VN và TQ có mâu thuẩn về chủ quyền HS và TS. Tranh chấp này bắt đầu từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là mình không biết.
Như thế, việc dựa vào các lý do «hoàn cảnh» này kia, tình đồng chí anh em, tình trạng « chiến tranh »… để giảm thiểu hiệu lực công hàm 1958 (theo Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn) là điều hoàn toàn không thuyết phục.
«Hoàn cảnh» đúng, là bối cảnh Hội nghị LHQ 1958 về luật Biển, đòi hỏi VN phải có «ý kiến» về tuyên bố của TQ. Nguyên tắc một quốc gia VN duy nhứt buộc các chính phủ ở hai vùng lãnh thổ đều có trách nhiệm như nhau về lãnh thổ. Một vùng lãnh thổ thuộc bên nào quản lý cũng thuộc về quốc gia VN duy nhứt. Thay vì phải ra tuyên bố bảo lưu chủ quyền của mình ở HS và TS, VNDCCH lại ra công hàm công nhận tuyên bố của TQ.
Vịn vào hoàn cảnh «tình trạng chiến tranh», nhưng bên gây chiến là phía VNDCCH. Chỉ cần bên này ngừng chiến thì công hàm 1958 sẽ không hiện hữu.
Vịn vào lý do «đồng chí anh em» lại càng không thuyết phục. Trên quan điểm quốc tế công pháp, tình «đồng chí anh em» chưa bao giờ được một bên tranh chấp vịn vào để được hưởng trường hợp giảm khinh.
Tác giả dẫn ra thí dụ sau đây, cho thấy một lời nói “qua lại” bình thường giữa hai viên chức quốc gia, xảy ra trong một buổi gặp gỡ không chính thức, nó cũng có giá trị ràng buộc pháp lý. Đó là trường hợp tuyên bố của Bộ trưởng bộ Ngoại giao Na Uy, ông Ihlen, về chủ quyền của Đan Mạch ở Groenland ngày 22-7-1919.
Trong dịp gặp gỡ giữa hai thủ tướng hai nước Na Uy và Đan Mạch. Ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đan Mạch nói rằng quốc gia Đan Mạch không quan tâm đến vùng lãnh thổ Spitzberg, chính phủ của ông sẽ không phản đối việc Na Uy hành sử chủ quyền ở vùng đất này. Ông nói tiếp rằng quốc gia Đan Mạch mong muốn được mở rộng thẩm quyền về kinh tế và chính trị trên tòan vùng Groenland. Ông hy vọng việc này không bị Hoa Kỳ cũng như Na Uy phản đối.
Trả lời, Thủ tướng Na Uy, ông Ihlen nói rằng: «the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question».
Tạm dịch: Chính phủ Na Uy sẽ không làm một khó khăn nào trong việc giải quyết vấn đề này.
Đến khi tranh chấp Groenlan giữa Na Uy và Đan Mạch được đưa ra Tòa Án Công lý Quốc tế (CIJ) phân giải thì « lời nói » của ông Ihlen được tòa nhìn nhận là một « tuyên bố đơn phương», có hiệu lực ràng buộc pháp lý. Tuyên bố này nổi tiếng, trở thành một trường hợp nghiên cứu cho Luật quốc tế, được đặt tên là «Tuyên bố Ihlen».
Tuyên bố Ihlen có thể so sánh với trường hợp «lời nói» của ông Ung Văn Khiêm, thứ trưởng bộ Ngoại giao VNDCCH, nhân dịp gặp gỡ các viên chức ngoại giao TQ năm 1956. Ông Ung Văn Khiêm có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam như sau : chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ. Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào : Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài « Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa».
7/ Biết địch biết ta.
Trăm trận trăm thắng. Tuy nhiên, phía VN hình như rất dị ứng khi có người nhắc đến công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Những người nào bàn luận đến chủ đề này đều bị chụp mũ nếu không là Việt gian thì cũng là “Tàu”. Nhưng quyền lợi của đất nước cao hơn tự ái, danh vọng và quyền lợi cá nhân. Vấn đề công hàm 1958 là chuyện “của ta”. Chuyện của mình thì mình phải bàn luận tới.
Khi viết gần xong bài này thì đọc được “Thư ngỏ của các nhân sĩ, trí thức gửi Quốc hội, Lãnh đạo Nhà nước và Đảng CSVN”. Thư ngỏ có đoạn:
Nhà nước ta cần chủ động giải thích trước toàn dân và dư luận thế giới bối cảnh ra đời, nội dung thực chất và giá trị pháp lý của công hàm mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 về Biển Đông, để bác bỏ dứt khoát mọi xuyên tạc từ phía Trung Quốc.
Đã viết ở trên, công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là một văn bản thuộc phạm trù quốc tế chứ không phải là một văn bản hành chánh thuộc phạm trù quốc gia. Nhà nước có thể giải thích nội dung văn bản này theo ý của mình, nhằm xoa dịu dư luận người dân, như khuyến cáo của nhóm “nhân sĩ, trí thức” tác giả của thư ngỏ. Nhưng đây chỉ là một “liều thuốc an thần” như nhiều liều thuốc an thần khác trong quá khứ mà nhiều học giả khác đã hướng dẫn cho lãnh đạo CSVN. Nó không có ảnh hưởng gì đến hiệu lực của văn bản này trước luật lệ quốc tế. Trường hợp của nhà nước Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes là một thí dụ để mọi người nghiên cứu.
Chính phủ Hoa Kỳ ngày 3 tháng 8 vừa qua ra thông cáo báo chí về biển Đông, trong đó có đoạn đề cập đến khả năng giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài hay bằng một định chế pháp lý quốc tế:
We believe that claimants should explore every diplomatic or other peaceful avenue for resolution, including the use of arbitration or other international legal mechanisms as needed.
