WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nhân ngày 30-04 nghĩ gì về bức công hàm PVĐ 1958?

hstsA – Lời mở đầu

Bài viết này không có chủ ý biện hộ hay kết án cố thủ tướng Phạm Văn Đồng về sự kiện “bức công hàm 14/09/1958 liên quan đến HS-TS”, và cũng không muốn bàn tán thêm về chủ đề chủ quyền VN trên hai quần đảo này vì đã có quá nhiều luật gia và học giả khắp nơi ra sức tranh luận từ hơn 5 năm qua trong các trang mạng Internet.

Bài viết xin phép được trình bày một cách nhìn khác trung thực và sâu xa hơn về vấn đề Biển Đông nói riêng và lịch sử cận đại VN nói chung, trong đó Đảng Cộng Sản Việt Nam nam giữ một vai trò chủ chốt vô cùng quan trọng.

B- Dẫn chứng lịch sử VN xung quanh bức công hàm PVĐ 1958

Những dẫn chứng lịch sử xung quanh sự kiện HS-TS không có nhiều, thật ra chỉ có hai văn kiện chính thức mà mọi người có thể truy tìm trên Google một cách dễ dàng, tôi xin phép được trích dẫn ra đây hai bản văn kiện tối quan trọng, đó là:

1)- Văn kiện 1:  Bức công hàm do cố thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ký ngày 14/09/1958 lên tiếng ủng hộ tuyên bố của chính phủ Trung Quốc liên quan đến giới hạn và khu vực hải phận của TQ. Văn kiện này chính ông PVĐ đích thân ký tên, mang quốc huy, quốc hiệu VCDCCH, con dấu chính phủ, và do chính tay cố ngoại trưởng VN Ưng Văn Khiêm trao tay cho người đồng nhiệm phía TQ. Sau do công hàm PVĐ được nhật báo Nhân Dân chụp ảnh, in ấn nguyên bản và đăng công khai để người dân miền Bắc biết. Tuy nhiên không hề thấy báo Nhân Dân chụp ảnh và đăng “bản tuyên bố chủ quyền đất đai và vùng hải phận của TQ” mà công hàm PVĐ đã ghi nhận.

2)- Văn kiện 2:  Bản tuyên bố chủ quyền quần đảo của TQ, giới hạn hải phận 12 hải lý (khoảng 22km) bao bọc bờ biển của đất liền (TQ), hải phận rộng 12 hải lý bao quanh các quần đảo trong vùng Biển Đông (trong đó TQ xác định HS-TS là thuộc chủ quyền của họ). Đi xa hơn nữa TQ còn xác định rõ ràng vùng hải phận xác định bởi những đường thẳng căn bản nối từ đất liền TQ đến các hòn đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS của VN). Bản tuyên bố này không mang quốc huy, quốc hiệu TQ, không mang chữ ký người gửi, không con dấu, không để tên người nhận và cũng không biết cơ quan truyền thông nào chịu trách nhiệm phát hành.

_____________________________

Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc về Lãnh Hải

(Ðược thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân ngày 4 tháng 9 năm 1958)

Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nay tuyên bố:

(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.

(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, tất cả máy bay ngoại quốc và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này.  Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc

(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

Ðài Loan và Penghu hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ðài Loan và Penghu đang chờ được chiếm lại. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoại quốc không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc

(Bản dịch của Trung Tâm Dữ Kiện)

 Chú thích: Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands

_____________________________

Tôi đã kiên nhẫn theo dõi suốt 6 năm qua, từ khi có cuộc biểu tình đầu tiên của người dân SaiGon tháng 11/2007 đòi hỏi chủ quyền HS-TS cho VN, đến nay rất nhiều học giả TSGS, luật gia VN hay ngoại quốc, tri thức Việt kiều hải ngoại thay phiên nhau tranh luận, chủ yếu chỉ dựa trên “bức công hàm PVĐ 1958″ để biện hộ cho ông và ra sức tranh cãi pháp lý quốc tế để giành lại chủ quyền VN trên hai quần đảo này. Tôi chưa thấy ai đề cập gì đến “bản tuyên bố chủ quyền và hải phận của TQ 04/09/1958″ và cũng không cung cấp gì thêm dẫn chứng lịch sử nào khác ngoài hai văn kiện đó. Do đó tôi có thể đặt giả thuyết rằng “bản tuyên bố TQ 04/09/1958″ có thật, tuy rằng hình thức không rõ ràng, nhưng nội dung yêu cầu thì rất ư chi tiết. Nếu chỉ bàn luận trên “bức công hàm PVĐ 1958″ mà không nhắc gì đến “bản tuyên bố TQ 1958″ thì theo tôi, quả là một thiếu sót rất lớn hoặc có thể là một mánh khoé đánh lạc hướng công luận nhằm che dấu một sự thật hệ trọng. Đó là lý do khiến tôi phải đọc đi đọc lại hai văn bản này hàng chục lần, hy vọng tìm ra manh mối dẫn dắt đến tình thế phức tạp của VN hiện nay trong vùng Biển Đông.

