Công hàm 1958: một vấn đề thuộc phạm vi công pháp quốc tế
Về một số ý kiến tiêu biểu của các học giả trong, ngoài nước về nội dung và hiệu lực ràng buộc của công hàm 1958.
Kính gởi: các cơ quan truyền thông BBC, VOA, RFA… về những bài trích dẫn, hay những bài có liên quan đến chủ đề.
Kính gởi: Quí học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, học giả Lưu Văn Lợi, Tiến sĩ Balazs Szalontai, Thạc sĩ Hoàng Việt, Nhóm phóng viên Biển Đông… vì những ý kiến trích dẫn.
Kính gởi: “các Nhân sĩ , Trí thức”, tác giả thư ngỏ “Thư ngỏ của các nhân sĩ, trí thức gửi Quốc hội, Lãnh đạo Nhà nước và Đảng CSVN” vì ý kiến trích dẫn.
Kính gởi, đồng thời cám ơn, các trang báo Dân Luận, Đàn Chim Việt… những trang báo đã tạo điều kiện cho một “tiếng nói khác” có cơ hội được bày tỏ chính kiến của mình.
—————————————————————–
Công hàm ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng là tài liệu quan trọng nhứt của phía TQ đưa ra nhằm chứng minh VN đã công nhận chủ quyền của nước này tại HS và TS.
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải quốc gia. Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau:
Điều 1: Lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý. Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3: Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của TQ thì không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ.
Điều 4: Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả HS và TS.
Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm 1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau:
«Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. »
1/ Công hàm 1958 là một «tuyên bố đơn phương»:
Nhiều người gọi «công hàm» 1958 của Phạm Văn Đồng là «lá thư» của ông Đồng gởi cho ông Chu Ân Lai, với hy vọng làm giảm thiểu tính quan trọng của văn bản. Thực ra việc gọi thế nào không quan trọng, mà quan trọng là trên quan điểm quốc tế công pháp văn bản này có hiệu lực pháp lý hay không?
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ thông qua (từ nay gọi tắt là Nguyên tắc Hướng dẫn) có nội dung:
Des déclarations formulées publiquement et manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.
Tạm dịch: Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng.
Khoản 5 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
5. Les déclarations unilatérales peuvent être formulées par écrit ou oralement.
Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết hay bằng lời nói.
Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đã thể hiện một cách công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.
Khoản 2 của Nguyên tắc Hướng dẫn:
2. Tout État a la capacité d’assumer des obligations juridiques par des déclarations unilatérales.
Tạm dịch: Mọi quốc gia đều có khả năng đảm nhận những ràng buộc pháp lý qua các tuyên bố đơn phương.
Trên phương diện quốc tế công pháp, quốc gia gọi là VNDCCH có thể bị ràng buộc do tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đông. Vấn đề cần tìm hiểu là bị «ràng buộc» về những điều gì?
2/ Công hàm không có hiệu lực vì người ký không có tư cách pháp nhân
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến đóng góp về công hàm 1958 thường hay nói đến tư cách pháp nhân của ông Phạm Văn Đồng. Các ý kiến này cho rằng ông Đồng không có tư cách để ra một tuyên bố liên quan đến vấn đề lãnh thổ.
TS Nguyễn Hồng Thao, trong cuốn «Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông » nói về việc này như sau:
La note de Pham Van Dong ne contient aucune renonciation explicite de la souveraineté sur les deux archipels au profit de la Chine. La portée de cette note n’a pas non plus la valeur obligatoire de renoncer à une souveraineté. En vertu de ses fonctions, un Premier Ministre n’a pas la compétence de céder le territoire. Cela relève au pouvoir de l’Assemblée Nationale de Viet Nam
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng không hề nói đến việc từ bỏ chủ quyền ở hai quần đảo cho TQ. Hiệu lực của lá thư này cũng không có giá trị bắt buộc ở việc từ bỏ chủ quyền. Theo chức năng của ông này, một thủ tướng không có thẩm quyền để nhượng lãnh thổ. Đây là thẩm quyền thuộc về Quốc hội.
Về hiệu lực của công hàm 1958 sẽ nói ở dưới. Về tư cách pháp nhân, ý kiến này không phù hợp với quan điểm Quốc tế Công pháp. Thật vậy, điều 4 của Nguyên tắc Hướng dẫn, những viên chức nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao… là những người có tư cách để ra một tuyên bố. Nguyên văn điều 4:
4. Une déclaration unilatérale n’engage internationalement l’État que si elle émane d’ une autorité ayant compétence à cette fin. En vertu de leurs fonctions, les chefs d’État, les chefs de gouvernement et les ministres des affaires étrangères sont habilités à formuler de telles déclarations. D’autres personnes représentant l’État dans des domaines déterminés peuvent être autorisées à engager celui-ci, par leurs déclarations, dans les matières relevant de leur compétence.
Tạm dịch như sau: một tuyên bố đơn phương chỉ ràng buộc quốc gia (vào các vấn đề thuộc phạm vi) quốc tế khi tuyên bố này phát xuất từ một quan chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng của họ, chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ ngoại giao (là những người) có quyền để thành lập một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện cho quốc gia trong những lãnh vực nhứt định có thể được phép gắn kết (quốc gia vào các vấn đề thuộc lãnh vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ.
Theo tinh thần điều 4 văn bản hướng dẫn này, ông Phạm Văn Đồng là thủ tướng chính phủ nước VNDCCH, dĩ nhiên có tư cách và đầy đủ thẩm quyền để ra một tuyên bố về một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế.
Thí dụ dẫn từ hồ sơ CIJ về tư cách pháp nhân của người ra tuyên bố.
Trường hợp tranh chấp giữa Mã Lai và Singapour về các đảo Pedra Branca (tên Mã Lai là Pulau Batu Puteh), Middle Rocks và South Ledge (quan trọng hơn cả là đảo Pedra Branca). Nội vụ được đưa ra Tóa án Công lý Quốc tế (CIJ) vào tháng 2 năm 2003 và được phân xử ngày 23 tháng 5 năm 2005.
Trước tòa, theo các chứng cớ lịch sử, Mã Lai đã chứng minh được chủ quyền lịch sử của mình ở đảo Pedra Branca, từ thời mới lập quốc (vương quốc Johor, thế kỷ 15) cho tới năm 1850. Trong khi Singapour, được tiểu vương Johor nhượng cho Công ty Đông Ấn thuộc Anh vào ngày 02 tháng 8 năm 1824, lãnh thổ bao gồm tất cả các đảo trong vòng 10 hải lý. Trong khi đó đảo Pedra Branca cách Singapour đến 24 hải lý. Nhưng trong một khoảng thời gian dài, từ năm 1850, vương quốc Johor (quốc gia tiền nhiệm Mã Lai) đã không hành sử chủ quyền của họ tại đảo này. Khi người Anh ở Singapour cho xây một ngọn hải đăng trên đảo năm 1850 thì không gặp sự phản đối nào của vương quốc Johor. Mặt khác, nhân dịp trả lời lá thư của Singapour về chủ quyền đảo Pedra Branca năm 1953, viên Bộ trưởng lâm thời Bộ ngoại giao vương quốc Johor viết công hàm xác nhận đảo Pedra Branca «không thuộc chủ quyền Johor». Mặc dầu phía Mã Lai phản đối rằng viên bộ trưởng kia không có thẩm quyền để tuyên bố về một vấn đề «lãnh thổ». Nhưng tòa đã bác lý lẽ này vì cho rằng tuyên bố đó không có ý nghĩa của một tuyên bố về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của vương quốc Johor về chủ quyền đảo Pedra Branca.
Công hàm 1953 của vương quốc Johor tương tự với trường hợp công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đó không phải là một kết ước về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của nước VNDCCH về quyết định của nước CHNDTH (về lãnh thổ và hải phận của TQ). Công hàm 1958 không hề là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền.
(Ở thí dụ này ta cũng thấy một nước, do thái độ của chính phủ nước này, có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở một vùng lãnh thổ nào đó. Trường hợp VN và TQ tại hai quần đảo HS và TS, ta dễ dàng chứng minh VN có chủ quyền lịch sử tại hai quần đảo này, thông qua các tấm bản đồ, hay các sử liệu lịch sử, do chính từ TQ thành lập. Nhưng nếu trong một thời gian dài, nhà nước VN có những tuyên bố, hay các động thái tương đương với sự «đồng thuận – acquiescement», các hành vi này được xem là tự nguyện «từ bỏ chủ quyền», VN có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở các nơi này. Điều này có ý nói rằng vấn đề chủ quyền lịch sử là quan trọng nhưng thái độ của nhà nước đối với vùng lãnh thổ đó còn quan trọng hơn.)
Ta cũng có thể dẫn từ các bản án mẫu của CIJ về các tuyên bố đơn phương mà vai trò của người tuyên bố, cũng như hoàn cảnh của tuyên bố bị đặt lại, nhưng vẫn không thể hủy bỏ hiệu lực của tuyên bố.
Trường hợp quốc vương Jordanie tuyên bố từ bỏ vùng lãnh thổ Cisjordanie là một thí dụ khác. Ngày 31 tháng 7 năm 1988 quốc vương Jordanie đọc tuyên bố trước thần dân của ông về việc từ bỏ mọi liên hệ và thẩm quyền chính thức của Jordanie trên vùng lãnh thổ Cisjordanie. Tuyên bố này trái với tinh thần hiến pháp của Jordanie, vì nhà vua không có thẩm quyền quyết định về phạm vi lãnh thổ. Tuyên bố của quốc vương Jordanie không hề nhắm đến một quốc gia nào (không phải là tuyên bố đơn phương) đồng thời vừa vi hiến. Dầu vậy hiệu lực của tuyên bố cũng đã được áp dụng trên thực tế, dân tộc Palestine chưa được thực sự độc lập cũng như quốc gia Palestine chưa được chính thức thành hình, nhưng vùng lãnh thổ Cisjordanie thực sự không còn thuộc thẩm quyền của Jordanie.
3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì vi hiến.
Nhiều bài báo, nhiều ý kiến ở VN gần đây cho rằng chiếu theo hiến pháp VN, ông Đồng không có tư cách để tuyên bố về một vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ. Thật vậy, theo hiến pháp của VN hiện tại, hay trong thời kỳ ông Đồng làm thủ tướng, vấn đề phân định biên giới phải được thể hiện bằng một kết ước, có sự đồng thuận giữa hai nước, phải được quốc hội thông qua. Ý kiến của TS Nguyễn Hồng Thao đã dẫn ở trên trong chừng mực cũng nằm trong chiều hướng này.
Nhưng tuyên bố 1958 của ông Đồng, đã nói ở trên, không phải là một « tuyên bố về lãnh thổ », có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ nước VNDCCH. Nếu văn bản có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ thì tuyên bố này vi hiến.
Xét nội dung của cả hai bản tuyên bố. Bản tuyên bố của TQ trước hết là một tuyên bố về chủ quyền, theo đó TQ khẳng định ý chí của họ về chủ quyền của TQ tại Đài Loan, Bành Hồ… (đang dưới quyền kiểm soát của phe Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo). Sau đó là tuyên bố về hệ thống đường cơ bản và bề rộng lãnh hải 12 hải lý (điều 2). Điều 3 khẳng định quyền tài phán của TQ tại vùng không gian và vùng nước thuộc lãnh hải TQ. Điều 4 qui định các đảo Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) cùng các đảo khác của TQ đều có qui chế xác định ở điều 1 và điều 2.
Bối cảnh bản tuyên bố của TQ, sẽ nói rõ hơn ở phần dưới, cũng như tuyên bố của nhiều nước khác cận biển trong cùng thời kỳ, được thể hiện sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Một Nghị định thư không bắt buộc về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được thông qua. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận. Ta thấy tuyên bố bề rộng lãnh hải 12 hải lý của TQ hoàn toàn phù hợp với Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải.
Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng là tuyên bố ủng hộ tuyên bố của TQ về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của nước này. Thực ra việc này không cần thiết. Bởi vì, cũng như tuyên bố của các nước khác, nếu nội dung tuyên bố của TQ không có điều gì phải phản đối, tự động tuyên bố này có hiệu lực đối với tất cả các nước trên thế giới. (Tuyên bố của TQ bị Hoa Kỳ phản đối vì hệ thống đường cơ bản lấn biển khá xa).
Tức là, có hay không có tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng, nếu VN không lên tiếng phản đối hay bảo lưu về một điều gì đó liên quan đến nội dung tuyên bố của TQ, tự động tuyên bố này có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không phải là một tuyên bố về « lãnh thổ ». Vì vậy tuyên bố này không vi hiến.
Dầu vậy, theo tập quán quốc tế, một tuyên bố đơn phương nếu đi ngược lại tinh thần hiến pháp của quốc gia tuyên bố, hiệu lực của tuyên bố vẫn có thể cao hơn hiến pháp của quốc gia. Tuyên bố đơn phương không phải là một văn bản «hành chánh» thuộc phạm trù quốc gia mà là một văn bản (hay hành vi) thuộc phạm trù quốc tế. Một văn bản hành chánh chịu chi phối của luật quốc gia nhưng một tuyên bố đơn phương (liên quan đến một vấn đề quốc tế) chịu chi phối của luật pháp quốc tế. Mà luật quốc tế có giá trị «cao» hơn luật quốc gia.
Thí dụ sau đây cho thấy những rắc rối đưa đến từ việc mâu thuẩn giữa luật quốc nội và luật quốc tế về tuyên bố đơn phương.
Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela về lập trường của Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes. Công hàm này xác định chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes.