Các bản tiếng Việt thông cáo này đăng tải trong nước đều không dịch đoạn dẫn trên. Thái độ im lặng từ nhiều thập niên nay của nhà nước CSVN về khả năng giải quyết tranh chấp với TQ bằng một trọng tài quốc tế cho ta biết lập trường của VN: không giải quyết bằng trọng tài quốc tế. Nguyên nhân ra sao độc giả tự đoán.
Đề nghị của Hoa Kỳ là một cơ hội mà VN cần nắm lấy. Quyết định nắm lấy hay không thuộc về lãnh đạo CSVN nhưng cũng do khuyến cáo, áp lực của người dân trong nước, mà thành phần trí thức là tiêu biểu đi đầu.
Thất vọng biết bao nhiêu, không có một dòng nào trong thư ngỏ đề nghị giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế :
Chúng ta kiên trì giải quyết tranh chấp với Trung Quốc bằng phương pháp hòa bình, tuân theo luật pháp quốc tế. Chúng ta tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia khác ven Biển Đông, cùng nhau thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển, đặc biệt là đối với các đảo, bãi đá cùng với lãnh hải bao quanh theo đúng Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển.
Rõ ràng đây là việc “copy – paste » từ văn bản của nhà nước CSVN. Nếu không nói quá, đó cũng là luận điệu của phía TQ. Phía nào cũng nói giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, theo luật quốc tế, theo công ước LHQ về Biển…
Các bên nói cùng một luận điệu nhưng nền tảng lý lẽ mỗi bên mỗi khác. VN nói mình có chủ quyền ở HS và TS. TQ cũng nói y như vậy. Ai cũng khoanh vùng biển (theo qui định của Luật quốc tế về Biển) theo cách diễn giải của mình. Vấn đề cốt lõi là: nước nào có chủ quyền ở các đảo nào ? Đề nghị của Hoa Kỳ đúng là một cái phao cho các nước nhỏ như VN nắm lấy. Vì TQ là bên có sức mạnh, họ có lý lẽ của họ, họ có thể dùng vũ lực để áp đặt ý muốn của họ cho các nước tranh chấp.
Nhóm học giả, trí thức tác giả lá thư ngỏ không có một ý kiến nào mới hay đề nghị một phương pháp nào khả thi giải quyết vấn đề tranh chấp. Đề nghị “giải thích” lại công hàm 1958 không phải là một giải pháp, các viên chức CSVN đã từng giải thích ý nghĩa công hàm này, ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm là các thí dụ.
VN không có con đường nào khác là phải đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử. Đây là con đường mà VN có nhiều hy vọng nhứt để thắng, nếu biết cách hóa giải những ràng buộc pháp lý những hứa hẹn trước đây đã cam kết với TQ. Tôi đã đề nghị một giải pháp “kế thừa danh nghĩa VNCH” để hóa giải các hứa hẹn này trong các bài trước.
Vấn đề bảo vệ đất nước, nếu đi theo phương pháp này, đơn giản trở thành việc dân chủ hóa VN. Có bạn phàn nàn tôi vì sao cứ viết chủ quyền biển đảo mà không tranh đấu cho nhân quyền. Thực ra mục tiêu chính của đề nghị giải quyết chủ quyền biển, đảo của tôi cốt lõi là vấn đề “nhân quyền”. Dân chủ thực ra chỉ là cách nói khác của nhân quyền.
Nếu “án binh bất động” và tiếp tục “uống thuốc an thần” của các học giả “bốc” cho, VN chắc chắn sẽ bước vào xung đột vũ trang với TQ. Xương máu VN đã đổ quá nhiều cho lý thuyết không tưởng, cho những sự bịp bợm, cho những huyền thoại láo khóet trong quá khứ. Nhân dân VN không thể đổ máu thêm lần này nữa, nói là “giữ nước”, nhưng thực ra để giữ “thể diện” cho đảng CSVN. Giữ nước có nhiều cách để giữ, không tốn xương máu, chỉ cần trí tuệ và lòng can đảm.
© Trương Nhân Tuấn
© Đàn Chim Việt
Ai bán nước thì cả nước biết, bán nước là mang quân xâm lược ngoại bang vào bắn giết đồng bào VN trên chính nước VN mình, toàn dân VN từ bắc chí nam đã đứng lên đánh đuổii quân xâm lược và tay sai, giờ đây làm sao mà bóp méo sự thật được?
Reply
Đúng rồi,ai nghe lời ngoại bang giết hàng trăm ngàn người dân vô tội trong cải cách ruộng đất;ai tuyên bố :”ta đánh đây là đánh cho Liên xô,Trung quốc”đẩy 2 miền vào cảnh nồi da xáo thịt chết hàng mấy triệu người,ai rước hàng trăm ngàn lính trung quốc vào đóng ở miền bắc trong chiến tranh trước 75,ai ký công hàm dân HS-TS cho trung quốc,ai dấu diếm dâng hàng ngàn KM vuông biên giới và biển cho bọn tàu trong khi đó thì cấm tiệt nhân dân không được tìm hiểu,nếu không có ý đồ bán nước thì sao không công khai ?tại sao sau 37 năm hòa bình thì đất nước lại thu hẹp hơn trước chiến tranh,tại sao bây giờ trong nước cái gì cũng lệ thuộc tàu,từ truyền hình,sách báo,kinh tế,xã hội,chính trị văn hóa..
Còn năm 75,miền nam có mất một mét vuông đất nào cho Mỹ hay không?
Chế độ CS VN ngày nay còn nô lệ trung quốc hơn chế độ Trần Ích Tắc và Lê chiêu Thống khi xưa.
Chỉ có đồ đầu đất mới không thấy rỏ chế độ này là chế độ bán nước!
CỨNG HỌNG !
Đang ngậm KỦ cuả chàng Lý Thụy, và anh Tô
Nhà Bích có được bao nhiên caí bằng ‘Liệt sĩ” đốt ra mà uống
Mời Bích di cư qua Bác Hàn mà KHÓC !!
- Xin cuí đầu trước vong linh những OAN HỒN “SBTN” !!!
