Đâu rồi cái sỉ của kẻ sỹ Việt Nam?
“Kẻ sĩ” là từ dùng để chỉ những người thuộc tầng lớp trí thức trong lịch sử. Theo từ nguyên học, etymology “kẻ sĩ” 几士 là từ ghép Việt-Hán, xuất hiện từ thời cổ đại, chữ “sĩ” vốn dùng để chỉ quân đội, thường gọi là võ sĩ, chứ không chỉ “văn nhân” hay “trí thức” như ngày nay. Vào thời cổ đại đó, ở Trung Quốc, đại quốc thường có “ba quân”, trung quốc thường gồm có “hai quân” và tiểu quốc thường gồm có “một quân”. Mỗi “quân” có một nghìn cỗ xe, mỗi cỗ xe có mười “sĩ” thống lĩnh.
Về sau này “sĩ” dùng để chỉ “văn” chứ không chỉ “võ” như thời cổ đại nữa. Bởi thời cổ đại, nhà nước có hai việc quan trọng vào bậc nhất, đó là tế lễ trời đất và hoạt động quân sự nên “Sĩ”, có nghĩa là người được giáo dục, huấn luyện chủ yếu là về quân sự, nhưng về sau do tình hình thay đổi, nên nội dung giáo dục, huấn luyện lại thiên về văn. Do đó, cùng là “sĩ” nhưng thời xưa chỉ quân nhân cũng như “quan võ” nhưng thời nay lại chỉ “trí thức” cũng như “quan văn”, rõ ràng cùng một từ ngữ mà do sự vận động và phát triển xã hội, ngữ nghĩa đã biến đổi quá xa, thậm chí còn gần như còn đối nghĩa với cả từ nguyên.
Trong xã hội ngày nay, kế thừa lịch sử, người ta cũng gọi “sĩ” là “kẻ sĩ”, tức là “trí thức”, để chỉ chung những người chủ yếu lao động bằng trí óc mà có thể nôm na là những người đã hoàn tất bậc đại học, có trình độ từ cử nhân cho đến tiến sỹ… Tức là tầng lớp khoa bảng trong xã hội.
Tuy nhiên, đối với hầu hết người Việt, khi nói đến “kẻ sĩ” thì người ta có xu hướng nghĩ ngay đến những con người khả tín và khả kính, không nhất thiết phải là những người khoa bảng mà mà là những người có nhân cách cao cả, đạo đức chính tâm, tượng trưng cho chân lý và lẽ thật. Tức là những người sống vì cái sỉ, và không bao giờ chịu khuất phục trứơc bạo quyền. Quan niệm này có đúng một phần.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam còn lưu danh một số kẻ sĩ vạn đại danh bất hư truyền mà đối với mọi người Việt Nam, không ai lại không quen tên biết tuổi như cụ Chu An, một đại quan Tư Nghiệp Quốc Tử Giám, đời Trần Minh Tông được phong tước Văn Trinh Công, nên người đời thường biết đến ông là Chu Văn An. Nhưng người ta nhớ đến ông không phải vì chức tước của ông mà bởi cái sỉ của kẻ sĩ khi ông cáo quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng sau khi dâng sớ xin chém đầu bảy tên nịnh thần vào đời vua Trần Dụ Tông, nhưng không được chấp nhận.
Và là người Việt Nam, cũng không mấy ai không biết đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, người đã đỗ trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu, nên dân gian gọi ông là Trạng Trình. Nhưng cũng không phải người ta nhớ đến ông chỉ vì ông là một nhà khoa bảng, mà vì cái sỉ của kẻ sỹ này. Bởi ông cũng đã cáo quan năm 1542 về dựng Bạch Vân Am ở quê nhà để ẩn dật, sau khi dâng sớ hạch tội 18 lộng thần, không được vua nhà Mạc chấp thuận…
Tất nhiên, cả hai kẻ sỹ Chu Văn An và Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi cáo quan, hồi hương ẩn dật, đều có cuộc sống thanh bần của ẩn sỹ, bởi “Nước loạn mà kẻ sĩ giàu là kẻ sĩ nhục, nước trị mà kẻ sĩ nghèo là kẻ sĩ nhục”- đất nước loạn lạc mà kẻ sĩ giàu thì đó là kẻ ích kỷ chỉ biết lo thân, đất nước thái bình mà kẻ sĩ nghèo thì đó là kẻ bất tài không nuôi nổi mình.