Năm 1971, Ủy ban Quốc gia Colombie nhận được một khiếu nại cho rằng công hàm 1952 vi hiến vì các vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ phải được thể hiện bằng một hiệp ước, và phải được quốc hội thông qua. Thực tế là công hàm của Bộ ngoại giao có làm thay đổi « biên giới » nước Colombie, vì trực tiếp nhìn nhận quần đảo Los Monjes thuộc Venezuela. Tháng 3 năm 1971 Ủy ban Quốc Gia Colombie phán xét rằng Ủy ban không có thẩm quyền để hủy bỏ công hàm 1952 bởi vì đây là một văn bản thuộc phạm vi quốc tế. Một văn bản quốc tế thì phải áp dụng Quốc tế Công pháp. Tháng 4 năm 1971, phán quyết này lại khiếu nại lên Ủy ban Quốc Gia. Lần này lý lẽ phía khiếu nại cho rằng phán quyết không phù hợp với hiến pháp Colombie trong các vấn đề liên quan đến các văn bản quốc tế. Bên khiếu nại nhấn mạnh, để tuyên bố có hiệu lực, ý chí của hai quốc gia cần phải được thể hiện. Tức là, quan điểm của hiến pháp Colombie thì không công nhận hiệu lực các tuyên bố đơn phương mà chỉ nhìn nhận các hết ước có tính qui ước (có sự đồng thuận của hai bên).
Điều ghi nhận ở đây, khác với hiến pháp của phần lớn các quốc gia khác, hiến pháp Colombie không nhìn nhận « tuyên bố đơn phương » là một văn bản quốc tế. Một văn bản quốc tế, theo họ, phải có sự đồng thuận của hai bên. Trong trường hợp chủ quyền quần đảo Los Monjes, phải xác định bằng một hiệp định.
Vấn đề quần đảo Los Monjes được đưa lên Ủy ban Hiến Pháp quyết định. Ủy ban này cũng từ khuớc vì cho rằng không có thẩm quyền (23-5-1975). Cuối cùng, ngày 20-10-1992, Ủy ban Quốc gia phán quyết : Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela là không có gia trị.
Nhưng dường như hành động của Ủy ban Quốc gia Colombie chỉ nhắm đến việc giải quyết trong nội bộ Colombie, để xoa dịu thành phần chống đối. Vì trên thực tế, hiện nay nhà nước Colombie công nhận chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes qua việc phân định hải phận giữa hai nước. Việc tranh chấp hai bên là vùng nước chung quanh Los Monjes, phía Colombie chủ trương các đảo này có hiệu lực giới hạn trong khi phía Venezuela đòi hỏi vùng biển phía ngoài các đảo, có đầy đủ hiệu lực.
4/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế.
Có ý kiến cho rằng công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của phía TQ vi phạm luật quốc tế. Ý kiến này cho rằng tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế vì hệ thống đường cơ bản của TQ không phù hợp với Luật quốc tế về Biển 1958.
Theo khoản 8 bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
8. Une déclaration unilatérale en conflit avec une norme impérative du droit international général est nulle.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương mâu thuẩn với một nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế thì nó không có giá trị.
Như đã nói ở phần 2, tuyên bố về hải phận của TQ là một tuyên bố đơn phương. Nếu tuyên bố này mâu thuẩn với luật Quốc tế thì tuyên bố này không có giá trị. Dĩ nhiên công hàm 1958 cũng không có giá trị.
Ta thấy qui ước về đường cơ bản trong Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp 1958 không khác nhiều nội dung bộ Luật biển 1982. Hệ thống đường cơ bản của TQ từ năm 1958 đến nay không thay đổi. Trong chừng mực, một số đoạn trong hệ thống đường cơ bản của TQ khá xa bờ, nhưng việc lấy các đảo cận biển để làm điểm cơ bản thì việc này không mâu thuẩn với Luật quốc tế về Biển. Tập quán này đã được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng (kể cả VN). Tuyên bố về đường cơ bản của TQ bị các nước (như Hoa Kỳ) phản đối. Nhưng nói rằng nó không có giá trị trên toàn bộ là không thuyết phục. Bởi vì, nếu bị chống đối, TQ (hay VN cũng như các nước có chung trường hợp), có thể thay đổi để phù hợp với Luật biển 1982.
Vì thế khi cho rằng tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không có giá trị vì ủng hộ một tuyên bố vi phạm luật quốc tế là không có căn cứ.
5/ Nội dung Công hàm 1958:
Đây mới là điều quan trọng nhứt để bàn cãi. VN có thể bị ràng buộc pháp lý ở các điểm nào trong nội dung bản tuyên bố 1958?
Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn:
7. Une déclaration unilatérale n’entraîne d’obligations pour l’État qui l’a formulée que si elle a un objet clair et précis. En cas de doute sur la portée des engagements résultant d’une telle déclaration, ceux-ci doivent être interprétés restrictivement. Pour interpréter le contenu des engagements en question, il est tenu compte en priorité du texte de la déclaration ainsi que du contexte et des circonstances dans lesquelles elle a été formulée.
Tạm dịch: Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn bản phải được giải thích một cách hạn chế. Để giải thích nội dung của những cam kết này, ta phải đặt ưu tiên cho văn bản của tuyên bố cũng như bối cảnh và trường hợp mà tuyên bố được thể hiện.
Bà Monique Chemillier-Gendreau giới hạn hiệu lực của công hàm 1958 ở « bề rộng lãnh hải ». Bà viết như sau:
«La déclaration de Pham Van Dong se tient strictement, il est vrai, à la reconnaissance de la largeur de la mer territoriale chinoise. Il est donc inexact de soutenir que le Viet Nam aurait ainsi «réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois» sur les archipels ».
Tạm dịch: Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ hạn chế ở việc nhìn nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Cho rằng Việt Nam «tái xác định việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc» ở các quần đảo là điều không đúng.
TS Nguyễn Hồng Thao cũng có cái nhìn tương tự, công hàm chỉ nhằm mục đích công nhận lãnh hải 12 hải lý. Ông cũng cho rằng công hàm có giá trị về chính trị hơn là pháp lý:
La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Ông Lưu Văn Lợi cũng viết tương tự:
«Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải phận rộng 12 hải lý và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải lý.
Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng không nói gì đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc?»
Trong bài phỏng vấn tiến sĩ Balazs Szalontai của BBC, ta cũng tìm thấy ý nghĩa khá giống như vậy:
Dẫu vậy, ông (Phạm Văn Đồng) có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.
Chiếu theo tinh thần khoản 7 của Nguyên tắc Hướng dẫn, nếu nội dung văn bản không rõ rệt (việc nhà nước VNDCCH sẽ “ghi nhận và tán thành” cái gì) thì việc diễn giải nội dung tuyên bố này phải giải thích một các hạn chế. Đó là điều mà quí vị Monique Chemillier-Gendreau, Nguyễn Hồng Thao, Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai đã diễn giải.
Nhưng văn bản có hai đoạn văn: Đoạn 1 «ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc». Đoạn 2: chỉ thị cho các cơ quan nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Các vị này chỉ nói về đoạn văn thứ hai mà không xem xét đoạn văn thứ nhứt của công hàm 1958.
Nội dung của tuyên bố 4-9-1958 về hải phận của TQ là một tuyên bố khẳng định chủ quyền về lãnh thổ.
Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm 1958, đã có ý kiến về công hàm này. Nhà báo Frank Ching trong bài “Paracel Islands Dispute” trên Far Eastern Economic Review ngày 10-02-1994 ghi lại lời của Phạm Văn Đồng về nguyên nhân và nội dung công hàm 1958. Ông Đồng nói ngắn gọn, nhưng rõ rệt:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Cũng trong bài báo của Frank Ching nói trên, có ghi lại lời ông Nguyễn Mạnh Cầm:
“Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”
Như thế công hàm 1958 không phải chỉ “ủng hộ” bề rộng lãnh hải 12 hải lý như bà Monique Chemillier-Gendreau,TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai đã nói. Những người trong cuộc, ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm, đã nhìn nhận nội dung công hàm 1958 là công nhận chủ quyền của TQ ở HS và TS. Ông Phạm Văn Đồng biện hộ “nói vậy” vì lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Ông Cầm thì biện hộ vì HS và TS thuộc miền Nam quản lý, việc ủng hộ là “cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc”.
Nội dung công hàm 1958 sẽ rõ rệt hơn, nếu quí vị học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai xem xét thái độ của VNDCCH từ năm 1954 cho đến năm 1975 về hai quần đảo HS và TS. Ta sẽ tìm thấy nhiều bằng chứng nhà nước VNDCCH tôn trọng nội dung công hàm 1958. Trường hợp các bản đồ in sau 1958 một số có ghi HS và TS dưới tên Tây Sa và Nam Sa đồng thời ghi chú thuộc TQ. Hay các bài báo đăng trên báo Nhân Dân, xác định vùng biển, vùng trời HS thuộc TQ v.v… Các động thái này cho thấy chính phủ VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Và đó cũng là mục đích của công hàm 1958.
Mặt khác, bà Monique Chemillier-Gendreau có viết:
«Néanmoins, son silent devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.»
Tạm dịch: dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân.
Tuy đoạn văn này nối liền với đoạn văn dẫn trên của học giả Monique Chemillier-Gendreau nhưng không thấy học giả VN nào nói tới.
Thử xét thêm lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm. Vì HS và TS do VNCH quản lý do đó công hàm 1958 không hiệu lực. Ở điểm này, học giả Monique Chemillier-Gendreau cũng có cái nhìn tương tự: “người ta không thể cho cái mà người ta không có”.
Tuy nhiên, theo nội dung Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam là duy nhứt. Trên thực tế, VN có hai vùng lãnh thổ do hai chính phủ khác nhau về ý thức hệ lãnh đạo, nhưng trên quan điểm luật pháp quốc tế nước VN chỉ có một. Ông Cầm không thể viện dẫn việc HS và TS do VNCH quản lý thì có thể tuyên bố chủ quyền các quần đảo này của nước nào cũng được. Bởi vì, HS và TS thuộc bên nào quản lý thì chúng cũng thuộc về một nước Việt Nam duy nhứt. Khi chủ trương một quốc gia duy nhứt, hai nhà nước lãnh đạo hai vùng lãnh thổ khác biệt, đều có bổn phận như nhau trong việc bảo toàn lãnh thổ, cho dù phần lãnh thổ này do bên này hay do bên kia quản lý.
Mặt khác, lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm, cũng như của ông Đồng, đã xóa bỏ lập luận “công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến vấn đề chủ quyền” của các học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai về nội dung công hàm 1958. Nội dung công hàm bao gồm việc nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Học giả Greg Austin, trong cuốn China Ocean’s Frontiers, có ý kiến:
Of all the items of evidence presented by the PRC as proof of DRV recognition of Chinese sovereignty over the Paracel Islands, the most conclusive may be the note from the DRV Prime Minister supporting the PRC territorial sea declaration. The note was a government to government communication. And its subject was territorial sovereignty over, inter alia, the Paracel Islands; and the DRV not only raised no objection to the PRC claim but supported it.
Tạm dịch: Trong tất cả các yếu tố do TQ đưa ra làm bằng chứng cho việc VNDCCH đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Hoàng Sa, yếu tố có tính thuyết phục nhứt có thể nói là công hàm của Thủ Tướng VNDCCH ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của nước CHND TH. Công hàm này là một văn kiện trao đổi giữa chính phủ với chính phủ. Chủ đề của công hàm là chủ quyền lãnh thổ, trong đó có Quần đảo Hoàng Sa. Nước VNDCCH không những đã không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.
Nhấn mạnh ở câu: Nước VNDCCH không những đã không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.
6/ Về hoàn cảnh ra đời công hàm 1958:
Hầu như các bài viết của các học giả VN đều vịn vào lý do “chiến tranh”, lý do căng thẳng eo biển Đài Loan ở thời kỳ đó, lý do hai nước VN và TQ là “đồng chí, anh em” trong khối xã hội chủ nghĩa,… để biện hộ cho sự xuất hiện công hàm 1958. TS Nguyễn Hồng Thao, trong sách đã dẫn, viết:
La note de Pham Van Dong a pour but de satisfaire une demande de la Chine aux pays du camps socialiste en vue de la soutenir dans sa lutte contre la politique poursuivie par des Américains dans le détroit de Formose, qui menacait la sécurité nationale à l’époque. La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer teritoriale.
Tạm dịch: Lá thư của Phạm Văn Đồng có mục đích nhằm thỏa mãn việc yêu cầu, nhắm đến các nước trong khối XHCN, nhằm ủng hộ TQ trong cuộc đấu tranh chống lại khuynh hướng chính trị theo đuổi của Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan, thời kỳ đó đã đe dọa an ninh quốc gia nước này. Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Trang web BBC có tóm lược bài viết của “nhóm phóng viên biển Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết, nội dung như sau:
bối cảnh của bản Công hàm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc là thời điểm “có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan”.
Trong bối cảnh đó, bản công hàm được giải thích là “đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp”, tức “chỉ là những tuyên bố mang tính chính trị và ngoại giao chứ hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý”.
Trên VOA, có bài phỏng vấn TS Hoàng Việt:
Trước hết là về bối cảnh đưa ra công hàm mà năm 1958 ông Phạm Văn Đồng đã ký. Thứ nhất là lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vẫn còn như là anh em, vừa là đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải phóng Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, sau đó trao trả lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung Quốc chiếm lại từ tay một số lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và sau đó đã trao trả lại cho Việt Nam.
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm gì? Đấy là lúc đó hai nước tình cảm rất là chặt chẽ với nhau.
Đã ghi ở trên, ông Đồng giải thích bối cảnh ra đời công hàm:
“Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”.
Lời giải thích này đã xóa đi tất cả những lý lẽ «vì hoàn cảnh» mà các học giả đưa ra để cố gắng hóa giải hiệu lực công hàm 1958. Bởi vì ai gây chiến tranh ? Dĩ nhiên là phía VNDCCH. Chiến tranh không phải là tình huống bắt buộc. Chỉ cần phía VNDCCH ngưng chiến tranh thì ông Đồng sẽ không phải «nói như vậy». Tức đã không ký công hàm, đã không nhượng trên giấy tờ chủ quyền HS và TS cho TQ.
Nhà báo Frank Ching nhận xét lời giải thích này như sau:
Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.
Trong khi bối cảnh thực sự mà tuyên bố của TQ ra đời, theo TS Balazs Szalontai :
BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
Tiến sĩ Balazs Szalontai: Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng Chín 1958.
Điều này tác giả cũng đã nói ở phần trên, đây mới là bối cảnh đúng đắng về hoàn cảnh ra đời bản tuyên bố của TQ. Sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước gồm : Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.