Đúng!!! ai đã “….mang quân xâm lược ngoại bang vào bắn giết đồng bào VN trên chính nước VN mình”. Tàu và BẮc Hàn đều thú nhận là đã mang quân vào tham chiến trong chiến tranh VN (xin đọc bản tin của BBC và Reuteurs, ngày 16 tháng 5 năm 1989. Ngày nay, đảng lại yêu cầu Mỹ trở lại VN để làm đối trọng với TQ, có phải cũng là “…mang quân xâm lược ngoại bang vào”??? chưa hết, ai đã mang giặc Tàu vào đóng quân trên Tây nguyên và ai đã bắn giết ngư dân VN trên biển Đông?? Toàn là “anh em với 16 chữ Dzàng khè” phải không????? Đúng là những tên bán nước hại dân lại còn dóc láo!!!!
Ngụy Quân Tử! Thế Mỹ, VNCH có bắt sống được thằng Nga, thằngTau, Thằng Bắc Hàn nào Không? Trong khí Bắc VN bắt sống bao nhiêu thằng mũi lõ, thằng mũi tẹt ở Miền Nam hả?
Ngụy Quân Tử! Càng nói nhiều, càng lòi cái dốt, cái nhục ra mà vẫn nỏ mồm???
phải gọi ông Ngụy Quân Tử là “Ngụy Tiểu Nhân” mới đúng chứ!
Hỏi vậy mà cũng…hưởi..Mấy ten kia chỉ xúi mấy anh thuốc lào làm bia thịt thôi. 1 triệu mốt cái xác chết cho chủ nghĩa tam vô, chưa kể cứ 5 anh em thì vô một chiếc xe…lăn mà không có một thằng đồng chí quốc tế vô sản nào chịu chết thế. Uống thuốc lú mà còn khen…ngon. Thiệt là có trí tuệ của đám lớp ba trường đảng.
Au stin Pham và cái lũ VNCH CCCĐ này dai như đỉa đói, sai bết nhè ra mà cứ vẫn già mồm. Vài năm nữa răng rụng hết may ra mới thôi! Cứ đang nói việc này , đuối lý thì lảng ra việc khác nói ba lăng nhăng chi khươn. Bọn này óc chắc toàn bã đậu phụ “Mơ” chính cống đây mà./.
Trúc Bạch nói như vậy vì CS bán nước rồi thì thôi không đòi nữa à????
Cả nhà mày sao mà ngu thế? cho dù CS nó bán nước nhưng không hợp pháp nên ta phải đòi lại chứ. Mày ghét CS quá đâm hóa rồ. Chính tên Trúc Bạch này mới là kẻ đang bán nước đây! một lũ các tên VNCH chống Cộng cực đoan là vậy , chính chúng mới là những tên đang bán nước
Bọn này đòi đánh đổ CS trước, đánh TQ sau nhưng chúng đánh CS gần một thế kỷ nay mà có được đâu. Chay te kèn, mất toi cả cái chính thể VNCH rồi, đi tỵ nạn già khú ăn tiền trợ cấp mà cũng đòi chống cộng?
Có lúc chúng lại rêu rao để TQ đánh đổ CSVN xong rồi mới đánh TQ- Thử hỏi có ai lại có thế ngu như mấy cái loại này không? TQ mà diệt xong CSVN này thì nó lại dựng CSVN khác lên còn ghê hơn CSVN bây giờ. Không biết ông bà nào đẻ ra cái thằng Trúc Bạch, sao mà nó quá ngu vậy../.
NÓI VỀ Ý NGHĨA CỐT LÕI NƠI CÔNG HÀM CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG 1958
Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng cho thấy miền Bắc lúc đó nhìn vấn đề quá đơn giản. Có lẽ họ chỉ quan tâm ý thức hệ là chính, chủ nghĩa CS mác xít là chính, hay đối đế cũng là vấn đề “đế quốc Mỹ” là chính, không hề nghĩ mối quan hệ bất trắc sau này trong tương lai giữa nước nhà và TQ. Chắc bởi họ chỉ nghĩ tới ý nghĩa và mục đích của thế giới vô sản, của tương lai quốc tế đại đồng, nên thà có nhượng cho TQ một phần nhỏ nào đó lãnh thổ đất nước cũng cứ làm, không thể để cho bọn “Mỹ ngụy”, nhất là “đế quốc Mỹ” lấy được.
Cũng bởi cái nhìn cạn hẹp, hay vì phải lệ thuộc TQ trong thực tế, mà khi TQ vừa mới tuyên bố chủ quyền hải phận 12 hải lý của mình, chỉ độ mươi ngày sau, Thủ tướng miền Bắc lúc ấy là PVĐ đã gửi Công hàm cho Quốc vụ Viện TQ để nhất trí tán thành, ủng hộ tuyên bố này. Điều này cho thấy lúc đó dường như VN không hề nghiên cứu ý nghĩa các vấn đề liên quan về biển đảo của VN gì cả. Tức có nghĩa lúc đó miền Bắc hoàn toàn không am hiểu hay không quan tâm gì về các ý nghĩa pháp lý, pháp luật trên phương diện quốc nội cũng như quốc tế gì hết. Đây là điều rất đáng ngạc nhiên, vì chẳng lẽ khi đó miền Bắc không còn những người hiểu biết về luật nào cả. Bởi vậy chỉ giải thích được là tinh thần ý thức hệ quá mạnh, tính cách toàn trị độc đoán quá mạnh, làm cho tất cả xã hội đều bị tê liệt, không còn có năng lực hay điều kiện suy nghĩ gì khác ngoài ý chí, mong muốn của người lãnh đạo.