Chính cái thái độ minh triết bảo thân ấy của hai cụ Chu Văn An và Nguyễn Bỉnh Kiêm là cả một sự khinh bỉ, bất hợp tác của kẻ sĩ đối với nhà cầm quyền – Và chính cái sỉ đó của kẻ sĩ đã làm cho các cụ được lưu danh vạn đại trong lịch sử của dân tộc, như là bậc thầy của muôn thế hệ con dân đất Việt “Vạn thế sư biểu”.
Cũng theo nguyên nghĩa của “kẻ sĩ” 几士 thì Việt Nam hiện có 24.300 tiến sĩ, 101.000 thạc sỹ và hơn 5.000.000 cử nhân, tất cả đều là “kẻ sĩ” của thời đại Hồ Chí Minh, nhưng khốn nạn thay cho đất nước và dân tộc Việt Nam trong chế độ cộng sản này, bởi hơn 5.124.00 kẻ sĩ này đều cần phải có cái sổ hưu, đều cần phải có siêu xe, đều cần phải có biệt thự sang trọng trong hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương, dân tình loạn lạc… Cho nên ai cũng cần phải được xích hóa với cái thẻ đảng viên, để được thụ hưởng đầy đủ ân sủng từ chế độ để bản thân và gia đình không phải thuộc tầng lớp khó nghèo trong thời buổi nước loạn. Để được vậy, kẻ sĩ thời nay không cần phải biết sống xứng đáng của danh hiệu con người, không cần phải biết trọng nhân cách, danh dự, biết kính trên, nhường dưới, biết xả kỷ vị tha, biết hy sinh cho đại nghĩa. Kẻ sĩ Việt Nam thời nay có cần chi cái Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, mà chỉ cần “trung với đảng, hiếu với Bác” là đủ lắm rồi! Đây là lý do tại sao xã hội Việt Nam ngày nay đã trở nên thác loạn. Cá nhân thác loạn vì có thể sống buông thả vô kỷ cương, gia đình thác loạn, sự tương kính tương thân trong gia đình dần dần mất đi, xã hội thác loạn, vì giá trị con người đã mất, vì lòng trọng kính thương yêu nhau cũng chẳng còn. Chỉ vì chế độ cộng sản chỉ biết đến luật đời, tức là luật nhân tạo, mà không chấp nhận Luật Trời, tức là luật thiên tạo, luật tự nhiên, cho nên “kẻ sĩ” Việt Nam ngày nay chỉ biết sùng bái vật chất, mà không cần biết đến chữ “sỉ”, tức là không cần biết xấu hổ là gì nữa, bởi sỉ chính là sự xấu hổ.
Đối với người xưa, xấu hổ không phải là vì tiền bạc thua người, áo mão kém người, nhưng xấu hổ chỉ vì đã không làm tròn phận sự mình, xấu hổ vì những điều xằng bậy mình đã làm, xấu hổ vì đã không thực hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Trong Luận Ngữ, Đức Khổng khen thầy Tử Lộ:
“Mặc áo dài bằng vải cũ rách, đứng chung với những người mặc áo lông hồ lông hạc mà chẳng hổ thẹn, đó là trò Do chứ!” Và chính Khổng Tử cũng từng dạy rằng: “Kẻ sĩ chuyên tâm cầu đạo, nhưng còn hổ thẹn vì nỗi áo xấu, cơm thô, thì chưa đáng được nghe bàn luận đạo lý.” Và “Điều đáng xấu hổ, là bên trong thì gian ác, xấu xa mà bên ngoài thì dùng lời nói hay, bộ tịch khéo léo, lịch sự để che đậy, bề trong thì oán ghét người mà bên ngoài lại giả tảng thân thiết với người.”
“Điều đáng xấu hổ là khi trong nước loạn ly, mà mình dùng những phương tiện bất chính để trở nên sang trọng dư dật.”
“Điều đáng xấu hổ là lúc nào cũng bo bo nghĩ đến lợi lộc cơm áo riêng tư, còn vận nhà, vận nước thì mặc cho gió cuốn, sống vùi.”
Người xưa chỉ xấu hổ khi tài đức không xứng với chức vị, khi không có tài đức mà dám cầm trọng trách, để cho cơ đồ tan hoang đổ vỡ, mất biển đảo, mất đất liền, đất nước lâm nguy, dân tộc có nguy cơ rơi vào vòng nô lệ.
Người xưa chỉ xấu hổ khi mình đã ở cấp lãnh đạo mà không làm được cho đạo đức thi hành.