Điều đáng trách là các học giả VN không một người nào nhắc đến Nghị định thư nói về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được Hội nghị LHQ thông qua cùng lúc với 4 công ước. Nghị định thư ghi rõ thể thức hòa giải trong các trường hợp có mâu thuẩn quyền lợi giữa các nước trong khi áp dụng các công ước. Dĩ nhiên ta thấy VN và TQ có mâu thuẩn về chủ quyền HS và TS. Tranh chấp này bắt đầu từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là mình không biết.
Như thế, việc dựa vào các lý do «hoàn cảnh» này kia, tình đồng chí anh em, tình trạng « chiến tranh »… để giảm thiểu hiệu lực công hàm 1958 (theo Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn) là điều hoàn toàn không thuyết phục.
«Hoàn cảnh» đúng, là bối cảnh Hội nghị LHQ 1958 về luật Biển, đòi hỏi VN phải có «ý kiến» về tuyên bố của TQ. Nguyên tắc một quốc gia VN duy nhứt buộc các chính phủ ở hai vùng lãnh thổ đều có trách nhiệm như nhau về lãnh thổ. Một vùng lãnh thổ thuộc bên nào quản lý cũng thuộc về quốc gia VN duy nhứt. Thay vì phải ra tuyên bố bảo lưu chủ quyền của mình ở HS và TS, VNDCCH lại ra công hàm công nhận tuyên bố của TQ.
Vịn vào hoàn cảnh «tình trạng chiến tranh», nhưng bên gây chiến là phía VNDCCH. Chỉ cần bên này ngừng chiến thì công hàm 1958 sẽ không hiện hữu.
Vịn vào lý do «đồng chí anh em» lại càng không thuyết phục. Trên quan điểm quốc tế công pháp, tình «đồng chí anh em» chưa bao giờ được một bên tranh chấp vịn vào để được hưởng trường hợp giảm khinh.
Tác giả dẫn ra thí dụ sau đây, cho thấy một lời nói “qua lại” bình thường giữa hai viên chức quốc gia, xảy ra trong một buổi gặp gỡ không chính thức, nó cũng có giá trị ràng buộc pháp lý. Đó là trường hợp tuyên bố của Bộ trưởng bộ Ngoại giao Na Uy, ông Ihlen, về chủ quyền của Đan Mạch ở Groenland ngày 22-7-1919.
Trong dịp gặp gỡ giữa hai thủ tướng hai nước Na Uy và Đan Mạch. Ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đan Mạch nói rằng quốc gia Đan Mạch không quan tâm đến vùng lãnh thổ Spitzberg, chính phủ của ông sẽ không phản đối việc Na Uy hành sử chủ quyền ở vùng đất này. Ông nói tiếp rằng quốc gia Đan Mạch mong muốn được mở rộng thẩm quyền về kinh tế và chính trị trên tòan vùng Groenland. Ông hy vọng việc này không bị Hoa Kỳ cũng như Na Uy phản đối.
Trả lời, Thủ tướng Na Uy, ông Ihlen nói rằng: «the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question».
Tạm dịch: Chính phủ Na Uy sẽ không làm một khó khăn nào trong việc giải quyết vấn đề này.
Đến khi tranh chấp Groenlan giữa Na Uy và Đan Mạch được đưa ra Tòa Án Công lý Quốc tế (CIJ) phân giải thì « lời nói » của ông Ihlen được tòa nhìn nhận là một « tuyên bố đơn phương», có hiệu lực ràng buộc pháp lý. Tuyên bố này nổi tiếng, trở thành một trường hợp nghiên cứu cho Luật quốc tế, được đặt tên là «Tuyên bố Ihlen».
Tuyên bố Ihlen có thể so sánh với trường hợp «lời nói» của ông Ung Văn Khiêm, thứ trưởng bộ Ngoại giao VNDCCH, nhân dịp gặp gỡ các viên chức ngoại giao TQ năm 1956. Ông Ung Văn Khiêm có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam như sau : chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ. Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào : Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài « Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa».
7/ Biết địch biết ta.
Trăm trận trăm thắng. Tuy nhiên, phía VN hình như rất dị ứng khi có người nhắc đến công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Những người nào bàn luận đến chủ đề này đều bị chụp mũ nếu không là Việt gian thì cũng là “Tàu”. Nhưng quyền lợi của đất nước cao hơn tự ái, danh vọng và quyền lợi cá nhân. Vấn đề công hàm 1958 là chuyện “của ta”. Chuyện của mình thì mình phải bàn luận tới.
Khi viết gần xong bài này thì đọc được “Thư ngỏ của các nhân sĩ, trí thức gửi Quốc hội, Lãnh đạo Nhà nước và Đảng CSVN”. Thư ngỏ có đoạn:
Nhà nước ta cần chủ động giải thích trước toàn dân và dư luận thế giới bối cảnh ra đời, nội dung thực chất và giá trị pháp lý của công hàm mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 về Biển Đông, để bác bỏ dứt khoát mọi xuyên tạc từ phía Trung Quốc.
Đã viết ở trên, công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là một văn bản thuộc phạm trù quốc tế chứ không phải là một văn bản hành chánh thuộc phạm trù quốc gia. Nhà nước có thể giải thích nội dung văn bản này theo ý của mình, nhằm xoa dịu dư luận người dân, như khuyến cáo của nhóm “nhân sĩ, trí thức” tác giả của thư ngỏ. Nhưng đây chỉ là một “liều thuốc an thần” như nhiều liều thuốc an thần khác trong quá khứ mà nhiều học giả khác đã hướng dẫn cho lãnh đạo CSVN. Nó không có ảnh hưởng gì đến hiệu lực của văn bản này trước luật lệ quốc tế. Trường hợp của nhà nước Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes là một thí dụ để mọi người nghiên cứu.
Chính phủ Hoa Kỳ ngày 3 tháng 8 vừa qua ra thông cáo báo chí về biển Đông, trong đó có đoạn đề cập đến khả năng giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài hay bằng một định chế pháp lý quốc tế:
We believe that claimants should explore every diplomatic or other peaceful avenue for resolution, including the use of arbitration or other international legal mechanisms as needed.
Các bản tiếng Việt thông cáo này đăng tải trong nước đều không dịch đoạn dẫn trên. Thái độ im lặng từ nhiều thập niên nay của nhà nước CSVN về khả năng giải quyết tranh chấp với TQ bằng một trọng tài quốc tế cho ta biết lập trường của VN: không giải quyết bằng trọng tài quốc tế. Nguyên nhân ra sao độc giả tự đoán.
Đề nghị của Hoa Kỳ là một cơ hội mà VN cần nắm lấy. Quyết định nắm lấy hay không thuộc về lãnh đạo CSVN nhưng cũng do khuyến cáo, áp lực của người dân trong nước, mà thành phần trí thức là tiêu biểu đi đầu.
Thất vọng biết bao nhiêu, không có một dòng nào trong thư ngỏ đề nghị giải quyết tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế :
Chúng ta kiên trì giải quyết tranh chấp với Trung Quốc bằng phương pháp hòa bình, tuân theo luật pháp quốc tế. Chúng ta tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia khác ven Biển Đông, cùng nhau thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển, đặc biệt là đối với các đảo, bãi đá cùng với lãnh hải bao quanh theo đúng Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển.
Rõ ràng đây là việc “copy – paste » từ văn bản của nhà nước CSVN. Nếu không nói quá, đó cũng là luận điệu của phía TQ. Phía nào cũng nói giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, theo luật quốc tế, theo công ước LHQ về Biển…
Các bên nói cùng một luận điệu nhưng nền tảng lý lẽ mỗi bên mỗi khác. VN nói mình có chủ quyền ở HS và TS. TQ cũng nói y như vậy. Ai cũng khoanh vùng biển (theo qui định của Luật quốc tế về Biển) theo cách diễn giải của mình. Vấn đề cốt lõi là: nước nào có chủ quyền ở các đảo nào ? Đề nghị của Hoa Kỳ đúng là một cái phao cho các nước nhỏ như VN nắm lấy. Vì TQ là bên có sức mạnh, họ có lý lẽ của họ, họ có thể dùng vũ lực để áp đặt ý muốn của họ cho các nước tranh chấp.
Nhóm học giả, trí thức tác giả lá thư ngỏ không có một ý kiến nào mới hay đề nghị một phương pháp nào khả thi giải quyết vấn đề tranh chấp. Đề nghị “giải thích” lại công hàm 1958 không phải là một giải pháp, các viên chức CSVN đã từng giải thích ý nghĩa công hàm này, ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm là các thí dụ.
VN không có con đường nào khác là phải đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử. Đây là con đường mà VN có nhiều hy vọng nhứt để thắng, nếu biết cách hóa giải những ràng buộc pháp lý những hứa hẹn trước đây đã cam kết với TQ. Tôi đã đề nghị một giải pháp “kế thừa danh nghĩa VNCH” để hóa giải các hứa hẹn này trong các bài trước.
Vấn đề bảo vệ đất nước, nếu đi theo phương pháp này, đơn giản trở thành việc dân chủ hóa VN. Có bạn phàn nàn tôi vì sao cứ viết chủ quyền biển đảo mà không tranh đấu cho nhân quyền. Thực ra mục tiêu chính của đề nghị giải quyết chủ quyền biển, đảo của tôi cốt lõi là vấn đề “nhân quyền”. Dân chủ thực ra chỉ là cách nói khác của nhân quyền.
Nếu “án binh bất động” và tiếp tục “uống thuốc an thần” của các học giả “bốc” cho, VN chắc chắn sẽ bước vào xung đột vũ trang với TQ. Xương máu VN đã đổ quá nhiều cho lý thuyết không tưởng, cho những sự bịp bợm, cho những huyền thoại láo khóet trong quá khứ. Nhân dân VN không thể đổ máu thêm lần này nữa, nói là “giữ nước”, nhưng thực ra để giữ “thể diện” cho đảng CSVN. Giữ nước có nhiều cách để giữ, không tốn xương máu, chỉ cần trí tuệ và lòng can đảm.
© Trương Nhân Tuấn
© Đàn Chim Việt
Đám người chống cộng bị bệnh nghiện chửi, chúng có biết đúng sai là gì đâu mà tranh luận, đọc một bài viết, một ý kiến, nếu trong đó không chống cộng, chống đất nước VN hiện tại thì lũ đó sẽ bâu vào chửi để thoả mãn nỗi nhục thua trận, nỗi nhục bị vạch mặt là bán nước, nhưng thực tế là có rất nhiều người trong họ đã nhận ra ngay cả trên diễn đàn này cho nên những người CCCĐ dần mòn cũng đi theo chế độ đã chết gần 40 năm cả thôi!
@kiến vàng says:
Còn những thằng nghiện bán đất cho Tàu và tàn ác với dân Việt như VC kiến vàng thì sao?
Thể chế VNCH hy sinh để mở mắt cho 90,000,000 dân VN và thế giới thấy sự bịp bợm,gian ác của CSVN.
38 năm qua thể chế VNCH không còn, nhưng Tinh Thần VNCH sẻ còn mải mải.
Thể chế XHCN và CSVN còn được bao lâu ?
Sau khi CSVN giết XHCN thì dân VN sẻ lộng kiếng hay liệng cống như Cu Hồ?
Đám người CCCĐ luôn luôn lừa dối, láo khoét, bóp méo sự thật, bôi nhọ đất nước nhưng hèn nhát, bản chất suốt mấy chục năm không thay đổi, mấy cái loa chiêu hồi ngày xưa tuyên truyền bây giờ vẫn vậy, nhìn cách mà chúng đối xử với nhau và cách chúng đối xử với bà con hải ngoại thì biết!
Binbon quá đúng…
Bọn. . .Công Cụ Cộng Đảng ( CCCĐ ) luôn luôn LÁO, thí dụ:
-1975 tràn vào miền Nam, cướp của giết người mà hô hoảng là…giải phóng.
- bán đất biển cho Tàu la ó là …tình Hủ nghị. Khi Tàu dập vô mặt dân Việt thấy là Hủ mắm!
- Bác Hồ là cha già dân tộc. . .nhưng khi biết Bác chơi Nông thị Xuân rồi ra lệnh cho công an Trần Quốc Hoàn giết, để Bác kiếm gái khác thì dân VN mới kết luận. . .cha già Dâm Tặc.
-sự LÁO KHOÉT của CCCĐ nếu kể ra phải hàng chục cho tới hàng trăm quyển sách .
- điều dể nhận thấy nhất là bọn CCCĐ ( Còm Của Cộng Đảng ) đang ra sức…Láo Khoét để chống đỡ dư luận tố giác tội ác Cộng Đảng đang hành hạ dân oan bị cướp đất và đánh đập tù tội dân yêu nước chống Tàu!
Nên mới có câu:
Việt Gian Cộng Đảng. . .Hèn với giặc. . .Ác với dân.
Vâng, bọn CCCĐ (Công Cụ Cộng Đảng-Còm Của Cộng Đảng ) là vậy.
ABC says:
14/08/2012 at 00:44 Bây giờ là năm 2012 rồi ông ạ, tàu sau 30 năm mở cửa cho tây phương vào làm ăn,qua đó vừa học hỏi vừa ăn cắp kỷ thuật ,nên cái kỷ thuật quân sự của tàu bây giờ cũng ghê ghớm lắm,Mỹ còn phải ghờm,ông hãy vào internet,vô các trang về kỹ thuật quân sự,xem thế giới họ so sánh trình độ của các nước,từ súng trường,đại bác,xe tăng,trực thăng,phản lực chiến đấu,tàu lặn v.v…ông chưa thấy quan tài nên chưa đổ lệ,phải biết người biết ta một chút,đừng có cắm cái đầu duy ý chí xuống cát,cho ta là number-one,rồi chết hồi nào không hay ông ạ!
Bây giờ mà còn tiền pháo hậu xung,chiến thuật biển người ha ha,con nít nó cười cho !
Lời bình: Ông ABC thích nghe học giả thế giới bình luận thì thử nghe học giả TQ bình trước cái đã nhé” Đọc cho kỹ vào!