Cái ngây thơ, nông cạn của miền Bắc lúc đó là không nhìn xa thấy rộng, chỉ để nhu cầu và ý nghĩa chính trị lấn át tất cả mọi ý nghĩa chính đáng khác. Phạm Văn Đồng lúc ấy là Thủ tướng, không thể tự mình tuyên bố nếu không có sự thống nhất về lãnh đạo của cấp cao hơn, đó quả tính cách toàn cục của sự việc là như vậy. Nên chỉ có thể giải thích ở đây bốn điểm : 1/ Miền Bắc lúc đó chỉ làm theo TQ mọi điều, thiếu hẳn tính độc lập, tự chủ phải có. 2/ Chỉ say sưa có mục đích ý thức hệ, không còn biết trời đất trăng sao gì nữa. 3/ Tham vọng quyền hành, địa vị cá nhân làm mờ tối mọi trách nhiệm đối với dân tộc, đất nước. 4/ Hoàn toàn mù tịt về các ý nghĩa pháp lý nói chung, hoàn toàn thơ ngây đối với mọi ý đồ xâm lăng, bá quyền của giới lãnh đạo TQ nói riêng ngay vào thời điểm đó.
Tất cả các điều hời hợt đó còn cho thấy nội dung của Công hàm chỉ vọn vẹn chưa đầy nửa trang giấy, đề cập một cách chung chung, thô lậu về một vấn đề hết sức quan trọng có liên quan tới lãnh hải, biển đảo toàn diện của đất nước. Công hàm thể hiện việc chỉ coi như chuyện chơi, như một kiểu công văn ngoại giao do chính cấp Thủ tướng ký gởi đi công khai mà không được sự lý giải chi tiết nào khác, hay không do cấp trên nào tuyên bố hoặc ký kết long trọng gì cả. Bởi tuy chỉ là lời tuyên bố của TQ về lãnh hải của họ, nhưng phải thấy tính pháp lý rất nguy hại cho VN nếu VN chấp nhận mà không phản đối, vì nhiều khu vực lãnh hải và biển đảo của VN đương nhiên phải nằm trong đó. Cái ngây thơ, đường đột, thậm chí dại dột của bức Công hàm chính là như thế. Giống như một việc đùa mà thật, một việc chơi nhưng hậu quả rất nguy hiểm, một tình huống chữa cháy có tình hình thức, bề ngoài, nhưng lại cho thấy sự thụ động, phụ thuộc, sự ngờ nghệch cùng tính chất hết sức vô ý thức, vô trách nhiệm, không nhìn xa thấy rộng, thiếu hẳn tầm nhìn chiến lược hay tầm nhìn sâu xa về mặt lịch sử đất nước cũng như mặt quốc tế rộng lớn, bao quát, sâu xa cần phải hiểu đến.
Nên ngày nay mọi người VN có ý thức, cả nhà nước và nhân dân, phải nhìn vấn đề cách tĩnh táo, khách quan, không thể lấp liếm, biện bạch theo kiểu thiếu cơ sở, vì như vậy không có lợi gì mà còn vô duyên, vô bổ, vô hiệu và không thật sự kết quả.
Bởi vì vấn đề chính yếu là tham vọng bá quyền, thực dân, đế quốc của TQ, không phải các hình thức văn bản, giấy mức bề ngoài. Bởi nếu có ý nghĩa của Công hàm đó thật, nhưng nếu TQ là đất nước nghiêm chỉnh, đàng hoàng, chưa chắc đã có hệ lụy gì. Song với ý đồ xâm lược thật sự, dù Công hàm kia chỉ mang tính chất thế nào, cũng là công cụ lợi hại nhất mà TQ luôn bám riết, không bao giờ nhả ra nữa cả.
Nên ngày này chỉ có ba sự lý giải duy nhất để triệt tiêu hóa cái Công hàm quái ác kia là :
1/ Do Tuyên bố đơn phương của TQ về chiều rộng hải phận và biển đảo của họ là vi phạm thông lệ quốc tế, không được quốc tế thừa nhận, do đó hoàn toàn không có giá trị mặt pháp luật quốc tế, bởi vậy cũng kéo theo ý nghĩa Công hàm 58 của PVĐ là không có ý nghĩa pháp lý gì đối với VN nói chung về các mặt.
2/ Khi phát đi Công hàm, ông PVĐ chỉ là Thủ tướng của nước VNDCCH, tức chỉ mới là miền Bắc, một nửa lãnh thổ của VN, chưa hề có giá trị toàn quốc, vì lúc ấy miền Nam VN là nước VNCH đang có mặt, đang quản lý các vùng lãnh hải, hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa, không phải là miền Bắc. Như thế về mặt hành chánh pháp lý, mặt pháp luật, mặt thẩm quyền, mặt lãnh thổ nói chung, Công hàm 58 không hề ràng buộc đất nước VN đã thống nhất ngày nay.
3/ VN thống nhất ngày nay là một sự nhập chung hai nước, VNDCCH và VNCH về mặt lãnh thổ và lịch sử, xã hội cũng như nhân dân. Cả chế độ và nhà cầm quyền cũng hoàn toàn mới ngày nay. Có nghĩa cả chính phủ VNDCCH và chính phủ VNCH đều không còn nữa. Công hàm 58 bởi vậy chỉ ràng buộc chính phủ VNDCCH, không ràng buộc chính phủ VNCH, cũng không thể ràng buộc cả nước VN hiện tại tức chính phủ CHXHCNVN hiện nay.
Nhưng đó cũng chỉ là mặt ý nghĩa pháp lý, ý nghĩa lý thuyết, nguyên tắc. Song thực chất lại là nhu cầu và tham vọng bành trướng, bá quyền của nhà nước TQ. Sự đối kháng về thực lực của VN ra sao để chận đứng TQ, ý chí của giới cầm quyền VN ra sao để giữ vững đất nước và nền độc lập dân tộc, đó mới chính là điều hệ trọng, quyết định và căn cơ nhất, không phải chỉ ngồi đó nhằm cãi suông về bức Công hàm nông nỗi, dại dột, tệ hại, và cũng hết sức nguy hiểm nhiều mặt như đã nói trên.