Sau đây là những phân tích của tôi, dựa trên nội dung và hình thức của hai bản văn kiện ngoại giao quan trọng đó.

1)- Sai lầm nghiêm trọng

Bức công hàm PVĐ 1958 đã để lộ ra nhiều sơ hở chết người, quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy:

a)- Sơ hở về thời gian: Từ khi nhận được “bản tuyên bố chủ quyền và hải phận TQ ngày 04/09/1958″ cho đến khi PVĐ đặt bút ký “bức công hàm ngày 14/09/1958″ chỉ vỏn vẹn có mười ngày (10) ngắn ngủi, để quyết định một sự kiện lịch sử tối hệ trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia, đến vận mệnh dân tộc VN. Nên nhớ rằng thời kỳ đó miền Bắc VN và TQ kết thân nhau như anh em, cùng chung ý thức hệ CS, cùng chung giới tuyến chống đế quốc Mỹ, thế thì tại sao chính quyền Hà Nội chỉ được có 10 ngày để bàn bạc thảo luận? Phải chăng TQ đã ra một đòn cân não, áp lực chính trị nặng nề đến mức Đảng Cộng Sản Việt Nam do ông Hồ Chí Minh cầm đầu không còn biện pháp nào khác hơn ngoài sự ngoan ngoãn cúi đầu tuân lệnh ? Phải chăng tình hình chính trị kinh tế xã hội bết bát của miền Bắc thời đó quá tồi tệ, lòng dân ly tán sau chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất tàn sát hàng trăm ngàn người dân vô tội, vụ án Nhân Văn Giai Phẩm tiêu diệt trí thức, sau khi hàng triệu nguời di cư vào Nam đi tìm tự do, chính sách Hợp Tác Xã bị phá sản hoàn toàn, miền Bắc VN túng quẫn, nạn đói đe doạ trầm trọng ép buộc chính quyền Hà Nội và ĐCS VN phải cúi đầu tuân lệnh ĐCS TQ để tiếp nhận viện trợ thực phẩm và nhu yếu phẩm ? Thời gian trả lời chỉ có 10 ngày vỏn vẹn, không khác gì một kiểu “tối hậu thư” thúc ép Hà Nội phải trả lời nhanh cấp tốc. Buồn thay cho vận mệnh dân tộc VN!

b)- Sơ hở về hình thức: Tại sao chính phủ VNDCCH phải sử dụng đến hình thức ngoại giao công khai chính thức rất ư nghiêm túc chỉ để trả lời một “bản tuyên bố vu vơ, một lá thư nặc danh không tên tuổi” đáng vứt vào sọt rác ?  Phải chăng đây là một mánh khoé chính trị, một cạm bẫy do ĐCS TQ giăng ra để ép buộc Hà Nội rơi vào vòng kiềm toả của họ ? Tôi nghĩ thầm đến hai giả thuyết, như sau:

- một là lãnh đạo TQ không muốn bị bẽ mặt nếu chẳng may chính quyền CS Hà Nội tỏ vẻ cứng đầu phản đối, hoặc cù cưa không trả lời;

- hai là lãnh đạo TQ sử dụng đòn ngầm cưỡng ép miền Bắc phải trả lời công khai chính thức bằng văn bản ngoại giao, để sau này họ nắm trong tay đầy đủ chứng từ trưng ra trước công luận thế giới. Giả thuyết này ngày nay đã thành hiện thực, bản thân thế hệ trẻ sau này đành phải đưa đầu chịu báng, ngư dân VN tiếp tục bị tàu TQ xua đuổi, bị phá phách, bị cướp bóc ngay trong vùng hải phận VN.