1)BÁO HONGKÔNG * CUỘC CHIẾN HOA VIỆT
Nếu khai chiến trên biển Đông,
khả năng Trung Quốc sẽ thua Việt Nam
Một số tờ báo của Hồng Công gần đây như “Đại công báo”, “Văn Hối”, “Đông phương” và nguyệt san “Phòng vệ Hán Hoà” dẫn lời các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh cho rằng tuy từ đầu năm 2009 đến nay, các bước chuẩn bị đấu tranh quân sự của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam) vô cùng rầm rộ.
(2) Hiện nay, còn rất nhiều rào cản khiến Trung Quốc chưa thể áp dụng hành động quân sự thực tế trong tranh chấp chủ quyền biển Đông. Các chuyên gia quân sự Trung Quốc cũng cảnh báo nếu Bắc Kinh Trung áp dụng hành động quân sự, cái giá phải trả sẽ rất đắt, thậm chí ảnh hưởng quốc tế tiêu cực của hành động này đối với Trung Quốc còn lớn hơn cả phát động một cuộc chiến tranh tại Eo biển Đài Loan. Dưới đây là tổng hợp nội dung cơ bản của các bài viết này.
(3)1- Rào cản chính trị: – Tại khu vực Biển Đông, hiện nay có ba nước tồn tại bất đồng lớn nhất với Trung Quốc về lãnh hải và hải đảo là Việt Nam, Philippin và Malaixia, trong đó Việt Nam là hàng đầu. Vì thế, khả năng bùng nổ xung đột quân sự tại khu vực biển Đông chỉ có thể là Trung Quốc tấn công quân sự chiếm các đảo, bãi mà Việt Nam đang kiểm soát tại quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọil à Nam Sa).
(4)Khả năng Trung Quốc và Malaixia nổ ra xung đột quân sự do tranh chấp đảo Layan Layan (đá Hoa Lau), cơ bản bằng không. Thế nhưng, quan trọng là Trung Quốc áp dụng hành động quân sự quy mô lớn với Việt Nam, sẽ thiêu huỷ hoàn toàn hình tượng quốc tế “hoà bình phát triển” mà Trung Quốc tạo dựng trong gần 20 năm qua. Hệ quả là sự cảnh giác của Ôxtrâylia, Mỹ, Nhật Bản và cả Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) đối với Trung Quốc sẽ tăng cao.
(5)- Gần đây, hợp tác và trao đổi quân sự giữa Mỹ với ASEAN và Việt Nam đã có những bước tiến lớn, một khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, dư luận và báo chí chính thức của Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước phương Tây khác sẽ đứng về phía Việt Nam. Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản thậm chí còn cung cấp cho Việt Nam chi viện về tình báo và hậu cần quân sự cho Việt Nam . “Học thuyết quân sự mới” biển Đông là “biên cương lợi ích” của Ôxtrâylia sẽ có cớ phát triển.
(6)- Chiến tranh bùng nổ, sẽ thúc đẩy nhanh hơn sự thành lập chính thức của tập đoàn “NATO biển Đông”, bước đi Nam tiến của Lực lượng Tự vệ trên biển của Nhật Bản cũng sẽ trở thành hiện thực và tạo ra căn cứ hợp pháp để Mỹ can thiệp quân sự trực tiếp. Hơn thế, “Hiệp ước đồng minh Mỹ – Xinhgapo – Ôxtrâylia” và từ sau năm 1995, Mỹ cùng với 6 nước ASEAN là Philippin, Thái Lan, Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia và Bruney tổ chức cuộc diễn tập quân sự “Karat”.
(7)- Trường Sa có một số đảo nằm sát bờ biển Malaixia, có một số đảo gần đường trung tuyến Việt Nam – Malaixia, cách Trung Quốc xa như vậy, nói là của Trung Quốc thật khó có sức thuyết phục. Do vậy, khi Trung Quốc áp dụng hành động quân sự, hình tượng quốc tế của các nước hữu quan, nhất là Việt Nam sẽ tốt hơn nhiều so với Trung Quốc, theo đó các nước lớn châu Âu, thậm chí cả Mỹ và Ấn Độ sẽ đề nghị cung cấp vũ khí cho Việt Nam, bất lợi với Trung Quốc.
(8)2- Rào cản về quân sự
- Các nhà quan sát quân sự Bắc Kinh nêu rõ nhìn bề ngoài, so sánh sức mạnh quân sự giữa Trung Quốc với Việt Nam, phía Trung Quốc có vũ khí hiện đại mang tính áp đảo, nhất là ưu thế về số lượng và chất lượng tàu mặt nước, tàu ngầm cỡ lớn. Thế nhưng, phân tích sâu về học thuyết địa – quân sự, thực sự bùng nổ chiến tranh trên không và trên biển với Việt Nam, ưu thế sức mạnh quân sự không hẳn nghiêng về Trung Quốc.
(9)Bởi vì đặc điểm mới của chiến tranh kỹ thuật công nghệ cao với vũ khí tên lửa là không có khái niệm so sánh sức mạnh của nước mạnh, nước yếu. Theo đó, nước yếu có một số ít tên lửa hiện đại, trong chiến tranh trên biển và trên không, vẫn có thể dựa vào ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa v.v.để vẫn thắng được nước mạnh.
(10)- Cụ thể hơn, về hải quân và không quân của Trung Quốc tham gia cuộc chiến tranh này sẽ chủ yếu là Hạm đội Nam Hải (Bộ Tư lệnh đặt tại Trạm Giang, Quảng Châu). Còn Việt Nam lực lượng không quân được trang máy bay chiến đấu “Su-30MKV” và “Su-27SK/UBK”. Hải quân Việt Nam được trang tàu tên lửa tốc độ cao “Molniya-12418” và tới đây có cả tàu ngầm “KILO-636”,xu thế sức mạnh tại biển Đông đang phát triển theo hướng bất lợi cho Trung Quốc.
(11)- Trong tương lai gần, khi Hải quân Việt Nam đưa tàu ngầm “KILO- 636” vào sử dụng, quyền kiểm soát cục bộ dưới nước có thể sẽ nghiêng về phía Hải quân Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc phải tính đến nhân tố máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của không quân Việt Nam có thể sẽ được trang bị tên lửa siêu âm không đối hạm “BRAHMOS” (của Ấn Độ) và “YAKHONT” (của Nga) với tầm bắn đạt 300km.
(12)- Về năng lực phòng không, Trung Quốc và Việt Nam đều được trang bị tên lửa đất đối không hiện đại “S-300PMU1”. Lực lượng phòng không của Việt Nam có 2 tiểu đoàn, còn con số này của Trung Quốc là 20. Thế nhưng, lực lượng này (của Trung Quốc) chủ yếu bố trí trên đất liền, do vậy vai trò có thể phát huy trong chiến tranh trên biển và không phận trên biển khá hạn chế.
(13)3- Rào cản về địa lý
- Toàn bộ 29 đảo, bãi mà Việt Nam kiểm soát hiện nay tại Trường Sa, cách đất liền từ 400 – 600 km. Tại khu vực này, Việt Nam có các căn cứ không quân tại vịnh Cam Ranh (Nha Trang), Đà Lạt (Lâm Đồng) và ở Thành phố Hồ Chí Minh, đa số không phận tại khu vực tranh chấp này đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay tấn công “Su-22” của không quân Việt Nam, chưa kể đến máy bay chiến đấu “Su-30MKV” và “Su-27SK” với bán kính tác chiến lên đến 1.500 km.
(14)- Nếu so sánh, không quân Trung Quốc kể cả cất cánh từ sân bay tại đảo Hải Nam, khoảng cách đường thẳng đối với 29 đảo bãi Việt Nam đang kiểm soát đã lên đến từ 1.200 – 1.300 km, còn cất cánh từ Hoàng Sa, khoảng cách đến Trường Sa cũng lên đến từ 900 – 1.000 km…buộc máy bay chiến đấu “J-10” và “J-8D” và cả “Su-30MKK” và “Su-27SK” của Trung Quốc đều cần được tiếp dầu trên không, thời gian tác chiến so với máy bay Việt Nam ngắn hơn 50%.
(15)- Khi chiến tranh bùng nổ, sân bay trên đảo Vĩnh Hưng (Hoàng Sa) và thậm chí cả sân bay trên đảo Hải Nam của không quân Trung Quốc nhiều khả năng trước tiên sẽ bị máy bay chiến đấu “Su-22” của không quân Việt Nam thực hiện tấn công phủ đầu. Căn cứ Toại Khê, Căn cứ Quế Lâm (Quảng Tây) của Sư đoàn không quân số 2 cũng nằm trong phạm vi bán kính tác chiến tấn công của máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của Không quân Việt Nam.
(16) Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác là xung đột không chỉ hạn chế ở khu vực biển Đông, toàn bộ các mục tiêu chiến lược tại đảo Hải Nam, Hồng Kông, Côn Minh (Vân Nam) và Nam Ninh (Quảng Tây) đều nằm trong phạm vi bán kính tác chiến của máy bay chiến đấu “Su-30MKV” của Không quân Việt Nam.
(17)- Địa hình Việt Nam dài hẹp, máy bay “Su-27SK” và “J-10A” của Trung Quốc tham chiến, trên đường bay trở về căn cứ đều nằm trong tầm tác chiến của máy bay chiến đấu “MiG-21Bis” của Không quân Việt Nam cất cánh từ các căn cứ không quân miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Do vậy, MiG-21Bis của Việt Nam có thể cất cánh đánh chặn máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã hết vũ khí và thiếu nhiên liệu vào bất cứ lúc nào.
(18)4- Rào cản về chiến thuật
- Máy bay chiến đấu “Su-22” của không quân Việt Nam có thể sẽ áp dụng chiến thuật không kích siêu thấp và có được sự yểm hộ hoả lực trong tấn công đảo, bãi. Vì thế, ngay cả khi Trung Quốc chiếm lĩnh được các đảo bãi Việt Nam, bảo vệ lâu dài là vấn đề cực kỳ khó khăn. Việt Nam áp dụng chiến thuật không kích tầm siêu thấp, sẽ tránh được sự theo dõi của các loại rada trên tàu của Trung Quốc, tấn công các tàu cỡ lớn của Trung Quốc.
(19)- Hải quân Việt Nam không có tàu mặt nước cỡ lớn, cho nên không ngại Trung Quốc áp dụng không kích tầm siêu thấp, khiến cho tàu ngầm hiện đại của Trung Quốc không thể phát huy, chỉ có thể tấn công tàu vận tải của hải quân Việt Nam. Việt Nam hiện nay, đa số là tàu vận tải cỡ nhỏ lớp từ 300 – 500 tấn trở xuống, nên điều động tàu ngầm hiện đại để tiêu diệt là không hiệu quả mà có khi lại làm mồi cho các loại phương tiện săn ngầm của VN do Nga trang bị./.
Reply
WOW!!! Thế lực quân sự của bọn CSVN “mạnh” như vậy mà sao bọn chúng lại hèn hạ quá dzậy? Câm miệng mỗi khi bị TQ lên tiếng phản đối chủ quyền trên TS HS; im lặng khi ngư dân VN bị bắn giết “vô tư” trên biển Đông; cấm báo chí hay người dân trong nước dám gọi đích danh tàu của TQ bắn giết hay đâm chìm tàu ngư phủ VN; v.v.
Bọn lưu manh côn đồ CSVN chỉ dám đấu đá với chính đồng bào mình, những người phản đối trong ôn hòa bất bạo động tay không vũ khí. Ngoài ra, đối với bọn Tàu thì chúng chỉ biết quỳ gối khom lưng bắt chước Hồ chí minh há miệng cắn K….cho Tàu để “bảo vệ đảng”??? Nếu chiến tranh nổ ra giữa Tàu và VN, lực lượng của băng cướp mafia CSVN sẽ bị băng cướp Tàu mạnh hơn đè bẹp trong vòng 24 giờ. Bọn Tàu không cần phải xua quân tràn qua biên giới như năm 1979, chúng chỉ cần bắn phá cho tan tành Hà Nội và Sàigòn rồi ngồi cười ruồi, xem bọn đàn em CSVN dám làm gì hơn là lại tiếp tục quỳ gối bò sang tận bên Tàu để xin “Hội Nghị Thành Đô” lần thứ hai!!! Kịch bản này toàn dân ai cũng đã rõ chính Hồ chí minh cùng đồng bọn tay sai CSVN là những kẻ bán nước cầu vinh, hại dân để vinh thân phì gia!! Nhân dân VN ta muôn đời nguyền rủa Hồ chí minh và đảng cướp mafia CSVN.
Ngụy Quân tử mù sao mà không đọc bài này:
vietnamnew says:
11/08/2012 at 22:59 Việt Nam thận trọng chưa đưa ra trọng tài QT vì đã có philipine đưa ra tòa án QT rồi. VN còn nghe ngóng xem sao, để rút kinh nghiệm? Chủ yếu chờ TQ lộ hết bài rồi mới phản công.
VN cũng biết Mỹ không thể để TQ độc chiếm Biển Đông. Kiểu gì Mỹ cũng phải nhảy vào nên VN tạm cố nhún nhường để Mỹ-Trung đấu nhau ở giữa được lợi (Trai cò đánh nhau, Ngư ông đắc lợi). Chúng ta cứ chờ đấy mà xem./.
Lời Bình: Vietnam new nói ngắn gọn thế, cái đầu bã đậu phụ của ông Ngụy Quân Tử có hiểu không?
” Ngụy Quân Tử” = lính VNCH bị chết= cái xác chết của lính VNCH ( Quá Ngu)
@Tú ơi, Bác Cụ nghe!!!