Lễ Ký cho rằng người quân tử khi cầm quyền xấu hổ 5 điều:
Có địa vị mà lời ăn tiếng nói không xứng đáng.
Lời ăn tiếng nói xứng đáng mà hành động không xứng đáng.
Đã có đức độ rồi lại làm mất đức độ.
Trị dân mà dân bỏ nước ra đi.
Người khác trị dân cũng có phương tiện như mình mà lại thâu lượm được kết quả gấp đôi.
Mạnh Tử cho rằng:
“Biết xấu hổ rất hệ trọng với con người. Những người chuyên sống xảo trá, quỷ quyệt đã bỏ mất tấm lòng hổ thẹn của mình rồi. Khi đã không còn có liêm sỉ như mọi người, thì làm sao mà còn là giống người được nữa!”
Chính những điều đó mà nhiều người cho rằng Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng là một “kẻ sĩ” quá vô liêm sỉ khi trị nước mà để cho nước lâm nguy, an dân mà để cho dân đói khổ, ly loạn, đã vậy khi được gợi ý hãy cáo quan từ chức, trao lại quyền lãnh đạo đất nước cho những người có thực đức thực tài, thì lại dãy như đỉa phải vôi… thật là một kẻ không còn biết gì là liêm sỉ, là xấu hổ, không thể gọi là con người nữa. Điều này, theo tôi, có thể không đúng lắm, vì Nguyễn Tấn Dũng chỉ là một kẻ mục đồng chứ có học hành đâu mà gọi y là kẻ sĩ, để mà y có thể hiểu được thế nào là Lễ, Nghĩa, Liêm Sỉ?
Có đáng trách chăng là trách những “kẻ sĩ” như nguyên bộ trưởng tư pháp Nguyễn Đình Lộc chính là kẻ đã dám liếm lại những gì ông đã khạc nhổ ra. Chính “kẻ sĩ” Nguyễn Đình Lộc là kẻ “chuyên sống xảo trá, quỷ quyệt đã bỏ mất tấm lòng hổ thẹn của mình rồi. Khi đã không còn có liêm sỉ như mọi người, thì làm sao mà còn là giống người được nữa!”
Và có đáng trách chăng là trách 9.000 Giáo Sư, 24.300 tiến sĩ, 101.000 thạc sỹ và hơn 5.000.000 cử nhân là những “kẻ sĩ” đích thực, nhưng chẳng biết cái “sỉ” là gì, nên cứ tiếp tục khom lưng, cúi đầu cho những tên mục đồng đè đầu cưỡi cổ, chỉ vì nhà cao cửa rộng, chỉ vì “khanh tướng, công hầu” và chỉ vì cái sổ hưu mà phải đứng vào hàng ngũ của cái đảng cướp cộng sản, một dư đảng khủng bố, chống lại loài người mà cả thế giới đều đã gớm ghiếc, kinh tởm.
Tóm lại có biết trọng danh dự thì mới xứng đáng là con người. Làm người mà bán rẻ khí tiết danh dự thì làm sao mà còn có thể gọi là con người được nữa hỡi những kẻ sĩ của Việt Nam?
Cuối cùng, sau khi nói lên những điều này, chúng tôi cũng đã kịp suy nghĩ lại mà có xin lời tạ lỗi với 71 “kẻ sĩ” đã ký tên vào bảng kiến nghị sửa đổi hiến pháp 1992 và đã kịp trình lên Ban Sửa Đổi Hiến Pháp của Quốc Hội vào ngày 04 tháng 02 năm 2013 vừa qua, trừ ông Nguyễn Đình Lộc.
© Nguyễn Thu Trâm
© Đàn Chim Việt
LUẬN VỀ BÀI THƠ ‘KẺ SĨ’ CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ
Nguyễn Công Trứ là nhà thơ lớn trong văn học cổ điển Việt Nam. Trong sự nghiệp thơ văn mà ông để lại có thể nói bài thơ “Kẻ Sĩ” là bài thơ tiêu biểu nhất cho nhân sinh quan cuộc đời ông đồng thời cũng là tác phẩm được nhiều người hâm mộ và luôn luôn nhắc đến qua từng thời đại.
Ông quan niệm từ cổ chỉ kim, cho dầu thời đại nào, trong dân cũng như trong thang giá trị chung của xã hội, người hiểu biết, có học vấn, người trí thức thuộc dạng kẻ sĩ, tức có bản lĩnh, có văn hóa, có đạo đức, có đức hạnh, có tâm huyết, có lý tưởng cao đẹp, vẫn được sắp đứng vào hàng đầu hay luôn luôn được nễ chuộng. Ông cho rằng từ khi có tổ chức nhà nước trong xã hội loài người, tức từ khi các quốc gia, đất nước ra đời thì danh giá và sự nghiệp của phạm trù kẻ sĩ đã luôn luôn có trước hết, vẫn luôn là vốn quí nhất.