c)- Sơ hở về nội dung: Bức công hàm PVĐ 1958 không đề cập gì đến “yêu cầu chủ quyền của TQ trên hai quần đảo HS-TS”. Đúng thế, đọc kỹ công hàm vắn tắt chúng ta không thể tìm ra được câu chữ nào dính líu đến “chủ quyền TQ trên HS-TS”. Tôi thầm nghĩ ông Hồ và toàn thể BCT thời đó hãy còn trẻ, uy tín lẫy lừng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, họ không dại dột gì lấy trách nhiệm với dân tộc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên họ đã bị rơi vào cạm bẫy TQ khi công khai chấp nhận chủ quyền TQ trong vùng hải phận 12 hải lý (22km). Sơ hở này nghiêm trọng hơn vấn đề HS-TS vì lẽ bức công hàm mặc nhiên cho phép TQ độc quyền tung hoành trong Biển Đông bao la:

- một: Công hàm cho phép TQ được quyền bao vây các hòn đảo thuộc chủ quyền VNCH (HS-TS, miền Nam). TQ được quyền sử dụng mọi phương tiện quân sự để đánh phá những tàu bè VN đi vào các vùng hải phận này. Ai cũng biết rằng HS-TS có rất nhiều đảo nhỏ không lớn hơn 1km vuông, rất thấp, không có nguồn lợi kinh tế gì cả. Tuy nhiên hải phận 12 hải lý (22km) bao bọc mỗi đảo nhỏ chính là một vùng đặc sản kinh tế rộng lớn (hơn 1500 km vuông/mỗi đảo), chứa hải sản, hay mỏ dầu hoả chất lượng tốt. Đó chính là lý do tại sao hàng chục ngàn ngư thuyền TQ đang tranh nhau khai thác vùng biển trời cho này. Ngược lại ngư dân VN thì lại bị đánh đuổi, thậm chí muốn vào tránh bão cũng không được.

- hai: Công hàm PVĐ 1958 đã mặc nhiên công nhận một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) ấn định bởi những đường thẳng căn bản nối liền từ bờ biển TQ đến tận các hải đảo ngoài khơi (trong đó có HS-TS). Mỗi đường thẳng căn bản này được TQ đòi hỏi có một hành lang rộng 12 hải lý (22km). Trân trọng mời quý vị độc giả quan sát bản đồ Biển Đông (đính kèm) để hiểu rõ thêm vùng hải phận bao la ấn định bởi những đường thẳng nối liền từ bờ biển TQ tới hàng chục đảo nhỏ của Trường Sa, nơi xa nhất (khoảng 1700km, chiều rộng ngắn nhất 400km, theo tỷ lệ của bản đồ). Chấp nhận vùng hải phận này do TQ yêu cầu, chính là chấp nhận thế bị bao vây, mọi con đường hàng hải từ VN đến Nhật Bản, Phi, Đài Loan hay Đại Hàn về hướng Đông đều bị ngăn cản. Đó chính là hàng rào chiến lược vĩ đại mà TQ hiện nay đang cố gắng nâng cấp lực lượng hải quân hùng hậu đứng thứ 2 thế giới, nhằm bao vây Việt Nam. Trong tương lai VN không còn đất đứng, đành phải chịu thân phận “một vùng tự trị giống như Tây Tạng”.

- ba: Đừng thắc mắc tại sao TQ ngang nhiên đem tàu chiến xâm phạm HS-TS đánh chìm tàu hải quân VNCH (miền Nam) năm 1974, đừng trách cứ Hoa Kỳ tại sao bỏ rơi miền Nam, vì nhân dân Mỹ đã quá chán ngán với chiến cuộc VN, mà hãy trách cứ tại sao ĐCS VN đã cúi đầu công nhận chủ quyền TQ trong một vùng hải phận bao la (hơn 700,000 km2) rộng hơn gấp hai lần lãnh thổ VN. Tình thế khó khăn của dân tộc VN hiện nay trong Biển Đông chính là hệ luỵ từ bức công hàm PVĐ 1958. Công pháp quốc tế có ba đầu sáu tay cũng không thể nào cãi lại với chính quyền TQ khi họ chìa “bức công hàm PVĐ 1958″ ra làm bằng chứng.