1 – hahaha….Dzậy là VN nếu không có Philippines đi trước, thì bọn chúng sẽ đ….dám làm gì bọn Tàu sất???? Hồi 1958, có nước nào có thằng chủ tịt nước nào NGU như tên Hồ chí minh và Phạm văn Đồng vẩu ký công hàm công nhận bản tuyên bố 12 hải lý của TQ trước VN đâu, mà sao chúng dám làm??? “VN còn nghe ngóng” hay còn mải ngậm K….của Tàu cho đến bao giờ??? Ngày xưa, Mỹ kéo quân vào miền Nam đã la rùm lên miền Nam bị Mỹ xâm lăng, đ….thèm nghe ngóng, bi giờ thì bọn Tàu đã chiếm TS HS, kéo quân vào Tây nguyên, lấy hết các gói thầu xây dựng hạ tầng cho VN, dân Tàu nghênh ngang đi dạo trên đường phố VN đ…thằng chó săn CA nào dám hỏi giấy tờ, mà còn mải nghe ngóng đến bao giờ hả Tú????
2 – Chờ TQ và Mỹ đấu nhau rồi VN sẽ “ngư ông đắc lợi”???? Cái ý kiến này nghe quen quen…À, nhớ ra rồi, đó là của tay Triết nổ “chia rẽ nội bộ của Mỹ”…hahaha….chờ tớ chạy vô nhà cầu một chút rồi sẽ gõ tiếp!!! Mỹ, Nga, Tàu, có bao giờ ngu như bọn Hồ chí minh và đảng CSVN đi làm thân trâu chó tay sai đánh thuê cho ai đâu??? Không bao giờ bọn chúng trực tiếp đánh nhau cả, chúng chỉ “ủy nhiệm” cho nước nào có lãnh tụ anh minh cỡ như Hồ chí minh và đảng CSVN giúi vũ khí vào tay và xúi đi đánh thuê giùm cho chúng thôi, ngốc vừa vừa chứ!!! Bài học chiến tranh VN còn nóng hổi mà đã mau quên rồi?????
3 – Chế độ VNCH sẽ là giải pháp cho nước VN nếu muốn giành lại chủ quyền TS HS từ tay bọn giặc Tàu, đừng chửi bây giờ rồi sau này Tú cũng sẽ phải đứng dưới cờ vàng ba sọc đỏ để chiến đấu, hén!!! Hồ chí minh và đảng côn đồ lưu manh CSVN thì làm gì có can đảm để đương đầu với giặc Tàu, đúng không Tú?? Không tin, Tú đề nghị với cấp trên giải thích về công hàm 1958, hội nghị Thành Đô năm 1990, rồi các hiệp định biên giới để mất đất cho Tàu, v.v. công khai với dân chúng VN đi!!! Không bị dân chúng chửi vào mặt là “Đồ bán nước hại dân” thì mới là lạ!!! Tú ơi, Bác Cụ đây!!!
Qúa hay !
Tưởng ông TânTân dựa vào tài liệu của viện nghiên cứu chiến lược của Mỹ hay Úc nào đó,ông lại dựa vào tài liệu bọn tàu với 16 chử vàng! sao các người CS đối với bạn thì nghi kị,mà với kẻ thù truyền kiếp thì dể tin như thế !
Dù không là một nhà chiến lược,nhưng tôi cũng dể dàng hình dung ra,nếu tàu đánh nước ta thì chúng sẽ dụng binh như thế nào: Ngay 24 giờ đầu tiên,hàng vạn hỏa tiển tầm xa,cruse,mỗi cái mang từ 5 trăm kílô đến một tấn thuốc nổ, sẽ được phóng đi từ lục địa tàu và từ các tàu lặn đang di chuyển dưới mặt nước,các tàu nổi đậu cách xa bờ biển VN cở 7-8 trăm cây số,vào thủ đô Hà nội cùng tất cả các phi trường,đài ra đa,hải cảng,trại đóng quân,kho vủ khí ,pháo bờ biển trên khắp nước VN với mức độ chính xác vì bọn tiền sát đã nằm sẵn ,khi các phi trường và đài ra đa tê liệt thì máy bay MiG 29-31 hay Su 22 chỉ còn nước cất vào hang núi,taù chiến thì phải ra khơi để tránh pháo thì giờ đây trở thành những mục tiêu di động cho tàu ngầm địch,và tàu ngầm cũng thế,bởi vì trong mắt xích vủ khí kỷ thuật thì phải liên hoàn:máy bay tối tân+hê thông cảnh báo,hướng dẫn tối tân(ra đa,GPS)+tàu mặt nước tối tân+tàu lặn tối tân,nếu trong thế trận trên biển mà một hay hai mắt xích trên bị bẻ gãy thì coi như toàn bộ hệ thống bị bẻ gãy!
Nhưng có một điều chắc chắn là với tâm lý chưa đánh đã hàng của 14 con cá tra Ba đình,thì dù đàn anh có ăn hiếp gấp mười lần hơn khi nay thì đàn em CSVN cũng xin cắn răng cam chịu,chứ làm gì có chuyện mà đánh với đấm lại ! Nhục !
Lạm bàn một chút cho vui.
1) Không có cái gọi là rào cản chính trị gì ráo trọi, vì TQ không có ý định tấn công trước! Chúng chỉ “tự vệ”! Chủ trương thứ nhất là hù doạ, nghề ruột cuả chàng! Chủ trương thứ hai là khiêu khích, áp lực về mọi phương diện trên biển Đông để đến lúc VN không chịu nổi phải động binh, chỉ chờ có vậy là xong. Với lý cớ “tự vệ”, cái gọi là rào cản về chính trị sẽ được hoá giải dễ dàng. Cường quốc nào, láng giềng nào dám ra mặt binh vực tên hiếu chiến(VN) vốn đã có “tiền án”? Đó là lý do tại sao VN chỉ cắn răng chịu đựng hoặc la lối om xòm mà không dám có bất cứ hành động quân sự nào!
2) Về quân sự:
Không rành về quân sự nên miễn bàn, chỉ cười…ruồi! Việt Nam có tên lửa, hoả tiễn, máy bay, tầu ngầm…còn TQ dùng AK với cối 82 hay sao mà máy bay cuả VN có thể khơi khơi tấn công Hải Nam, và các trong điểm suốt một giải mênh mông của miền Nam TQ?
Các Phi Trường VN nơi xuất phát các phi vụ sẽ lấy võng để che khi Hoả tiễn TQ bắn vào?
Lại còn cái gọi là căn cứ không quân nào ở Đà Lạt nữa? Để cho Mỹ thuê phóng tàu con thoi chắc?
Mà thôi nhức đầu quá!
Những vần thơ hay nhất mọi thời đại
Văn tự mua , bán Biển Đông
Bác Hồ ra lệnh chú Đồng viết thay
Viết rằng : “Thôi, kể từ nay.
Tất cả thứ này, là của bác Mao ! ”
Còn chuyện đắt rẻ ra sao ?
Lời lỗ, giá cả thấp cao mặc….tình .
Biển – Đảo chẳng phải của mình
Mình bán cũng chẳng tội tình chi mô !”
Chú Đồng vâng theo bác Hồ
Ký tên rồi mới “phô tô” gởi liền .
Để nhanh nhanh có được tiền
Mua súng, mua đạn ưu tiên hàng đầu
Chống Mỹ là cứu nước…Tàu
Nghĩa vụ quốc tế không lâu đã thành ….
He he…
Tội bác “Bán Nước” rành rành !
Làm sao cãi được,
Hỡi các anh kò…mồi ? !
Bác Hồ “bôn ba” bốn phương
Cuối cùng bác chọn lên “giường” bác Mao
Bác Mao tài nghệ thật cao
Nên bác Hồ đã thân trao trọn phần
Biển đảo bác chẳng phân vân
Tổ quốc dân tộc nghìn cân …nhẹ hều .
Nếu không “Mỹ cút, Ngụy nhào”
Thằng Tầu sao dám mó vào Biển Đông ?
Tổ quốc sắp sửa mất không,
Dân tộc hóa Hán là công bác Hồ !
ĐỐ GỞ CHO RA?
Cẩu của Minh và cẩu của Đông,
Con thì le lưỡi, con trầy lông.
Hai con mắc lẹo tình con chó,
Đố gở cho ra cái nợ “Đồng”?
Đố gở cho ra cái nợ Đồng?
Sướng rồi cúi cổ chịu mang gông.
Rau mơ, rượu mận, tiêu, hành, sã,
Chờ nấu thịt mi chén rượu nồng.
Chờ nấu thịt mi chén rượu nồng,
Đáng đời cẩu tặc tội chơi ngông.
Núi rừng, biển đảo dâng cho giặc,
Còn dám khoe khoan “quốc tế hồng”.
Còn dám khoe khoan quốc tế hồng,
Công hàm bán nước nhục vô song.
“Búa liềm” chi nữa mau đem vứt,
Chuộc tội cho rồi, phút đoái công.
Xin có vài lời với độc giả “Vietnamnew”
Tôi miễn bình luận về những “chứng cứ miệng” mà ông/bà nêu ra. Chỉ xin nhắc ông/ bà về một điểm cốt lõi: giai đoạn từ khi thành lập đảng CS cho đến khi họ dành được quyền làm chủ nửa nước (1927-1954).
Tôi không nghĩ rằng ông/bà có gian ý khi nói rất sơ sài về giai đọan đầu tiên 1927-1954 mà cũng như bao nhiêu người Việt yêu nước khác theo CS, nên chỉ “nhìn thấy ngọn mà không biết gì về gốc”. Đây là giai đoạn quyết định cho tất cả những việc xảy ra sau đó, cho đến tận bây giờ mà dân tộc, đất nước VN đã phải gánh chịu do hết những sai lầm này, tiếp đến những sai lầm khác của Đảng Cộng Sản VN.
Đồng ý rằng, QT3CS ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, nhưng nó cũng minh xác rằng đây chỉ là sách lược giai đoạn, cái mục đích cuối cùng là “xích hóa” toàn thế giới để Chủ Nghĩa CS thống trị toàn cầu. Ông Hồ và những người CS lớp trước biết rõ điều đó, không chỉ tin mà còn cố gắng thực hiện cho bằng được(tôi không dùng chữ “tình nguyện làm lực lượng xung kích” nó khá nặng nề!). Những sự việc xảy ra kế tiếp trong mấy chục năm tại VN đã chứng minh rõ ràng điều này.
Nếu tin và thực hiện những đòi hỏi cuả QTCS thì thử hỏi có còn cái gọi là Việt Nam theo nghĩa tổ tiên ngày trước và những người Quốc Gia sau này hiểu? Hoàn toàn không! Như vậy Hoàng Sa, Trường Sa hay ngay cả nước VN cũng chỉ còn cái tên vô nghiã chứ thực ra biên giới hay chủng tộc có nghĩa lý gì với CNCS? Chỉ còn GIAI CẤP! Đó là cái viễn cảnh chung mà những người CS ở bất cứ nơi nào trên thế giới tin tưởng và theo đuổi.
Liên hệ đến thực tế VN cho mọi người dễ hiểu. Giải phóng Miền Nam để làm gì? Tại sao phải giải phóng? Cho hai miền Nam, Bắc thống nhất như ông Hồ nói:” Đất nước VN là một, dân tộc VN là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý này không thay đổi” hay giăi phóng vì thực dân Pháp và Đế Quốc Mỹ xâm chiếm miền Nam?
Đất nước và dân tộc không có nghĩa gì đối với CNCS! Pháp đã “cuốn cờ” từ năm 1956. Mỹ chỉ vỏn vẹn mấy chục viên cố vấn. Vả lại cả thế giới đều biết Mỹ dính líu vào VN cũng chỉ vì ngăn chặn sự bành trướng của CNCS. Trong khi đó thì ngay từ khi chữ ký vào HĐ Geneve chưa ráo mực, người CSVN đã có ý đồ xâm chiếm miền Nam khi gài cán bộ, binh lính ở lại, dùng hằng trăm ngàn gia đình những người đi tập kết làm con tin cho mưu đồ “giải phóng” và “thống nhất”.
Giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất cho mục đích gì? vì “chủ nghĩa dân tộc” hay cho chủ nghĩa CS? Giải phóng miền Nam, đánh đuổi thực dân đế quốc cho mục đích thu giang san về một mối như di sản cha ông để lại hay như Lê Duẩn nói ta đánh đây là đánh cho LX, TQ, cho các nước XHCN hay nói rõ hơn là cho CNCS được toàn thắng? Đã đánh miền Nam cho CNCS thì việc giao HS, TS cho người CS anh em giữ là việc vô cùng hợp lý, thuận tình, sao có người thắc mắc?
Sai lầm ngay từ khởi đầu, sai lầm ngay từ những điểm căn bản… thì dù ông Hồ, ông Đồng hay bất cứ ông nào sau này đi nữa có khéo léo, thông minh, mềm dẻo, gìỏi dang hay gì gì đi nữa phỏng có ích gì? Có sửa lại được những sai lầm chết người mà Đảng CS VN đã đem đến cho nước VN, cho dân tộc VN? Thực tế VN ngày nay không nói lên điều đó sao?
Chẳng lẽ “gia sản” cuả cha ông để lại đã không gìn giữ, đã vứt bỏ trước đó (vì theo, thực hiện CNCS), rồi sau này còn lên giọng kể công là chúng tôi khéo léo, giỏi giang, quyết đoán… trong việc bảo toàn (không để TH thôn tính). Nếu chẳng may rơi vào tình trạng “mất nước” thì chằng qua là “không ai học được chữ….NGỜ”!
Ô hô, vẫn lại nguỵ biện, lừa bịp!!!
TỪ CÔNG HÀM 58 CỦA PVĐ ĐẾN CÂU NÓI CỦA LD 75
Sau khi giải phóng xong Miền Nam, 30/4/75, TBT/CSVN Lê Duẫn đã tuyên bố trước nhân dân rằng: “Ta đánh thắng đây là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô”. Câu nói ấy có hàm ý gì? Và tại sao là TBT đảng CSVN (quang vinh?) lại nói toạt móng heo như vậy?
Sau khi Trung Quốc công bố “công hàm 58 của Thủ tướng VNDCCH, ông Phạm văn Đồng gửi TT/TQ, ông Chu ân Lai, để trả lời rằng chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Quốc Vụ Viện Trung Quốc về lãnh hải của nước CHNDTH, trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của VN, người ta mới nhận ra là “công hàm 58 của chính phủ VNDCCH mà người thay mặt ấn ký là TT/Pham văn Đồng cũng chính là câu trả lời cho các câu hỏi trên đây. Và, lại có câu hỏi: vì sao?