ĐẠI NGÀN
(12/8/12)
Xin lổi cụ Tản Đà.
Tên Phạm công-hàm ngu quá lợn.
Thế nên Trung Công chiếm Hoàng Sa.
Đảng Hồ giặc Vẹm vô cùng tệ.
Bán cả từ-đường lẩn mả cha.
Người San Jose
Ông Hồ và ông Đồng bán HS cho trung cộng ,ai bán ải nam quan ,thác bản giốc,mấy trăm cây số vuông giọc theo biên giới việt trung ,vịnh bắc bộ. nói chung là đảng csvn là đảng bán nước.
Hãy đơn giản vấn đề. Thời điểm khi Phạm Văn Đồng tuyên bố, Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về VNDCCH mà đang thuộc về VNCH.
Anh có thể tuyên bố bất cứ gì anh muốn nhưng cái không thuộc về anh mà anh tuyên bố đem cho hay bán cho người khác thì có tính hợp lý trên pháp lý không? Chính quyền China hay Phạm Văn Đồng (VNDCCH) không thể tuyên bố hay tự nhận Hoàng Sa hay Trường Sa là của họ khi nó không thuộc về của họ. Có ai chấp nhận lời tuyên bố phi lý của một anh cảnh sát là $100 của anh A đang ở trong túi anh A là thuộc về anh B dù anh A đang sống trong nhà anh B? Nếu Phạm Văn Đồng gửi công hàm tuyên bố đảo Guam của Mỹ thuộc về China thì nó có thuộc về China không? Luật pháp quốc tế có chấp nhận không?
Không cần biết PVĐ có tuyên bố hay gửi gì cho chính quyền China, nó không đơn thuần hiểu sẽ thuộc về China. Vấn đề không phải là pháp lý quốc tế không phân giải được mà vấn đề là cộng sản Hà Nội không chịu đem ra LHP để xử mà lại chấp nhận mất vì đã bán.
kbc3505
KHÔNG CÒN NGHI NGỜ GÌ NỮA!! Hồ chí minh và đảng cướp mafia CSVN chính là phản quốc, làm tay sai và bán nước cho Tàu đổi lấy vũ khí để xâm lăng miền Nam cướp của giết người. Xin cám ơn tác giả Trương Nhân Tuấn về những nghiên cứu của ông đã vách trần lột mặt thật bán nước hiếu chiến của Hồ chí minh và đảng CSVN cho toàn dân VN được rõ. Bọn chúng không còn gì để chống đỡ ngụy biện gì được nữa rồi!!!! Đọc xong bài viết này, người người rơi lệ thuơng cảm xót xa cho quê huơng VN, đồng thời trong lòng cũng trổi dậy sự căm thù dành cho bọn CSVN đã nhu nhược bán nước hại dân.
Hồ Chí Minh và cái chính phủ VNDCCH của ông ta tuyên bố trước thế giới :
“Chính phủ VNDCCH do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là người đại diện hợp pháp duy nhất, đại diện cho quyền lợi của toàn thể nhân dân VN !” , và rằng “Ngụy quyền Saigon do thực dân, đế quốc Mỹ dựng lên là bất hợp pháp !”
Trung Cộng cũng nói :
“Chính Phủ nước CHND/Trung Hoa chỉ công nhận chính phủ Hồ Chí Minh là chính phủ hợp pháp, duy nhất, đại diện cho quyền lợi của toàn dân VN ”
Như thế thì rõ ràng đối với TC, thì việc thuận mua vừa bán giữa hai kẻ “hợp pháp” là rất….hợp pháp .
Cái công hàm bán nước do Hồ Chí Minh chỉ thị Phạm Văn Đồng ký vẫn tiếp tục có giá trị đối với Trung Cộng, chừng nào các chính phủ “kế thừa sự nghiệp Hồ Chí Minh” vẫn còn “là chính phủ hợp pháp duy nhất, đại diện cho quyền lợi của nhân dân VN” !
Hồ Chí Minh ba hoa (văng cả nước bọt) rằng :
“Nước VN là một, Dân tộc VN là một; Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi !”
Ấy thế mà nước bọt chua kịp ráo thì Hồ đã công nhân HS-TS và 85% Biển Đông của VN là của Tầu ..Bây giờ đám hậu duệ lại còn gượng gạo chống chế rằng, vì “HS-TS thuộc quyền quản lý của VNCH nên bác có công nhận là của TQ thì cũng chả tội tình gì, chả mất mát gì của…bác !”
Bộ “Thuộc quyền quản lý của VNCH” thì không phải là của VN à ? Sao miệng lưỡi cs lại có thể tráo trở, đến thế ?
Thuộc quyền quản lý của VNCH thì cũng là của VN, chứ có phải là của Tầu đâu mà dám công nhận là của…Tàu ?
Cho dù vì thế nào mà phải “bán nước” thì cũng là “bán nước”, huống chi bán nước để có tiền mà hoàn thành nghĩa vụ quốc tế , Tức bán nước có mục đích, có “chủ trương” (hoàn toàn do chủ quan).
Tội bán nước nhất định phải bị trừng trị !
Muốn lấy lại đồ ăn cắp thì trước hết, phải chỉ đích danh và lôi thằng ăn cắp ra tòa .
Còn cố chạy tội cho thằng ăn cắp thì đừng hòng lấy lại đồ bị mất cắp .
Uổng phí mang danh “trí thức,học giả” đang cố gượng gạo chạy tội cho những thằng bán nước, cho dù biết rằng như thế là phản quốc .
Trúc Bạch nói như vậy vì CS bán nước rồi thì thôi không đòi nữa à????
Cả nhà mày sao mà ngu thế? CS nó bán nước nhưng không hợp pháp nên ta phải đòi lại chứ. Mày ghét CS quá đâm hóa rồ. Chính tên Trúc Bạch này mới là kẻ đang bán nước đây! một lũ các tên VNCH chống Cộng cực đoan là vậy , chính chúng mới là những tên đang bán nước./.