c)- Sơ hở về chiến lược: Lý do gì ĐCS VN không cho phép nhật báo Nhân Dân trích dẫn “bản tuyên bố TQ 04/09/1958″ mà công hàm PVĐ đã nhắc đến ? Đây là một thiếu sót vô cùng hệ trọng. Ngày nay có ai dám đứng ra cãi rằng “bản tuyên bố TQ” tìm thấy trên Google là giả tạo ? Có ai dám lục hồ sơ chính phủ VNDCCH năm 1958 để đem “bản tuyên bố TQ thật” ra đối chất ? Bức công hàm PVĐ 1958 đã hiện rõ bộ mặt thật của lãnh đạo ĐCS VN: đó là bản chất lừa dối, dấu diếm sự thật, lập lờ đánh lận con đen để lừa phỉnh quần chúng. Hành vi mập mờ này chứng tỏ toàn thể Bộ Chính Trị ĐCS VN bị dồn vào thế thụ động phải  tuân thủ mệnh lệnh Bắc Kinh, nhưng để trốn tránh trách nhiệm họ đã nhắm mắt ngậm miệng để cho cố thủ tướng PVĐ đứng ra chịu tội, sau này búa rìu công luận sẽ nhắm vào cá nhân ông PVĐ mà quên đi rằng toàn thể lãnh đạo ĐCS VN chính là thủ phạm. Những ai từng sống dưới chế độ vô sản chuyên chính hiểu rõ nguyên tắc bất di bất dịch “Đảng lãnh đạo / Nhà Nước quản lý / Nhân Dân làm chủ”. Do đó trách cứ đổ lỗi cho ông PVĐ là sai hoàn toàn. Tôi chỉ buồn là vào thời kỳ đó, toàn bộ lãnh đạo ĐCS VN hãy còn sung sức và uy tín rất cao, và đại tướng Võ Nguyên Giáp đâu rồi, sao không thấy lên tiếng về quyết định trọng đại này ? Lòng yêu nước của những người lãnh đạo VN đã bị chủ nghĩa giáo điều CS bào mòn, trở nên khiếp nhược trước áp lực của quân xâm lược Bắc Kinh.

C- Kết luận:

Thật không dễ chút nào cho một kiều bào hải ngoại như tôi muốn tìm hiểu lịch sử cận đại VN, khi mà có quá nhiều dấu diếm, tuyên truyền dối trá nhằm che đậy sự thật do ĐCS VN cố tình gieo rắc gây hoang mang nghi kỵ. Nói theo lời anh Nguyễn Ngọc Giao (báo Diễn Đàn) rằng “ba thế hệ dân tộc VN đã bị ĐCS VN cho ăn cháo lú suốt hơn 60 năm ròng”, sách giáo khoa đã bị bóp méo nhằm mục đích đào tạo một thế hệ “nô dịch” phục vụ cho mưu đồ Hán hoá, làm hao mòn tinh thần yêu nước bất khuất của nòi giống Lạc Việt mà tiền nhân đã đổ biết bao xương máu để kiến tạo nên một đất nước oai hùng chống xâm lược không mỏi mệt.

Không thể nào nói chuyện “hoà hợp hoà giải dân tộc” khi mà chủ nghĩa giáo điều CS là kim chỉ nam cho mọi hành động, khi mà tất cả mọi danh từ nhằm vu khống cho cả triệu người dân miền Nam vô tội vẫn tiếp tục được sử dụng trên báo chí truyền thông “lề phải”, nào là: nguỵ quân, nguỵ quyền, nào là chi’nh phủ bù nhìn, nào là phản động, nào là phản quốc, Việt gian. Đến bây giờ nếu ai công tâm ngồi suy nghĩ kỹ và phân tích lịch sử nhân loại sẽ thấy ngay “kẻ phản quốc, phản động, bù nhìn, tay sai ngoại bang, nguỵ quyền” chính xác là tập đoàn lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam. Kẻ nào gieo Nhân thì phải hái Quả, kẻ nào gây Nghiệp ác thì phải lãnh nhận quả Báo, giáo pháp Nhà Phật không sai chút nào.

Bài viết này mới chỉ nhằm phân tích tìm kiếm sự thật nằm sau “bức công hàm PVVD 1958″. Những hệ luỵ do bức công hàm PVĐ 1958 gây ra cho dân tộc VN suốt nửa thế kỷ dẫn dắt đến cuộc chiến tranh tương tàn sẽ được phân tích ở bài viết sau. Một vấn đề trọng đại như bức công hàm PVĐ 1958, đưa đến chiến tranh tương tàn, dân tộc ly tán, hơn 6 triệu người dân VN bị chia lìa, mất trắng cơ nghiệp, anh chị em, gia đình phân cách trong suốt 60 năm ròng, thì ngày 30/04 không thể nào được xem như là “một chiến thắng vinh quang”, ngược lại đó chính là một dấu tích ô nhục cho tiền đồ một dân tộc.

Rất mong nhận được những phản hồi góp ý của quý vị độc giả bốn phương, trong và ngoài nước nhằm làm sáng tỏ vấn đề Biển Đông cho tương lai dân tộc Việt Nam.