Bởi vì: -1/Chủ trương của đảng cộng sản là “không có phạm vi gia đình” (vô gia đình), chỉ có xã hội. “Không có biên giới quốc gia” (vô Tổ Quốc), chỉ có Thế giới đại đồng. “Không có tín ngưỡng Tôn Giáo” (vô Tôn Giáo), chỉ có chủ nghĩa cộng sản.
-2/Nước VNDCCH là một nước cộng sản, và những ai đã là đảng viên cộng sản (kể cả Lê Duẫn, Phạm văn Đồng, Hồ chí Minh, v, v… không thể đi ra ngoài chủ trương đó. Nói một cách khác là mặc nhiên tuân theo chủ trương đó, mặc dù họ không bao giờ công khai như vậy, việc làm của họ cũng sẽ nói lên điều đó.
-3/Vì tuân phục cái chủ trương “Tam Vô” nên cái tên nước VNDCCH coi như chỉ còn ở đầu lưỡi đối với đảng cộng sản. Từ đó, là Hoàng Sa, trường Sa không còn là của VN nên mới có công hàm 58 của Phạm văn Đồng thay mặt CP/VNDCCH. Và, cuộc chiến VNDCCH xâm chiếm VNCH ngày 30/4/75 là chủ trương của csQuốc Tế do Liên Xô và Trung Quốc lãnh đạo, VNDCCH chỉ là đạo quân xung kích của csQuốc Tế nên mới có câu tuyên bố để đời của TBT/CSVN Lê Duẫn năm 1975 “Chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”
Khốn khổ thay, 7 nước cs Đông Ấu và Liên Xô, thành trì bất khả phá của csQuốc Tế, đã sụp đổ tan tành vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 vì cái học thuyết “Tam vô – Cộng sản – Đại đồng” không tưởng của Marx, và cái đồng chí vĩ đại Trung Hoa trá hình cộng sản tiếp tục mộng bành trướng của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán, đang ngày đêm vừa ru ngủ vừa xâm lăng VN từ đất liền đến biển đảo; đã chưa làm cộng sản VN sáng mắt mà cứ khom lưng cúi đầu tung hô vạn tuế để nhờ đàn anh giúp đỡ chống lại bọn “đế quốc đầu sỏ” (ám chỉ đế quốc Mỹ) và lực lượng thù địch ở nước ngoài(?) để “xây dựng thành công CNXH – CNCS/QT”! (Nghị quyết ĐH Đảng csVN lần thứ XI)
Thật là đần độn, cuồng tín hết chỗ nói!
Nói riêng với Trần Lâm nhé, vì xem ra ông là người có bỏ thời gian nghiên cứu chủ nghĩa CS rồi đấy, vây:
!/ ông phân tích về CS là theo cái chung cuồng tín thì chỉ đúng trong những giai đoạn đầu sơ khai, mới đưa chủ thuyết CS vào VN mà thôi . Đó là thời gian trước 1930 (Năm thành lập Đảng). Sau đó đại đa số không ai nghĩ như ông đâu.
2/ Ông HCM theo CNCS vì thấy QTCS III của Lê Nin có nói đến Giải phóng các nước thuộc địa. Ông Hồ chỉ “mượn cỗ xe CS” để làm CM giải phóng dân tộc mà thôi.Nếu ông còn sống sau 1975, Ông cũng sẽ đi theo KTTT TBCN như bây giờ, mà có khi ông còn cho đa nguyên đa đảng nữa không biết chừng?)
3/ Chính ông HCM đã từng bị QTCS thi hành kỷ luật vì không theo chủ trương chung mà ông bị qui là người của ‘dân tộc chủ nghĩa”. Tôi kể ông nghe: ” Một lần ông Hồ đi LX gặp Stalin. Stalin chỉ 2 chiếc ghế bảo’ một chiếc là QTCN còn một chiếc là DTCN đồng chí chọn chiếc nào? Ông Hồ không nói gì lăng lẽ kéo 2 chiếc ghế lại sít nhau và ông ngồi vào giữa ” thế đấy!
4/ Còn việc lý giải cái công văn của ông Pham văn đồng thì giải thích như bài của ông vietnamnew là hợp tình hợp lý nhất. ông nên xem lại!
Vua đồ tể Stalin là người đa nghi hình thức kỷ luật Đảng chỉ mang giá trị đánh giá sự trung thành của HCM mà thội….Hành động ngồi ghế của HCM ngầm cho Stalin hiểu rằng HCM sẳn sàng vì QTCN đạp đỗ DTCN….( Sau nầy được minh chứng qua cái công hàm của Phạm Văn Đồng )
Tuấn triệt đã “không biết thì dựa cột mà nghe”, đừng có xía vào nói năng vớ vẩn, chẳng có lý luận gì! Sic!
@Vu
Sai rồi, lại sửa đổi lịch sử mốt chút để chọc thiên hạ hay sao??? Sự thực là thay vì chọn ngồi ghế, Hồ chí minh đã quỳ gối xuống trước mặt Xịt ta lin, khấu đầu tung hô vạn tuế, nhưng vì Xịt ta lin không quen với lối quỳ lạy của phương Đông, nhưng cũng không nói gì cho nên Hồ chí minh mới toàn mạng mà về, trong lòng không khỏi mừng thầm bị một phen suýt đái ra quần!!!
Việc mà Vu nói là “nếu Hồ chí minh còn sống đến bây giờ thì…..đa nguyên đa đảng” là nói chuyện…..tào lao!!! “Nếu” Paris biến thành Washington……
Nói tóm lại, đã đủ nhiều những tài liệu vạch rõ Hồ chí minh và đồng bọn đảng CSVN thực chất chỉ là một bọn bán nước hại dân, cam tâm làm tay sai cho giặc Tàu. Tội lỗi và sự man rợ cùng những việc Hồ chí minh cùng đồng bọn đảng CSVN gây ra sẽ bị nhân dân VN muôn đời nguyền rủa. Hồ chí minh và đảng CSVN còn lưu manh hơn cả Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc nữa!!!
@Vũ
Trích: “….Nếu ông HCM còn sống sau 1975, Ông cũng sẽ đi theo KTTT TBCN như bây giờ, mà có khi ông còn cho đa nguyên đa đảng nữa không biết chừng?)”
Đừng nói chuyện “nếu” Hồ chí minh còn sống sau 1975 cho xa xôi, chỉ cần thời gian quay ngược lại trước 1975 chừng vài năm thôi, các bà mẹ anh hùng sẽ chỉ tên điểm mặt, mở nắp hầm báo cho các anh chiến sĩ VNCH tóm cổ bắn bỏ tất cả bọn CS nằm vùng; giới trí thức miền Nam sẽ không còn xuống đường biểu tình chống Mỹ nữa mà chống bọn VC xâm lăng miền Nam; v.v. nhân dân miền Bắc tự động đứng lên xin được “bị Mỹ Ngụy kềm kẹp” như nhân dân miền Nam; bảo đảm bọn CSVN chết không có đất chôn!!! Nếu như vậy thì đúng với thực tế và lòng dân hơn!!!
1 tên mệnh danh là lãnh đạo 1 đất nước lại đi làm 1 kẻ trộm cắp vặt vãnh, hèn hạ như thế kia, vậy mà vẫn được tôn vinh ? Đúng là cái Công Hàm 1958, khi TQ nó công bố ra, thì có khác nào tạt 1 bô kít vào mặt ” người hùng dân tộc ” HCM !!!
Bên Pháp, anh mà vu cho họ là ăn trộm, họ có thể đánh anh đến chết ! Ở xứ sở văn minh, người ta rất kỵ 2 từ ĂN CẮP, nhất là ăn cắp VẶT !
Hiện nay, thế hệ con, cháu của HCM đang bàn loạn về cái nghề ‘ HAI NGÓN” của BÁC mình à !!!
Thế cái lăng Ba Đình uy nghiêm, ngày đâm rằm rặp bước chân người (lính , dân trong và ngoài nước ) đi thăm BÁC, vậy hướng dẫn viên du lịch có thể giới thiệu như thế nào ? : ” Đây là nơi an nghỉ của 1 tên trộm à ? “
vietnamnew says:
11/08/2012 at 22:59 Việt Nam thận trọng chưa đưa ra trọng tài QT vì đã có philipine đưa ra tòa án QT rồi. VN còn nghe ngóng xem sao, để rút kinh nghiệm? Chủ yếu chờ TQ lộ hết bài rồi mới phản công.
VN cũng biết Mỹ không thể để TQ độc chiếm Biển Đông. Kiểu gì Mỹ cũng phải nhảy vào nên VN tạm cố nhún nhường để Mỹ-Trung đấu nhau ở giữa được lợi (Trai cò đánh nhau, Ngư ông đắc lợi). Chúng ta cứ chờ đấy mà xem./.
Bình luân: Bài này đáng được để lên đây!
….Chờ đến đại hội Thăng Long lần sau….
Kính thưa ông Tuấn Triệt:
Các ông bảo đánh đổ CS? Vậy chờ đến “đại hội” nào các ông đánh đổ xong CS, Hả? Các ông đánh CS từ thời ông Diệm cơ mà, sao CS nó cứ to phình lên? còn các ông cứ teo lại? Cần có liêm xỉ ông ơi.
Công văn Phạm Văn Đồng!
Muốn biết vì sao ông Phạm Văn Đồng có cái công văn trên thì phải theo dõi toàn bộ mối quan hệ VN_ TQ từ khì thành lập nước đến nay mới có thể lí giải rõ ràng được:
Ở đời “không ai học được chữ ngờ”. VN cũng không phải là ngoại lê..
1/ giai đoan đầu từ 1927- 1954: VN tin theo QTCS-3 vì trong cương lĩnh có đoạn nói về ‘giải phóng các dân tộc thuộc địa “ chính TQ cũng cùng chung hoàn cảnh với VN nên cùng tin theo. Tất yếu giai đọan này VN và TQ đúng là như “môi với răng” VN vô cùng biết ơn sụ giúp dỡ của nhân dân TQ. Tuy nhiên không phải chỉ có việc TQ giúp VN. Mà VN cũng giúp lại TQ. Quân dội giải phóng quân VN đã một vài lần tiến sâu vào sâu đất TQ đánh quân “Tưởng GIới Thạch” thắng lời ròn rã để hỗ trợ Hồng Quân TQ khi mà quân GPTQ chưa đánh tới phia cực nam. Máu của người VN đã đổ vì sự nghiệp ra đời của chính cái nước CHNDTH ngày nay.
2/ giai 1954 đến 1975:
Đầu giai đoạn này( trước 1958), TQ cũng khá hết lòng viện trợ từ luơng thực thực phâm, y tế và vũ khí cho VN đánh Pháp rồi đánh Mỹ khá nhiệt tình. Nhưng đến năm 1958, TQ trở mặt ra tuyên bố phạm vi lãnh hải 12 hải lí trong đó có HS, TS coi như thuộc về TQ (lúc này 2 quần đảo này đang thuộc VNCH quản lý theo Hiệp đinh Giơ ne vơ 1954). Lúc đó hoàn cảnh bắt buộc VN phải lên tiếng. Nhưng lên tiếng thế nào đây/ quả là một đòn cân não. Nếu tuyên bố phản đối TQ, nói HS, TS là của VN thì TQ sẽ cắt đứt quan hệ với VN, không viện trợ cho VN nữa mà còn cắt đường vận chuyển hàng viện trợ của LX và các nước XHCN qua đường TQ nữa.. Khi đó VN cô lập , LX thì ở xa, trong hoàn cảnh VN còn nghèo và yếu, không có viện trợ của LX và TQ thì VN không thể giải phóng Miền Nam. Hơn thế nữa thì dù có phản đối TQ thì nó vẫn không từ bỏ ý đinh chiếm HS cơ mà. Bởi vậy ông Đồng viết cái công văn như vậy là “tạm thời hy sinh cái thiệt hại nhỏ để tập trung giải quyết mục tiêu lớn hơn nhiều là ‘giải phóng Miền Nam ( ½ đất nước to lớn hơn nhiều các hòn đảo chứ?)”. Viết cái công văn này là để lừa TQ tin vào việc VN đồng ý để HS, TS là của TQ và như thế TQ sẽ tích cực giúp VN đánh Mỹ , giải phóng Miền Nam. Tại sao lại nói là “tạm hy sinh” vì viết cái công văn như thế vẫn còn “cửa” để sau này có điều kiện sẽ đòi lại vì:
- Thứ nhất, việc phân định chủ quyền lãnh thổ thì phải bằng hiệp đinh ký giữa 2 nhà nước và phải được QH 2 nước thông qua. Thế thì cái công văn suông kia không có giá trị pháp lý.
- Thứ 2, HS,TS lúc đó thuộc VNCH quản lý, VNCH đã phản đối TQ, còn VNDCCH viết công văn như vậy là can thiệp vào cái không phải của mình nên nó hoàn toàn vô giá trị.
- Ngoài 2 lý do trên VN còn nhiều bằng chứng LS để chứng tỏ 2 quần đảo là của VN.