Chú CAM này lúc thì Tú,lúc thì Thân,lúc thì Bích,nhân dạng đổi xoèn xoẹt như con cắc kè !
Ráng gân cổ chạy tội cho bè lũ CS bán nước cho nhiều lên nhé,không thôi thì không có được hộp cơm trưa đâu !
Ông Trúc Bạch viết chổ nào là không đòi lại đâu ! chỉ coi ? đồ vẹm có khác !
ABC mới là thằng ngu. Ông Tú nói vậy là ông ấy cũng chống CS nhưng ông không chịu nổi cái bọn cũng mang danh chống Cộng nhưng quá ngu làm xấu hổ lây những người chống Công thật sự.
Rõ ràng ở Mỹ người ta phân rạch ròi ra mấy vị chống Cộng Cực đoan, vừa ngu vừa nỏ mồm. Cứ ai trái ý chúng là chúng cho là CAM, là Vẹm, là CS nằm vùng hết. Nếu vậy ở Mỹ phải có đến hàng triệu tên CAM, tên VEM… và giỏi lắm chỉ có vài nghìn người chống Cộng là mấy ông VNCH mà thôi.????/../.
Kẻ nào còn đủ liêm sĩ để bênh vực cho bọn bán nước, thì không ngòai thằng cam ra, thì là ai ?
Tên cam Tú này mà chống cộng, thì thằng già Hồ cũng đội mồ nhảy tưng tưng ở Ba Đình vì nó… tức ! Làm cam ăn cơm hộp, phục vụ cho Hán tộc là xấu ? nên không dám nhận ? thì đừng làm ! Hãy lao động lương thiện như bao thanh niên khác tại VN.
Có nhiều người cho rằng: Việt Nam bị đuối lý nên không dám sữ-dụng giải-pháp trọng-tài và định-chế pháp-lý quốc-tế. Dù giãi-quyết bằng cách nào,như thế nào thì bộ mặt bán nước của đảng Rợ Hồ đã phơi-bày ra trước mắt toàn-thể người Việt Nam,không thể chối cãi.
Bọn chúng dùng tiền bán nước để mua súng đạn,thuốc men,các trang-bị quân-sự của Tàu Cộng từ sợi dây lưng, đôi dép râu,bình-toong đựng nước uống cho đến bánh lương khô.Rợ Ba Đình dùng những thứ ấy để làm gì?Để giết người miền Nam nhằm mục-đích chiếm-đoạt đất-đai và cướp bóc tài-sản.Chúng đã thành-công. Hiện nay bọn cán-bộ đảng-viên Việt Cộng giàu nứt đố,đỗ vách.Nhất là bọn ở Ba Đình.
Người San Jose
Việt Nam thận trọng chưa đưa ra trọng tài QT vì đã có philipine đưa ra tòa án QT rồi. VN còn nghe ngóng xem sao, để rút kinh nghiệm? Chủ yếu chờ TQ lộ hết bài rồi mới phản công.
VN cũng biết Mỹ không thể để TQ độc chiếm Biển Đông. Kiểu gì Mỹ cũng phải nhảy vào nên VN tạm cố nhún nhường để Mỹ-Trung đấu nhau ở giữa được lợi (Trai cò đánh nhau, Ngư ông đắc lợi). Chúng ta cứ chờ đấy mà xem./.
Nhưng mà,thưa ông !
Trai Mỷ và cò Tàu khôn hơn ngư-ông Việt Nam thì phãi làm thế nào?
Người San Jose
Cứ chờ đấy, chưa biết ai khôn hơn ai?
Khi Pháp xây xong căn cứ ĐBP, Pháp rải truyền đơn thách VM dám đến đánh, vậy cuối cùng kết quả ra sao?
Khi Mỹ ném bom miền Bắc VN, Mỹ tuyên bố “cho VN trở về thời ký đồ đá”, Vậy cuối cùng kết quả ra sao?
Giờ thì TQ dọa “cho VN một bài học”, Vậy cứ chờ xem cuối cùng kết quả ra sao?
Bây giờ là năm 2012 rồi ông ạ, tàu sau 30 năm mở cửa cho tây phương vào làm ăn,qua đó vừa học hỏi vừa ăn cắp kỷ thuật ,nên cái kỷ thuật quân sự của tàu bây giờ cũng ghê ghớm lắm,Mỹ còn phải ghờm,ông hãy vào internet,vô các trang về kỹ thuật quân sự,xem thế giới họ so sánh trình độ của các nước,từ súng trường,đại bác,xe tăng,trực thăng,phản lực chiến đấu,tàu lặn v.v…ông chưa thấy quan tài nên chưa đổ lệ,phải biết người biết ta một chút,đừng có cắm cái đầu duy ý chí xuống cát,cho ta là number-one,rồi chết hồi nào không hay ông ạ!
Bây giờ mà còn tiền pháo hậu xung,chiến thuật biển người ha ha,con nít nó cười cho !
Cái ông ABC này, chính ông mới là người mù tịt.
Thưa ông ABC!
Ông ABC thích nghe học giả thế giới bình luận thì thử nghe học giả TQ bình trước cái đã nhé” Đọc cho kỹ vào!
Mời ông ngước nhìn lên trên mà đọc bài của ông Tân gửi cho chính ông!
TÂM SỰ CỜ VÀNG
Lại hết một năm sống tha hương.
Ba mấy xuân qua vẫn đọan trường.
Cộng sản vẫn còn, ta chưa chết.
Nhưng biết bao giờ thấy cố hương?
Quốc hận hằng năm vẫn nhớ ngày
Ôm niềm uất hận lết sang đây,
Ngày xưa nhớ cái năm năm bốn
Cũng tại cộng nô phải chạy dài.
Số kiếp di cư đến hai lần
Hai lần nhưng vạn nỗi gian truân.
Lần sau còn nhục hơn lần trước,
Vứt cả ba lô cởi cả quần.