Ý nghĩa của kẻ sĩ là ngay khi còn sống lu lấp trong thôn quê đã tỏ ra có phẩm chất nghiêm chỉnh, có tâm hồn cao quý, hòa hợp cùng mọi người, yêu quý mọi người, luôn luôn sống đúng qui cách đạo đức mà xã hội đề cao hay ràng buộc.
Nhưng chính trong ý thức đó mà kẻ sĩ luôn biết vươn lên, không chịu bằng lòng với mọi cái tầm thường. Tự rèn luyện tâm hồn, chí khí cao quý vẫn luôn là nghĩa vụ phải buộc đặt ra đối với kẻ sĩ (khí hạo nhiên), bởi vì kẻ sĩ cho điều đó là hợp với quy luật, với nghĩa lý của đất trời (chính khí).
Do đó khi còn hàn vi, chưa tạo nên sự nghiệp gì, người kẻ sĩ đúng nghĩa vẫn luôn sống an nhiên tự tọa (hiêu hiêu nhiên), không bon chen, không tự bất mãn với chính mình hay kể cả với chính cuộc đời. Nên dầu chưa gặp hoàn cảnh thuận lợi, chưa gặp điều kiện tốt để thi thố tài năng giúp đời, giúp người, giúp xã hội một cách to lớn, vẫn không bỏ lở cơ hội nào để có những ý kiến nghị luận xây dựng, giúp ích cho đời sống, cho tất cả mọi người (vài câu thanh nghị).
Do đó ông quan niệm đấu tranh cho lẽ phải, nêu cao chính nghĩa trong cuộc đời, đả phá mọi điều gì xấu xa, tiêu cực trong xã hội vẫn luôn luôn là trách nhiệm, là nghĩa vụ hàng đầu, là nhiệm vụ thường xuyên không thể bỏ qua của mọi nhân cách, mọi ý thức và tâm hồn kẻ sĩ, cho dầu trong bất kỳ hoàn cảnh hay tình huống nào cũng vậy (chính đạo, tịch tà cự bí).
Nhưng khi đã gặp thời cơ tốt, đã vào đời, đã gặp hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi, gặp được minh quân, thì mang hết năng lực sở trường của mình ra để làm hết sức mọi điều gì có lợi cho dân, cho nước (sở tồn làm sở dụng).
Nên nếu ở nơi triều đình thì làm một kẻ công tâm, công lý, một người luôn luôn vì dân vì nước mà không bao giờ làm một kẻ xu nịnh, một kẻ công thần (ra tài lương đống).
Song nếu là một người chỉ huy ngoài mặt trận, thì luôn luôn là kẻ thao lược, có tài thắng giặc, dẹp yên được biên thùy (rạch mũi can tương).
Ấy là để nhằm lưu lại tiếng tốt cho vạn đời sau (bách thế lưu phương). Nhưng tiếng tốt đây không phải chỉ nhằm vào danh hão bản thân, mà chính là nêu cao tấm gương cho đời, cho xã hội, cho mọi người noi theo.
Đó là ý nghĩa tại sao phải trước hết là kẻ sĩ rồi sau mới là người có danh chức, địa vị xã hội, có tiếng tăm, sự nghiệp lớn. Bởi vì phẩm chất kẻ sĩ chính là thực chất, là nội dung, là cái cốt lõi, còn mọi cái gì do điều đó mang lại chỉ là sự kết quả tự nhiên của mọi cái dụng về sau. Có nghĩa sự nghiệp đúng đắn, giá trị phải là thực chất, phải có nội dung đích thật, không thể chỉ là điều thời có hay là sự lòe bịp, lừa bịp bên ngoài.
Nói khác đi, kẻ sĩ luôn phải là kẻ có tài năng, có tư chất, có thực tài đóng góp, điều hành được xã hội. Đó là cái chí hàng đầu cũng như tâm hồn luôn luôn nêu cao trước nhất của họ (kinh luân khởi tâm thượng). Nhưng kẻ sĩ toàn hảo không phải chỉ có tài về văn mà còn cũng có tài về võ. Đó chính là tài thao lược, quân sự, nếu là ý nghĩa trong thời loạn, nhằm để giúp an dân, định quốc (binh giáp tàng hung trung). Nói chung cái đầu là đầu chiến lược, còn cái bụng là cái bụng chất chứa thao lược quân sự khi gặp hoàn cảnh giặc giã, đặc thù.