( Theo như tác giả bài viết Trương Nhân Tuấn trên báo Đàn Chim Việt trên đây nói là VN bây giờ và nhà nước VNDCCH trước đây thưc chất là một. Điều này đúng về bản chất chế độ CS mà thôi chứ về pháp lý, VN hồi đó tồn tai 2 nhà nước hẳn hoi và Nhà nước ngày nay là sự kết hợp thống nhất giữa 2 nhà nước gồm VNDCCH và Nhà nước CHMNVN- Về pháp lý Nhà nước ngày nay không phải nhà nước VNDCCH miền Bắc ngày xưa)
Về dã tâm chiếm đảo của VN thì VN đã rõ (từ 1958) nhưng VN không thể ngờ được việc TQ trở mặt phản bội sỗ sàng là đến1972 , Nison sang thăm TQ,. TQ liền thông tin cho Mỹ rằng “mi không đụng đến ta, ta không động đến mi”, Mao nói thẳng với Nison ràng quân đội TQ sẽ không đánh nhau vượt qua biên giới của mình (ý là Mĩ cứ đánh Bắc Việt đi thì TQ không đem quân vào đánh hộ VN đâu). MỸ bắn tin lại là Mĩ sẽ không làm gì, nếu TQ không tấn công trực tiếp vào Mỹ. Thỏa thuận xong Níson tăng cường leo thang đánh phá ác liệt miền Bắc hòng đưa miền Bắc về “thời kì đồ đá”. Còn phía TQ rộng mở dánh chiếm Hoàng sa từ tay VNCH, Tàu chiến của đồng minh Hoa Kì cách đó không xa đã không hề can thiệp.Hải quân VNCH “chết tức tưỏi”, Hoàng sa vào tay TQ. Bắc VN lúc đó há miệng mắc quai, hoàn cảnh không cho phép “cùng một lúc chống cả Mỹ và cả TQ nên đành nhịn”Ngậm bồ hòn làm ngọt”. Nhưng VN cũng đã “rất khéo léo” phản đối theo kiểu ý tứ bằng một công văn(thứ 2) gửi TQ nói rằng “cảm ơn TQ đã giải phóng Hoàng sa giúp VNDCCH”. (Như thế là đương nhiên công bố Hoàng Sa vẫn là của VN. TQ đánh chiếm hộ VN , cảm ơn giữ hộ, mà đã là giữ hộ thì sau cũng phải trả lại chứ!) , TQ lúc đó “ỉm cái công văn này” đi không trả lời và cũng bắt đầu “hơi nghi ngờ thái độ” của Băc Việt (Ý là khó lừa đựợc thằng cha này lắm, hình như nó đã phát hiện ra âm mưu của mình rồi?)
Tóm lạị qua cả 2 giai đoạn trên ta kết luận như sau: “ VÌ mong muốn giải phóng dân tộc mà VN đi theo CSCN, vì cả tin, ngây thơ (mất cảnh giác) tin yêu tình đồng chí nên VN tuyệt đối tin tưởng vào TQ, không ngờ TQ thâm hiểm trở mặt như trở bàn tay.Phản bội tình đồng chí keo sơn này.
Tuy nhiên dù sao chúng ta vẫn cảm ơn nhân sân TQ (vì những gì họ đã giúp đỡ) mà chỉ nên căm thù nhà càm quyền TQ âm mưu thâm độc mà thôi.Chúng ta là người đại lượng biết phân biệt người tốt kẻ xấu.
3/Giai đọan từ 1975 đến nay:
Ngay sau khi giải phóng miền nam xong(1975) , Lê Duẩn sang thăm TQ đưa công văn (thứ2) về việc “cảm ơn TQ chiếm giúp và giữ hộ Hoàng sa giúp VN” và đề nghị TQ trao trả VN. Ngay lập tức Mao đưa công văn của thủ tướng Pham văn Đồng ra nói rằng chính các vị đã công nhận Hoàng Sa và cả Trường sa nữa là của TQ rồi. Tuy nhiên Lê Duẩn là người thông minh, nhanh trí và quyết đoán nên tuyên bố luôn “không công nhận cái công văn của ông Phạm Văn Đồng vì những lí do như đã phân tích ở phẩn trên là:
a/ theo qui định quốc tế, văn bản phân chia lãnh thổ giữa các quốc gia thì phải bằng hiệp định kí kết giữa 2 nhà nước và phải được quốc hội 2 nước thông qua mới là hợp pháp., ý kiến của ông Đồng chỉ là ý kiến cá nhân.
b/ 1974, Hoàng sa đang do VNCH quản lí theo hiệp định giơ ne vơ, mà có TQ kí vào đó hăn hoi thí theo ví tuyến 17 trở vào có đảo HS là do CNCH quản lí. Ông Đồng là thủ tướng VNDCCH không thể cho TQ cái mà họ không có. Theo qui đinh của LHQ, mọi tranh chấp lãnh thổ phải giải quyết bằng thương kượng hòa bình. Việc TQ dung vũ lực đánh chiếm là vi pham luật QT!
Nói thật lúc đó Mao Trạch Đông ứ họng, chỉ biết chửi Lê Duẩn là kẻ ‘ăn cháo đá bát” mà thôi. Lê Duẩn cũng không vừa, nói : “thế Liên Xô có giúp TQ không?, chính LX không chỉ giúp TQ vể kinh tế mà còn giúp bằng xuơng máu, đánh tan đạo quân Quan Đông 1 triệu quân ở Mãn Châu Lý, nay mới thuộc về TQ chứ. Vậy sao TQ đánh LX, chửi LX là “bọn xét lại”, vậy thì TQ có là kẻ “ăn cháo đá bát” với LX không? Một lần nữa “Mao lại ứ họng” và dọa dẫm vài câu này nọ nhưng Lê Duẩn nói “dân VN cương quyết sẽ chống lại bất cứ kẻ thù nào..Rồi Lê Duẩn về nước luôn sau đấy chằng dự tiệc “hữu hảo” cái chi cả.
Phải nói vô tư thế này ; Lê duẩn rất thông minh và quyết đoán nên có ứng xử mạnh mẽ cũng là vì tình thế lúc đó khác , VN đã hoàn thành việc Giải phóng Miền Nam và bây giờ là lúc VN tuyên bố chính thưc HS, TS là của VN, phản đối TQ chiếm HS.” So với thời ông Pham văn Đồng lúc trước nó khác, điều kiện chưa cho phép Phạm văn Đồng nói mạnh như Lê Duẩn. Nếu thời đó mà ông Đổng thẳng thừng như Lê Duẩn thì TQ sẽ trở mặt tấn công VN ngay và Bắc VN sẽ thành một tỉnh của TQ rồi, chứ làm sao lại còn đánh Mỹ được nữa. .Chính cái công văn của ông Phạm Văn Đông1958 và cái công văn (thứ 2) cảm ơn sau đó 1974, đã tạo tiền đề cho Lê Duân có thể hùng hồn diễn thuyết ở Trung Nam hải như ta nói ở trên. Và còn tạo thuận lợi cho chúng ta hiện nay trong việc đòi Hoàng Sa nữa.
Có kẻ bảo VN là hèn với TQ, tôi lại cho rằng khéo léo chứ không phải hèn. Riêng chuyên Biển Đông tôi xin nói tiếp như sau;
- Rõ ràng thời kì 1958 tình thế bắt nuộc ông Đồng không thể làm khác được. làm như ông Đồng là giảm thiệt hại đên mức tối thiểu, cho dù còn lâu dài vẫn khó khăn đòi lại HS, nhưng dù “tạm mất H S” lúc đó vẫn không thể so sánh vê mức độ nhiêm trọng bằng “VN mât luôn cả miền Bắc”(nếu như ông Đồng phản đối TQ ngay lúc đó). Cái đó nguy hiểm to hơn chứ, “đành nhận cái thiệt hại nhỏ để đạt được mục tiêu lớn” là người có tầm nhìn vĩ đại. không như mấy kẻ tiểu nhân chứ nghĩ ra đường hô máy câu “đả đảo TQ” mà xong được à? Chơi với TQ cũng cần phải biết dùng “thủ đoạn”.
- Một điều nữa là sau đó VN vì tiêu diệt bọn Pon Pot ở campuchia nên bị Mĩ và TQ hùa nhau cô lập VN ở LHQ, cấm vận này nọ , hoàn cảnh kinh tế quốc phòng VN cực kì yếu. 1982 TQ chiếm 6 cái bãi đá ngầm ở Trường sa là chuyện bất khả kháng vời VN, Tuy vậy đây cũng là sự “khôn khéo” của VN. “Im lặng không chống lại”, nếu chống lại có khi TQ nó chiếm luôn cả Trường Sa một thể thì toi đời (do ăn ở phúc dức nên trời giúp, trời làm cho TQ lú lẫn ngu si vì không nghĩ ra là nếu tấn tới lúc đó thì coi như chuyện đã rồi, có lợi cho TQ hơn nhiếu- (nhưng bây giờ thì muộn rồi “vừng” ơi!).
- Yếu thế thì phải nhịn. “Quân tử trả thù mười năm chưa muộn” cơ mà???
- Ngay như việc TQ làm mưa làm gíó bắt dân đánh cá VN, dọa dẫm này nọ rõ ràng lúc đầu nhiếu nhưng càng ngày càng it đị cho dù vẫn còn một vài sự kiện nhưng đó là do VN đã mạnh lên rồi . Tuy nhiên tại sao VN nay vẫn còn nhịn TQ là vì VN chỉ nhịn những cái trong giới hạn cho phép mà thôi. VN đang củng cố quốc phòng rất mạnh mẽ, liên kết với Nga, Mỹ , Ấn , Nhật , Úc, A SEAN rất tốt điều này đã thể. Hơn nữa nếu sảy ra chiến Tranh VN dù có thắng TQ thì cũng thiệt hại xương máu vô vùng to lớn- chẳng lợi lộc gì cố gắng giữ hòa bình vẫn hờn, nhưng nhịn cũng có giới hạn. Đố TQ dám đụng vào các dàn khoan dầu của VN một lần nữa! Nếu TQ chiếm thêm đảo TS thì chính VN sẽ cho TQ một bài học nhớ đời!
Kết Luận : Muốn đánh giá một con người , một tổ chức , một đảng phái là ‘Hèn” hay “khôn ngoan” là phải xem xét cái hành động lời nói ứng xử của người ta qua nhiểu giai đoạn với những hoàn cảnh điều kiện khác nhau, cà việc xét theo chiều tiến bộ càng ngáy càng mạnh của người ta mà đánh giá.
Tái bút: Ngay cả mấy cái hình ảnh giã man của CSVN đối với nhừng người dân chống TQ cùng cần phải nhìn nhận thế này cho đúng. Trước hết tôi đồng ý cho đấy là hành đông dã man độc tài tàn ác, cần chống lai CSVN thậtquyết liệt. Nhưng tôi không cho đó là do CSVN là hèn, là tay sai của TQ vì:
Trong điều hành trận đánh thì “quân lệnh như sơn” Hô tiến là tiến, bảo dừng là dừng, , bảo lui cũng phải lui (dù đang hăng máu dũng cảm mấy cũng phải tuân theo”. Ai không tuân lệnh, bắn bỏ. CSVN đã áp dung cái kiểu ‘Quân lênh như sơn” này một cách quá tả , thâm chí là tàn bạo, tàn nhẫn, chứ không phải CSVN hèn, sợ gì TQ đâu. Đối với địch “vừa đánh vừa đàm”, có luc thỏa thuận với nhau ngừng bắn, ngừng tuyên truyên, ngừng biẻu tình cũng là chuyện bình thuờng chứ. Ngoài ra còn một lý do nưa là VN sợ nếu để tự do biểu tình, dù là chống TQ nhưng quen thói sau này biết đâu lại biểu tình chông chế độ cũng nên?. Vậy ta cứ đàn áp trước đi là hợn (đề phòng từ trong trứng nước). Không phải VN sợ TQ đâu ./.
NGƯỜI LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC CẦN PHẢI SÁNG SUỐT
Người bình thường có thể bảo không ai học được chữ ngờ. Song người lãnh đạo một đất nước không được quyền nói như thế. Có nghĩa người lãnh đạo đất nước phải biết nhìn xa thấy rộng, tiên đoán được mọi việc, ngăn ngừa được mọi việc. Chỉ khi đối đế lắm mới chủ động xử lý tình huống sao cho tối ưu, không thể bị động, không thể bế tắt. Đó chính là khả năng tiên liệu của người cầm quyền. Cầm quyền là nắm cả vận mệnh của dân tộc, đất nước, của tất cả mọi người, không phải chỉ nắm quyền lợi hay sự hiểm nguy của riêng bản thân mình.
Nên cũng không thể nói nếu không nhân nhượng với Trung Quốc khi TQ đưa ra tuyên bố về hải phận của họ năm 1958, TQ có thể đánh chiếm toàn bộ miền Bắc. Và nếu năm 1974, miền Bắc đánh lại TQ khi họ chiếm Hoàng Sa, TQ sẽ có thể chiếm luôn Trường Sa. Nói như vậy là kiểu suy lý tiêu cực, thụ động, nhiều chất đoán mò hơn là cân nhắc các dữ liệu khách quan, cụ thể.
Trước hết, nếu năm 1958, ông Phạm Văn Đông hay miền Bắc không đưa ra công hàm 1958, nhiều lắm sẽ có căng thẳng bất lợi cho miền Bắc về phía TQ, không thể nào TQ đánh chiếm được miền Bắc. Điều này hoàn toàn phi lý, không có cơ sở. Vì lúc đó còn có miền Nam, còn có Mỹ hậu thuẫn cho miền Nam, và cả Liên Xô lúc đó cũng không bình chân như vại mà cho phép TQ một mình làm mưa làm gió theo kiểu đó. Nên chỉ có thể nói công hàm 1958 của PVĐ là chỉ thấy gần mà không thấy xa, chỉ lệ thuộc TQ hơn là độc lập, chỉ lấy vấn đề ý hệ hay quyền lợi riêng làm cao hơn tình cảm yêu nước hay quyền lợi quốc gia đất nước.
Tương tự như thế, năm 1975, TQ đánh chiếm Hoàng Sa, chỉ có quân đội miền Nam chống trả quyết liệt nhưng vẫn thua và mất đảo. Trong khi đó bộ đội miền Bắc chỉ lo đánh thắng miền Nam mà không chống trả lại TQ khi họ đánh lấy Hoàng Sa của ta. Điều đó chỉ có nghĩa miền Bắc lúc đó chỉ nhìn hời hợt vấn đề, không đánh giá mức nghiêm trọng về phía TQ mà chỉ đánh giá lợi ích thiển cận về nội tình tại miền Nam lúc đó. Cứ nghĩ rằng TQ đánh giúp, chiếm giúp rồi sau sẽ trả lại. Rất tiếc không nhớ câu tục ngữ ông cha từng bảo đừng khôn nhà dại chợ. Quả nhiên TQ không những không trả lại Hoàng Sa sau đó mà còn trưng ra công hàm để nhằm nuốt trọn luôn cả Trường Sa về sau nữa, kể cả thềm lục địa của ta họ cũng đang nhắm tới nữa, vì đó là cơ sở để họ lấn chiếm toàn bộ biển Đông, coi như bít ngõ toàn diện của VN về thông thương ra biển lớn. Cho nên khi ông Lê Duẫn có sang trỗ tài với Mao Trạch Đông ra sao thì đó cũng là chuyện đã rồi. Một lần lở bước là ân hận ngàn đời chính là như thế.