Cũng tại ta xui mới thế này
Thầy ta đừng chạy chúng biết tay
Phải chi thầy thí vài trăm triệu
Đâu phải chạy te vứt cả giày.
Dù bỏ chạy te vứt cả giày.
Nhưng ta nào có sợ chúng bay.
Chẳng qua cũng chỉ vì thời vận
Tại số nên ta mới như vầy.
Ta quyết không quên mối hận này.
Con không làm được cháu ta thay
Cờ vàng ta phất không ngừng nghỉ.
Rồi sẽ có ngày chúng biết tay
Ta vẫn cờ vàng vẫn duyệt binh
Vẫn hát vang lên khúc quân hành
Để cháu con ta luôn ghi nhớ
Hình ảnh hào hùng lớp cha anh.
Dù là quần áo chợ si đa
Dù chẳng súng gươm cũng gọi là
Quân đội cộng hòa thời oanh liệt,
Để ta ôn lại quãng đời ta.
Ta phất cờ vàng giữa cờ hoa
Cờ hoa cứu giúp chở che ta
(Không có cờ hoa ta lạnh gáy
Cộng sản rập rình rét bỏ cha.)
Nhớ về hòn ngọc viễn đông xưa
Nơi ta hoan lạc suốt bốn mùa
Tên em ngày ấy không còn nữa
Còn lại nơi này cái little.
Thế mà chúng cũng chẳng buông tha.
Theo đến nơi này xứ cờ hoa.
Cái little kia nào có tội
Chúng cũng vặt luôn tức bỏ bà.
Mấy chục năm ròng giữa chốn đây.
Eo phe (welfare) vẫn lãnh vẫn ăn mày.
Phút tem (food stamp) không có đời ta tận
Bởi thế cho nên phải lụy thầy.
Ta chạy sang đây đã cùng đường
Thế nên ta vẫn phải khói hương
Tâm nguyện khấn cầu ông thánh Mỹ
Phù hộ ta tròn mộng hồi hương.
Thầy ta ta dựng tượng phụng thờ
Cũng vì ơn nghĩa những năm xưa
Thế mà chúng bảo “quân chơi đĩ ”
Năm mươi tám vạn hồn có biết chưa
Hỡi chúa hỡi thần hỡi Ala
Hỡi Mô ha mét hỡi Di đà,
Cộng nô láo xược không vặn cổ
Lại cứ vặn nhầm cổ chúng ta.
Thà ta nô lệ xứ cờ hoa
Quyết không về lại chốn quê nhà
Làm mướn, cu li, hay rửa chén,
Rửa đít cho thầy cũng sướng cha.
Rửa đã bao năm rửa mòn tay,
Nhưng vẫn không quên rửa hận này.
Đời ta không được, đời con cháu,
Quyết diệt cho tiêu bọn chúng mày.
Trung cộng âm mưu chiếm Trường Sa.
Đã lâu mới có dịp hò la.
Cầu trời nó chiếm luôn Hà nội.
Cho đáng bọn mày hả dạ ta.
Trung cộng to đầu thế mà ngu.
Đất liền không lấy lấy san hô.
Sao bay không chiếm luôn cả nước,
Chẳng lẽ bọn mày sợ chúng ư.
Bay cứ đánh đi có chúng tao
Tuy tao chẳng có tí quân nào
Nhưng tao có cái mồm to khỏe.
Chống cộng nhưng tao khoái ba tàu.
Ta có cờ vàng có ống loa
Có kèn có trống có cờ hoa.
Tuy hô đả đảo thằng trung cộng
Nhưng chống chỉ là Cộng xứ ta.
Chẳng lẽ xuống đường chống tụi bay
Mà không đả đảo thật hăng say.
Thì ai mà biết ta yêu nước.
Nhưng tấm lòng ta khoái chúng mày.
Hàng hóa Việt Nam bán dẫy đầy
Nhưng ta cương quyết phải tẩy chay
Thà ta ủng hộ hàng tàu chệt
Cho lũ cộng mày chết trắng tay.
Nhớ nước ta càng thêm uất ức,
Thương nhà tiếc mãi cái vila.
Sang đây cam phận thằng ở đợ
Cũng tại bọn mày lũ cộng nô
Lạy thánh A la lạy chúa tôi
Con chống bao năm quá đuối rồi
Sức kiệt lực tàn đành chống gậy.
Nay còn chỉ mỗi cái mồm thôi.
Xin chúa hộ phù lũ chúng con
Vặt cho chết hết lũ tham tàn
Mai này phục quốc con xây tượng
Xây nhà thờ mới đẹp to hơn.
***
Mấy chục năm ròng giữa chốn đây.
Bưng bê rửa bát đã bao ngày.
Vẫn chưa rửa được niềm căm hận
Ôi biết sao vơi mối thù này.
Hay, hay, hay.
Hỡi ơi! Súng “Việt Cộng” đất rền; lòng “dân HO” trời tỏ.
Mười năm công “Huấn luyện”, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh “Việt Cộng”, “chạy tụt quần” mà tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cui cút “mần ăn”;
Toan lo “hút sách”.
Chưa quen “chiến trận”, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết “năm queo”, ở trong làng bộ. Việc “hút sach”, việc “bia ôm”, việc rượu chè , việc “gái mú”, tay vốn quen làm;
Tập AR15, tập M16, tập “nhảy dù”, tập “chiến thuât”, mắt chưa từng ngó.
Ôi thôi thôi!
“Thành CALI …” năm canh ngưng đóng lạnh, tấm “lòng Non” gửi lại “bát cháo lòng”;
“Thù Việt Cộng” một khắc đặng trả hờn, tủi phận “cờ vàng” bạc trôi dòng nước đổ.
Đau đớn thay! “ông già” “đòi chống Cộng”, “Cờ vàng bay” leo lét trên đường;
Não nùng thay! “Chân yếu lại ngông cuồng”, cơn bóng xế “VNCH đã lụi”.