Thành thật cám ơn,

30/04/2013

© Lê Quốc Trinh

© Đàn Chim Việt

47 Phản hồi cho “Nhân ngày 30-04 nghĩ gì về bức công hàm PVĐ 1958?”

  1. vietha says:

    vietha xin phép được tổng kết thêm ý của vietnam và vk mỹ:

    Việt Nam có sợ TQ?

    Tôi thấy lâu nay nhiều vị CCCĐ cứ hay tuyên truyền rằng VN là tay sai TQ, VN hèn sợ TQ, Vn không dám đưa kiện TQ ra tòa án QT. VN đàn áp những người biểu tính chống TQ là bênh TQ. Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là bán nước…?
    Các sự việc này xin lý giải như sau:

    1/ Việc đưa ra tòa án QT không phải chuyện đơn giản, VN chờ xem tình hình Philipine đi đến đâu trong vụ kiện để chon đúng thời cơ thích hợp sau đó mới quyết định hành động. “Ăn cơm đi trước lội nước theo sau” không nhất thiết coi là hèn được mà là khôn ngoan chứ?.

    2/ VN đàn áp người biểu tình chống TQ là vì VN lo ngại để cho biểu tình tự do thì lúc này chống TQ, nhưng lúc khác có thể quay ra chống chính quyền VN. Đơn giản thế thôi. Tôi xin ví dụ sốt dẻo vừa qua ở Thổ Nhĩ Kì, Lúc đầu đoàn biểu tình chỉ phản đối chính phủ phá công viên để xây nhà thương mại mà thôi, Tuy nhiên ngay sau đó lại diễn biến thành chống chính phủ, đòi thủ tướng phải từ nhiệm? Đối với những nước mà dân trí còn thấp thì thường hay như vậy. Theo quan điềm của VN là lo trước hậu họa còn hơn để sự việc sảy ra. Thế thôi.

    3/ Công Hàm Phạm Văn Đồng

    Tôi xin hỏi nếu giả sử hồi 1958 đó, ông Đồng ra công văn phản đối TQ về vấn đề biển đảo thì sẽ sảy ra chuyện gì?

    Xin thưa là TQ sẽ bao vây phong tỏa VN, sẽ ngăn cản VN giải phóng Miền Nam (thậm trí có thể gây hấn xâm chiếm cả Miền Bắc VN nữa). Vậy giữa mấy cái đảo ngoài khơi to hay cả một nửa nước to? Cái nào cần hơn? Tạm hy sinh cái nhỏ để được cái lớn thế là đúng hay sai?

    Ông Đồng gửi cái công văn lấp lửng đó là để lừa TQ, để TQ yên tâm mà giúp VN giải phóng Miền Nam. Nay giải phóng xong rồi sẽ dựa vào luật QT mà từ từ đòi lại. Thế là khôn ngoan, là tương kế tựu kế, là quái thủ, là tuyệt vời chứ?

    Vậy luật QT là gì? Xin thưa:

    - Vấn đề chủ quyền phải phân xử bằng hiệp định được ký kết giữa 2 nhà nước và phải được Quốc Hội thông qua mới là hợp pháp. Đây chỉ là cái công văn suông, mỗi chữ kí của thủ tướng thì đâu có giả trị gì?
    - Lúc đó Hoàng sa, Trường Sa là do VNCH chiếm giữ theo hiệp đinh Giơ ne vơ, Ông Đồng không có quyền phán xử cái mà ông không có. Thế cũng là bất hợp pháp.
    - Xét chủ quyền thì phải căn cứ vào các bằng chứng lịch sử chiếm giữ lâu dài của nhà nước. Các đời chúa Nguyễn của VN đã chiếm giữ quản lý hàng mấy trăm năm (Điều này TQ hoàn toàn không có).

    Vậy ông Đồng đưa một cái công văn bất hợp pháp cho TQ để đổi lấy sự ủng hộ Bắc VN tiên hàng giải phóng Miền Nam thì không phải là bán nước.

    Vậy xét cả lý lẫn tình VN đúng hơn TQ cả nghìn lần.

    Ngày nay , thế giới đã khác xưa, VN còn cả thế giới ủng hộ, thế nào rồi cũng đòi lại được Hoàng sa, và 6 cái bãi đá ở Trường Sa cho mà xem. Hãy đợi đấy.

    – Nói VN sợ TQ thì tại sao VN luôn phản đối và tố cáo TQ trên phương diện ngoại giao chính thống trên trường QT? Sợ sao dám tố cáo TQ xâm phạm chủ quyền VN?