ĐẠI NGÀN
(12/8/12)
Nói như đai Ngàn thì là chuyện đã rồi, bây giờ ngồi im cho TQ chiếm đảo sao? Phải đọc cho ký bài viết của ông vietnamnew, đọc kỹ vào thì mới hiểu. CSVN cũng có thể sai lầm chứ? Mỹ cũng vậy. Trên thế giới nay có biết bao cái sai lầm của các chính phủ quốc gia? Cái quan trọng là sau đó họ ứng xử ra sao?
Tôi xin hỏi ông Đại Ngàn, nếu lúc đó mà Ông Đổng ra công văn phản đối TQ, nói HS, TS là của VN thì tình thế sẽ ra sao? TQ nó sẽ làm gì VN? Ông thư viết một bài phân tích có ngọn ngành xem sao? Nên nhớ là năm 1958, VN còn rất yếu, luôn cần viện trờ kể cả gạo, bột mì Của LX và TQ và các nước XHCN khác (hàng LX nhờ qua đường sắt của TQ là chủ yếu) chứ chưa nói đến VK để GPMN?
Xin phép THÀY LAY lay một chút !
Tôi hoàn toàn không có khả năng lý luận rất là thực tiễn như Tâm Chính (ở phần đầu) com !
- Còn như;
“.. Nên nhớ là năm 1958, VN còn rất yếu, luôn cần viện trờ kể cả gạo, bột mì Của LX và TQ và các nước XHCN khác (hàng LX nhờ qua đường sắt của TQ là chủ yếu) chứ chưa nói đến VK để GPMN?
_Câu hoỉ đặt ra : Anh CHÍNH nhà tôi có nghe câu phát biểu từ tim óc cuả ông DUẪN lần nào chưa ??
- Nếu chưa, thì khoỉ noí thêm về sự khiếm khuyết !!!
- Laị thêm câu hoỉ nầy: Nhận VIỆN TRỢ để nghe theo lời sai khiến cuả hai ông anh lớn_ Đẩy hàng triệu thanh niên nam nử vì dói ăn, phải vì miếng ăn (gạo, bột mì cuả LX TQ) mà cầm VK (cũng cua LX TQ luôn) thành những oan hồn làm phân bón cho cây rừng Trường Sơn _ Đâm chém người anh em ruột thịt MN đang sống trong thanh bình thịnh trị ! Lòng ganh tỵ chất chứa bao nhiêu là tôi ác ?????????
- DI HAỊ thì quá rõ !!! Thôi khoỉ bàn thêm nhé anh.
Tin rằng con mắt anh có mang kiếng ! Anh đang sống làm người VN..
Gửi mấy bác VNCH!
Tôi không bênh CS, tôi chỉ nói nguyên lý chung chung mà thôi. Nghèo thì phải nhận viện trợlà tất nhiên, mà đã nhân viên trợ thì phai nghe theo kẻ cho mình viên trợ cũng là hiển nhiên. TT Thiệu chống không Ký Hiệp định Pari- Mỹ dọa cắt viện trợ và dọa cắt đầu TT VNCH, thế là xong, ký liền. Bắc Việt cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, họ nhịn mà họ chiến thắng, họ thành công còn VNCH cũng nhịn nhưng lại tan tác phải bỏ nước mà ra đi? Thật đáng buồn. Nghèo là thế! Chửi CS thì cứ thoải mái Nhưng chửi cũng phải biết cách chửi sao cho nó có logic. Đừng nói năng bừa bãi như là mình tài mình giỏi hơn CS vì mình đã là kẻ thua. Thua thì nói là thua. Đến Mỹ mà họ còn nhận là họ thua, thì sao VNCH ta không dàm nhận? Người Nhât họ thua trận đấy. ai dám khinh họ nào? Mình không nhận thua thì thế giới họ vẵn bảo thế cơ mà ( đây là tôi nói tử tế nhé! mấy vị VNCH đừng có mà nói năng bậy bạ là không được đâu đấy. Nói năng thiếu văn minh thì thế giới người ta càng khinh cho. Lưu ý nhé!)./.
Tôi không gơỉ cho mấy bác SBTN/CS
Mà trân trọng gơỉ bác Trần Tiên
Mừng là bác đã đọc còm cuả em ! Mơì bác đọc thêm một vài lần nữa ! cho thấm, cho thấu… tình anh em NÒI GIỐNG VN !!! Có chỗ nào gọi là SAI, là không thích hợp nhờ bác thẳng thắng chỉ giáo, hoặc công nhận !
Sự thể đã quá rõ ràng !
THÀNH CÔNG & DI HAỊ ?
Bac, tôi- chúng ta đều rõ !!! khoỉ cần nguỵ biện phaỉ không bac TIÊN !
_ Viết bằng caí TÂM như bác thì dân tôc mình, anh em mình cũng bớt đi phần naó ” CHIA RẼ HẬN THÙ”
- Nêú cái TÂM cuả bác không hẹp hay 0 còn bị mê hoặc mà nặng về ‘cảm tình” thì tôi lễ phép thưa : Lần sau bác có thiện tâm com thì nên thay VNCH bằng danh xưng nào hay hơn, thuần hâu hơn, ít khiêu khìch hơn ! ít phân biệt hơn !
Dài dòng như vậy vì tôi biết rất nhiều người là ĐVCS , nhưng goị là CS thì họ cho là “CHỤP MỦ” !!!!! hehehehe
Anh Trần Tiến ơi, anh nhai…cái gì trong miệng vậy?. So sánh như vậy là rất là “khập khiểng”. Tình cảnh miền nam lúc đó là thụ động, giặc đánh vào nhà, thân cô thế yếu phải nhờ cậy người khác. Miễn là giử được nửa nước ngày nào thì dân có cơm, có học ngày đó. Trong khi đó miền bắc là chủ động, đói rách mà đòi giải phóng, ngu dốt lại muốn thống trị, kiếm chuyện đánh lộn cho…thiên hạ cộng sản. Nhìn lại cuộc chiến thì anh đã hiểu rõ rồi, ai là kẻ gây ra cảnh cửa mất nhà tan, đoạ đày dân tộc Việt Nam vào tận cùng của bế tắc. Anh nói nghe như người có mua…. bằng cấp: “Nghèo thì phải nhận viện trợ là tất nhiên, mà đã nhân viên trợ thì phai nghe theo kẻ cho mình viên trợ cũng là hiển nhiên.”. Không đúng, chính xác thì phải hỏi tại sao thằng gì đó “ngoan cố cực đoan” tự làm cho nó nghèo, nghèo mạt rếp, nghèo đến độ phải xin cả…đôi dép, rồi xin súng và dao, mượn “bàn thờ” đi xin người anh em….tí huyết. Nó như thằng hạ cấp mang thân đi cờ bạc, thân tàn ma dại đi mượn nợ đám lưu manh “cờ gian bạc lận” rồi sau đó than…nghèo nên….hèn và phải bán bàn thờ ông bà tổ tiên cho các “ân nhân”. Phải chi nó hèn mà gia đình nó…đở hén, vợ con có cơm ăn, có học hành để thoát cảnh hèn…tập thể. Ai ngờ….hèn cả giòng, cả làng lây sang cả…nước. Trần Tiến ơi, các anh thắng ở chỗ nào? Mỹ vẫn còn đó, chúng tôi cũng còn đây. Vị trí của chúng tôi luôn ở phía trước, anh không thấy sao? Tới bây giờ mà các anh vẫn còn mò mẫm từng bước chúng tôi đi mà. Đừng mặc cảm, hãy kể cho chúng tôi biết rằng anh “người chiến thắng” có cái gì sau dấu hai chấm. Thôi để tôi giúp anh hai chiến lợi phẩm gọi là mào đầu gợi ý nhá. “Tổ Quốc “ và “Nhân Dân”, có đúng không? Anh lại…nhai nữa rồi. Thế là …cực đoan đấy, nuốt không trôi thì cứ phun ra rồi…….liếm lại. Có “thua” hay “mất” cái gì đâu nào?
Tại sao “đánh cho LS – TQ” mà phải cầu lụy nó , để có được miếng ăn ? Anh NGU DẠI., ÍT HỌC mà muốn làm đại sự, thì bị thằng Khôn nó nắm đầu ! Bây giờ mất biển, đảo, tương lai sẽ mất trắng, có thấy cái DẠI của mình không ?
Tại sao đất nước đã được trao trả độc lập từ Nhật, tự nhiên tham lam đi cướp công của chính phủ Trần Trọng Kim, rồi phải đi “xin ăn” ngọai bang để gây chiến tranh ? rồi phải luồn trôn bán, biển đảo để duy trì cái chíên tranh “đánh dùm” ngọai bang ?
Y hệt một lũ điên lên đồng ! VN mất nước là phải !
TÂM CHÍNH
Tâm chính có nghĩa là lòng phải chính. Lòng chính là chỉ có lòng yêu nước, yêu dân, yêu sự thật, mà không thể yêu bất kỳ cái gì khác thấp hơn. Do vậy, tâm chính thì không thể ngụy biện, không thể bào chữa cho cái gì không chính đáng. Bởi nếu theo hướng đó thì thật là tâm tà nhưng chưa phải là tâm chính.
Có nghĩa nếu có những cái sai của nhà lãnh đạo, có thể phân biệt cái sai về chiến thuật, cái sai về chiến lược, và cả cái sai về mục đích. Mọi cái sai về chiến thuật, cả sai về chiến lược dẫn đến thất bại nào đó đều có thể tha thứ hay biện luận được. Nhưng cái sai về mục đích thì nhất thiết không, vì không có mục đích nào lớn hơn dân, hơn nước cả. Có nghĩa nếu lấy cái gì nhỏ hơn dân, hơn nước làm mục đích để thay cho cả dân, cả nước, mà chỉ là ảo tưởng, điều đó trở thành không phải sai mà thành tội. Nên không thể quơ chung ai cũng có thể sai, có thể đúng, mà phải nói cụ thể mức độ hay bản chất của cái sai, cái đúng đó ra sao.
Cho nên nói năm 1958 VN còn quá yếu, phải dựa vào TQ mà đành phải nhượng bộ TQ bằng mọi cách để tồn tại, nói vậy là ngụy biện, thậm chí quỷ biện, tức biện luận kiểu ma quỷ. Bởi đó là cái sai về chiến lược, chiến thuật hay sai về mục đích mà dẫn tới mọi hậu quả về biển đảo ngày nay. Ôi ông Tâm Chính ôi, ông cần xét lại tính cách của cái gọi là chính tâm hay tà tâm của ông đấy.
THƯỢNG NGÀN
(15/8/12)
Lúc yếu thế thì phải nhịn, làm to chuyện thì còn thiệt hơn, làm nhỏ chuyện thì thiệt ít. Ngấm ngầm củng cố lực lượng khi đủ mạnh thì sẽ ra măt công khai đôi chọi. Đấy là điều khôn ngoan. Anh hùng như VNCH thì cuối cùng thế nào ai mà không biết. Ăn nhau là ở trận cuối cùng. Đã chơi nhau là phải có thiệt hại, đó là chuyện bình thường. Địch thâm độc thì ta cũng phải ‘Thủ đoạn”. Đó là tất yếu.
Tôi thấy ông vietnamnew lí giải hoàn toàn hợp lý./.
Νόi dài dòng đễ ngụy biện cho một đường lối sai lầm.
Sai lầm ở chỗ đi nhờ ngoại quốc và hơn nữa, nhờ những nước bất lương nhất trên thế giới: Nga và Tầu.
Đường đúng lý là tự cường qua sự học hỏi những cường quốc Âu châu: Anh về Thủy quân, Đức về lục quân; Đó là đờng lối Nhật Bản dưới triều đại Meiji.
Chẳng đặng đừng , lỡ đọc thì phaì đọc cho hết!!!!
Tôi nghiệp cho cái mồm đánh đĩ !
Chỉ qua vài câu là biết ngay MÔM MIỆNG CON Đĩ GIÀ – Đồng Vẫũ Đồng Đui ,, tuyệt tự.. nhập vào ông NEW nhờ ông NEW lấp liếm bao che cho cái tôị BÁN NƯỚC cuả lão VẪU
Dù gì thì tên tuỗi cuả anh cũng ghi vào “bia miệng” chung danh sách với Trần Ích Tắc – Lê Chiêu Thống, Mạc đăng Dung rồi ! Thêm cả HỒ NÔ nữa anh Vẫu ơi !!
Thà rằng anh cứ sống thật ! Thật thà tử tế ấy mà !
“Lạy bà con tha tội cho !, ĐỒNG tôi chỉ làm theo lệnh cuả Hồ Tập Chương ! Cũng giống như ĐC Đặng Xuân KHU trong CCRĐ vậy mà ! Bà con không tin hoỉ ĐC Võ Nguyên VĂN thì rõ ! ”
Được như thế thì ngay như NEW cũng mừng,thông cảm thương tình ! Thương ở chỗ là biết ĂN NĂN NHẬN TỘI ! – Mồm anh NEW cũng khoỉ bốc muì !
_ Cho anh Đồng XUẤT HỒN đi new !!
_ NEW dành thì giờ đọc THƯỢNG NGÀN , ngẫm xem caí LƯỠI BÒ cuả NEW liếm được tới đâu , bao che được chứng nào ? Báo cáo lên “mấy anh trên”
Xin lổi cụ Tản Đà.
Tên Phạm công-hàm ngu quá lợn.
Thế nên Trung Cộng chiếm Hoàng Sa.
Đảng Hồ giặc Vẹm vô cùng tệ.
Bán cả từ-đường với mả cha.
Người San Jose