Ôi!
Một trận khói tan 1975;
Nghìn năm tiết rỡ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hương “VNCH”.
Đây là bài ” Văn tế nghĩa sỹ VNCH” được Vân Vân biến tấu từ bài “Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Rất hay! Rất có ý nghĩa thực tế./.
Sao ông, bà Vân Vân không làm 1 bài văn tế cho cái thằng đang nằm dỏng C… tại Ba Đình nghe hay hơn !
Văn tế người anh hùng Pắc Pó !!
Hỡi ôi! Súng ” Trung Quốc” đất rền; lòng ” GẠC MA ” trời tỏ.
Bao năm thập thò hang Pắc Pó, danh nổi như cồn !
Nào những lúc hạ ĐAO , hiếp râm bày em sơn cước !
Nhớ linh xưa:
Thùi thụi ” đạp mái ”
Nhi đồng miềm Nam !!
Dầu đã quen chiến trận Pac Pó.
hiếp râm theo thế :bày đàn tập thể, xong trảm đầu, diệt miệng thế gian !
Hởi ôi ! nhi đồng miền Nam thơm như múi mít !
BÁC bèn đưa các em ” vào đời” …dạy dỗ nguồn cơn !
Em nào muốn sống mà về miền Nam cùng bố mẹ .
Thì khuyên rằng chớ có nhiều lời !
Sau này chồng hỏi, cháu cứ đổ quờ thằng lính miền Nam, cháu nhé !
Ôi thôii, thôi!
Lăng Ba Đình, anh dỏng C…. năm nhớ !
Một thửa nào “chinh chiến” Nông Thị Xuân !
Những tưởng bạc đầu cùng em Nông Thị.
Không ngờ rằng em được thể, đòi hư danh .
Cái chà vồ mới có cớ đập đầu em !
Rồi quảng ra đường cho xe cán nát.
Đau đớn thay,
Anh nằm đây, co giật từng hồi !
Nghìn năm tiết rỡ.
DÂM THẦN một mệnh trời ban !
He, he, he !
Tuấn Cường: Cái trò “trâu nhai lại” chỉ ca ngợi Tàu, ngu mà không biết mình ngu!
Ô.Việt đọc xem trong đây có chổ nào ca ngợi Tàu ? Bởi tên Vân Vân “nhai lại”, thì tớ cũng “nhai lại” theo ý hắn mà thôi !
– Cái GẠC MA nhục nhã ông muốn mọi người quên ? sao lại mang VNCH ra bêu riếu ?
– Cái chế độ BÁN NƯỚC, mà chưa bao giờ thấy NHỤC cho việc bán nước của mình, mà cứ bai bải bôi xấu kẻ khác, thì tôi đây bêu xấu lại tên ĐẠI MA ĐẦU BÁN NƯỚC Mình Chí Hô cho bỏ ghét !
– Cái chế độ của anh ĐÁNH THUÊ cho thằng Tàu đến VN phải ra nông nỗi này mà bây giờ còn giả vờ ” chỉ ca ngợi Tàu, Anh chửi ai ngu ? Anh mang cố tổ ba đời HỒ GIÀ vừa dốt vừa dại , kẻ đã mang cả dân tộc ra làm TÔI MỌI cho giặc phương Bắc, để hôm nay đưa dân VN vào thế sống dở chết dở !
Một bọn THÚ NGƯỜI, ăn vài ba hột cơm của thằng Tàu bố thí cho mà đánh lại nhân dân VN, bất kể liêm sĩ !
Còn tiếp tục văn tế mà bôi nhọ VNCH, thì tôi cũng tiếp tục ứng chiến !
Đáng quá, bửa giờ ăn ý, cứ ” nhai đi nhai lại ” cái bài văn tế này!
Đời họat động của HỒ BÁN NƯỚC nó là thế ni, đọc nghe ngứa tai quá phỏng ?
Bài văn tế qúa đã ! hê, hê !
Bán nước thì yên cái phận hèn đi. Nhiều chuyện đi bôi xấu cái chế độ biết đánh Tàu, đánh bọn tay sai , thì dân nó mang cái tên HỒ LÁ ĐA ra chửi, bọn bây bể nồi cơm. Nhớ đó !
Bắt chiếc cũng phải có kiến thức, tôi ủng hộ Tuấn Cường chửi CS nhưng tôi thấy Tuấn cường chửi ngu quá. Đọc xong bài của ông tôi thấy nó chẳng giống giọng “văn tế” gì cả. Hình như ông cũng không hiểu văn tế thì phải viết ra sao? Xem kỹ bài bà Vân viết mà học người ta. Cùng chống CS, nhưng tôi thấy xấu hổ về mấy người chống Cộng như các ông. Chống Công cũng phải tỏ ra là mình có văn hóa, có hiểu biết chứ!
Xin lổi nhe, cái thói giả đò làm người chống cộng để chửi nhàm quá, biết che cái thân phận TÔI MỌI vì cho rằng mình xấu ? thì đừng làm cam !
Ai ở không mà đi làm văn tế ? Chắc hết chuyện để làm ? Người ta không dúi đầu nó xuống hầm là may !
Động đến chế độ cũ là người ta mang ten già bán nước này ra phỉ nhổ, ráng chịu nhé !
có trình độ, có bằng cấp mà đi làm cam ?
– Bán nước mà cũng cần văn tế à ? Sống cho đàng hòang thì người ta làm văn tế cho !
TUẤN CƯỜNG
Văn tế
Quá hay
Trần Thành- Chột dạ
Đặt bày chê bai !
Tuán Cường- văn tế- Thiên tài !
TRẦN THÀNH !
-Bác TẾ một bài xem chơi !
@ Hoan hô Việt Anh – Hoàng… một phát ! hehehe
Tuyệt thi tác, bài này so sánh ngang gía trị với bài Di lụy cờ vàng của tác gỉa Như Ba đăng trên diễn đàn DCV. net và DCV.inf trước đây.