    - Nói VN sợ TQ tại sao VN vẫn quan hệ với Nga, Ấn, Mỹ…để có hàng vài chục dàn khoan dầu khí ở vùng biển mà TQ coi là của TQ (trong đường lưỡi bò)? TQ đã dám làm gì đâu ngoài mỗi việc cho tàu cá cắt cáp năm nào và sau đấy VN tuyên bố tổng động viên quân sự sẵn sàng bảo về tổ quốc thì TQ tit ngòi liền?

    - Nói TQ không sợ VN tại sao khi TQ tuyên bố đấu thầu 9 lô dầu ở vùng biển VN nhưng đã hơn 2 năm nay TQ có dám khởi công cái nào đâu? Đố thằng TQ dám vào vùng biển VN mà khoan dầu đấy! (Nếu TQ không ngán VN thì nó đã thẳng thừng xông vào đất VN mà khoan dầu từ lâu rồi. Đúng không nào?)

    - Nói VN sợ TQ thì tại sao VN đã và đang ra sức củng cố quốc phòng, liên kết với Nga, Ấn Độ, Nhật, Mỹ để kìm chế TQ? Điều này thế giới người ta đã và đang nói đầy ra trên báo chí đài phát thanh, và các phương tiện đại chúng của thế giới? Chỉ có ai mù và điếc mới không nhận ra mà thôi

    TQ mạnh hơn VN thật nhưng khi từ xa đến cướp nước người ta, đánh nhau trên đất người ta thì lại hoàn toàn khác. VN với địa thế vô cùng lợi hại và có truyền thống kinh nghiệm chống toàn những kẻ ngoại xâm cỡ bự. VN quyết không sợ bất cứ thằng to đầu nào kể cả TQ! Tuy nhiên “còn nước còn tát” để cứu vãn hòa bình, VN có thể tạm nhịn TQ một vài lĩnh vực nhưng đó không phải là lĩnh vực căn bản và chỉ có giới hạn mà thôi.

    Thế giới ngày nay là một tổ hợp đầy mối quan hệ chằng chịt. Mỹ muốn kìm chế TQ, Mỹ lo TQ sẽ chiếm dần vai trò quyền lợi của Mỹ trên thế giới. Tuy nhiên Mỹ vãn không bỏ việc quan hệ với TQ để đem lại lợi ích KT cho mình. Nhật bản cũng tranh chấp với TQ nhưng 2 nước vẫn không từ mặt nhau mà vẫn quan hệ khai thác những mối lợi chung về KT…

    Cùng với trào lưu thế giới, chuyện đấu tranh với TQ ngoài biển Đông, VN quyết không khoan nhượng nhưng việc quan hệ ở các lĩnh vực khác như lĩnh vực KT thì VN vẫn tiến hành. Đó là xu hướng chung của thế giới ngày nay chứ không phải riêng VN!

    Ngày xưa vì thế giới chia làm 2 phe đối chọi nhau rõ ràng, có chiến tuyến hẳn hoi nên mới có chuyện người ở phe này thì cạch mặt không quan hệ gì với phe kia. Ngày nay đâu có chia ra phe phái rõ ràng nào đâu. Nếu có phe phái thì chỉ là phe phái về mổt vài lĩnh vực riêng biệt nào đó mà thôi, còn các lĩnh vực khác thì vẫn cùng nhau quan hệ hợp tác. Nói vậy các vị có hiểu đươc không?

    Cuối cùng tôi xin ví dụ về mối quan hệ Mỹ Trung vừa mới đây trong cuộc gặp nhau giữa Obama và Tập Cận Bình. Mỹ Trung “đối chọi” không khoan nhượng nhau về vấn đề Biển Hoa Đông (Nhật Bản), và vấn đề Biển Đông (Đường lưỡi bò,VN và mấy nước Asean) Nhưng Mỹ Trung “thỏa ước” với nhau về vấn đề không VK hạt nhân ở Bán đảoTriều Tiên và về vấn đề quan hệ thương mại. Hai lĩnh vực đấu tranh và hợp tác cùng song song tồn tại, cùng tiếp diễn hầu như không liên quan đến nhau. Chỗ nào đấu tranh thì cứ đấu tranh, chỗ nào hợp tac thì cứ hợp tác. Thế giới ngày nay là thế đấy, Quan hệ VN và TQ cũng không phải là ngoại lệ?./.

  2. vietha says:

    vietha xin phép được tổng kêt thêm các ý kiến của vietnam và vk mỹ với chủ đề:

    Việt Nam có sợ TQ?