Theo Nguyễn Công Trứ, tài năng đó, nghĩa vụ, trách nhiệm hay lý tưởng đó, nơi bản thân ông cũng như bản thân mọi người, đó chính là ý nghĩa của kẻ làm trai, ý nghĩa hay nghĩa vụ sống của tất cả mọi người trong cả thế giới, cả cuộc đời này (vũ trụ chi gian giai phận sự). Cái gọi là danh giá, giá trị, cái gọi là sự hào hùng thật sự của người nam nhi chính là như vậy (nam nhi đáo thử thị hào hùng).
Khi đã tạo nên được kết quả an dân định quốc, làm cho quốc gia, đất nước đã hưng vượng, tốt đẹp rồi, khi đã ra mang hết tâm huyết, tài năng để phục vụ xã hội tốt rồi, thì kẻ sĩ lại trở về với bản chất con người bình thường của mình, tức sống một cách dung dị, hoàn toàn không màng danh lợi, không màng các lợi lộc hư danh phù phiếm riêng tư nào hết (thung dung). Chỉ khi đó kẻ sĩ mới lại sống cho thật hết với chính bản thân cao quý của mình. Tức nếu là con người có tâm hồn, con người có tâm tình nghệ sĩ, thì họ sẽ sống tất cả đều chỉ bằng tâm hồn và tâm tình đó. Cuộc sống tiêu dao, xa lánh mọi ô trọc ở đời vẫn chính là như thế (hàn cốc, thanh sơn). Và tâm hồn nghệ sĩ đó (thơ, rượu, địch, đàn) chính là cái đích cuối cùng, cái thực danh cuối cùng cho sự kết thúc cuộc đời kẻ sĩ. Chính cái vòng tròn cuộc đời trong nhân sinh quan và vũ trụ quan mà Nguyễn Công Trứ quan niệm quả là như thế. Đó là cái sống hòa đồng vào trong lòng nhân sinh và trong lòng vũ trụ. Coi nghĩa vụ trong nhân sinh cũng là chức phận trong vũ trụ. Con người từ vũ trụ đi ra, nhập vào nhân sinh, rồi cuối cùng lại quay về với vũ trụ. Con người kinh bang tế thế, nhưng một khi sự nghiệp hoàn thành, lại trở về với con người nghệ sĩ, con người triết lý, con người với nhân sinh quan bao quát, cao cả và đúng nghĩa của quan điểm nhân văn, đó chính là cách sống, lối sống, mục đích sông, và cả lý tưởng sống của nhân vật tài trí lớn, đồng thời là một nhà thơ lớn, nổi danh Nguyễn Công Trứ đã luôn để lại chính dấu ấn đậm nét cho muôn đời, trong ý nghĩa của một kẻ sĩ, một trí thức chân chính, và đúng nghĩa nhân văn nhất trong lòng lịch sử phát triển của toàn dân tộc và đất nước VN chúng ta.
Tuy thế cũng còn một điều cần phải nói, đó là bài thơ phản ảnh một ý thức phong kiến, quân chủ, hay tinh thần tự do, dân chủ ? Rõ ràng ai cũng thấy họ Nguyễn chỉ nhấn mạnh đến ý nghĩa lương đống mà không hề nói gì đến tính cách ngu trung. Vả chăng triết lý Khổng Mạnh chính gốc luôn đầy tính nhân văn, dân chủ mà không hề mù quáng ngu dân như kiểu Tống Nho. Mạnh bảo giết một hôn quân bạo chúa cũng chỉ là giết một tên giặc. Tinh thần và ý thức cách mạng chân chính cũng chính là ở đó. Tinh thần cách mạng của Nguyễn Công Trứ chính là ý thức nhân văn, xã hội mà không là gì khác. Đó không phải cách mạng kiểu lôm côm, về hùa với nhau, mù quáng, xu mị, mà là tinh thần dân chủ, tự do, độc lập thật sự như chính ý nghĩa và nội dung bài thơ đã phản ảnh. Nên nói tóm lại, Nguyễn Công Trứ là người nhân bản, tiến bộ, mặc dù ông đã sống trong thời đại quân chủ phong kiến cách chúng ta đã trên một trăm năm.
Võ Hưng Thanh
(25/4/13)