    Tôi thấy lâu nay nhiều vị CCCĐ cứ hay tuyên truyền rằng VN là tay sai TQ, VN hèn sợ TQ, Vn không dám đưa kiện TQ ra tòa án QT. VN đàn áp những người biểu tính chống TQ là bênh TQ. Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là bán nước…?
    Các sự việc này xin lý giải như sau:

    1/ Việc đưa ra tòa án QT không phải chuyện đơn giản, VN chờ xem tình hình Philipine đi đến đâu trong vụ kiện để chon đúng thời cơ thích hợp sau đó mới quyết định hành động. “Ăn cơm đi trước lội nước theo sau” không nhất thiết coi là hèn được mà là khôn ngoan chứ?.

    2/ VN đàn áp người biểu tình chống TQ là vì VN lo ngại để cho biểu tình tự do thì lúc này chống TQ, nhưng lúc khác có thể quay ra chống chính quyền VN. Đơn giản thế thôi. Tôi xin ví dụ sốt dẻo vừa qua ở Thổ Nhĩ Kì, Lúc đầu đoàn biểu tình chỉ phản đối chính phủ phá công viên để xây nhà thương mại mà thôi, Tuy nhiên ngay sau đó lại diễn biến thành chống chính phủ, đòi thủ tướng phải từ nhiệm? Đối với những nước mà dân trí còn thấp thì thường hay như vậy. Theo quan điềm của VN là lo trước hậu họa còn hơn để sự việc sảy ra. Thế thôi.

    3/ Công Hàm Phạm Văn Đồng

    Tôi xin hỏi nếu giả sử hồi 1958 đó, ông Đồng ra công văn phản đối TQ về vấn đề biển đảo thì sẽ sảy ra chuyện gì?

    Xin thưa là TQ sẽ bao vây phong tỏa VN, sẽ ngăn cản VN giải phóng Miền Nam (thậm trí có thể gây hấn xâm chiếm cả Miền Bắc VN nữa). Vậy giữa mấy cái đảo ngoài khơi to hay cả một nửa nước to? Cái nào cần hơn? Tạm hy sinh cái nhỏ để được cái lớn thế là đúng hay sai?

    Ông Đồng gửi cái công văn lấp lửng đó là để lừa TQ, để TQ yên tâm mà giúp VN giải phóng Miền Nam. Nay giải phóng xong rồi sẽ dựa vào luật QT mà từ từ đòi lại. Thế là khôn ngoan, là tương kế tựu kế, là quái thủ, là tuyệt vời chứ?

    Vậy luật QT là gì? Xin thưa:

    - Vấn đề chủ quyền phải phân xử bằng hiệp định được ký kết giữa 2 nhà nước và phải được Quốc Hội thông qua mới là hợp pháp. Đây chỉ là cái công văn suông, mỗi chữ kí của thủ tướng thì đâu có giả trị gì?
    - Lúc đó Hoàng sa, Trường Sa là do VNCH chiếm giữ theo hiệp đinh Giơ ne vơ, Ông Đồng không có quyền phán xử cái mà ông không có. Thế cũng là bất hợp pháp.
    - Xét chủ quyền thì phải căn cứ vào các bằng chứng lịch sử chiếm giữ lâu dài của nhà nước. Các đời chúa Nguyễn của VN đã chiếm giữ quản lý hàng mấy trăm năm (Điều này TQ hoàn toàn không có).

    Vậy ông Đồng đưa một cái công văn bất hợp pháp cho TQ để đổi lấy sự ủng hộ Bắc VN tiên hàng giải phóng Miền Nam thì không phải là bán nước.

    Vậy xét cả lý lẫn tình VN đúng hơn TQ cả nghìn lần.

    Ngày nay , thế giới đã khác xưa, VN còn cả thế giới ủng hộ, thế nào rồi cũng đòi lại được Hoàng sa, và 6 cái bãi đá ở Trường Sa cho mà xem. Hãy đợi đấy.

    – Nói VN sợ TQ thì tại sao VN luôn phản đối và tố cáo TQ trên phương diện ngoại giao chính thống trên trường QT? Sợ sao dám tố cáo TQ xâm phạm chủ quyền VN?

    - Nói VN sợ TQ tại sao VN vẫn quan hệ với Nga, Ấn, Mỹ…để có hàng vài chục dàn khoan dầu khí ở vùng biển mà TQ coi là của TQ (trong đường lưỡi bò)? TQ đã dám làm gì đâu ngoài mỗi việc cho tàu cá cắt cáp năm nào và sau đấy VN tuyên bố tổng động viên quân sự sẵn sàng bảo về tổ quốc thì TQ tit ngòi liền?

    - Nói TQ không sợ VN tại sao khi TQ tuyên bố đấu thầu 9 lô dầu ở vùng biển VN nhưng đã hơn 2 năm nay TQ có dám khởi công cái nào đâu? Đố thằng TQ dám vào vùng biển VN mà khoan dầu đấy! (Nếu TQ không ngán VN thì nó đã thẳng thừng xông vào đất VN mà khoan dầu từ lâu rồi. Đúng không nào?)

    - Nói VN sợ TQ thì tại sao VN đã và đang ra sức củng cố quốc phòng, liên kết với Nga, Ấn Độ, Nhật, Mỹ để kìm chế TQ? Điều này thế giới người ta đã và đang nói đầy ra trên báo chí đài phát thanh, và các phương tiện đại chúng của thế giới? Chỉ có ai mù và điếc mới không nhận ra mà thôi

    TQ mạnh hơn VN thật nhưng khi từ xa đến cướp nước người ta, đánh nhau trên đất người ta thì lại hoàn toàn khác. VN với địa thế vô cùng lợi hại và có truyền thống kinh nghiệm chống toàn những kẻ ngoại xâm cỡ bự. VN quyết không sợ bất cứ thằng to đầu nào kể cả TQ! Tuy nhiên “còn nước còn tát” để cứu vãn hòa bình, VN có thể tạm nhịn TQ một vài lĩnh vực nhưng đó không phải là lĩnh vực căn bản và chỉ có giới hạn mà thôi.

    Thế giới ngày nay là một tổ hợp đầy mối quan hệ chằng chịt. Mỹ muốn kìm chế TQ, Mỹ lo TQ sẽ chiếm dần vai trò quyền lợi của Mỹ trên thế giới. Tuy nhiên Mỹ vãn không bỏ việc quan hệ với TQ để đem lại lợi ích KT cho mình. Nhật bản cũng tranh chấp với TQ nhưng 2 nước vẫn không từ mặt nhau mà vẫn quan hệ khai thác những mối lợi chung về KT…

    Cùng với trào lưu thế giới, chuyện đấu tranh với TQ ngoài biển Đông, VN quyết không khoan nhượng nhưng việc quan hệ ở các lĩnh vực khác như lĩnh vực KT thì VN vẫn tiến hành. Đó là xu hướng chung của thế giới ngày nay chứ không phải riêng VN!

    Ngày xưa vì thế giới chia làm 2 phe đối chọi nhau rõ ràng, có chiến tuyến hẳn hoi nên mới có chuyện người ở phe này thì cạch mặt không quan hệ gì với phe kia. Ngày nay đâu có chia ra phe phái rõ ràng nào đâu. Nếu có phe phái thì chỉ là phe phái về mổt vài lĩnh vực riêng biệt nào đó mà thôi, còn các lĩnh vực khác thì vẫn cùng nhau quan hệ hợp tác. Nói vậy các vị có hiểu đươc không?

    Cuối cùng tôi xin ví dụ về mối quan hệ Mỹ Trung vừa mới đây trong cuộc gặp nhau giữa Obama và Tập Cận Bình. Mỹ Trung “đối chọi” không khoan nhượng nhau về vấn đề Biển Hoa Đông (Nhật Bản), và vấn đề Biển Đông (Đường lưỡi bò,VN và mấy nước Asean) Nhưng Mỹ Trung “thỏa ước” với nhau về vấn đề không VK hạt nhân ở Bán đảoTriều Tiên và về vấn đề quan hệ thương mại. Hai lĩnh vực đấu tranh và hợp tác cùng song song tồn tại, cùng tiếp diễn hầu như không liên quan đến nhau. Chỗ nào đấu tranh thì cứ đấu tranh, chỗ nào hợp tac thì cứ hợp tác. Thế giới ngày nay là thế đấy, Quan hệ VN và TQ cũng không phải là ngoại lệ?./.

  3. vietha says:

    Vấn đề nhân quyền ở VN:

    vkmy says:
    08/06/2013 at 12:18
    Các vị cứ họp, cứ lên án kể cả một vài vị (số ít) dân biểu Hoa Kỳ. Nói to, nói dài, nói dai mãi mà chính phủ Hoa kỳ có nghe đâu. Mồm ông Đại sứ Mỹ nói ông cương quyết đặt vấn đề nhân quyền là quan trọng nhưng ngay sau đó ông lại trình bày kế hoạch hợp tác mọi mặt với CSVN và cũng lờ tịt việc đưa VN vào danh sách CPC. Thế là sao hả các vị?
    Xin lý giải như sau: Vô tư mà nói Chính phủ Mỹ cũng muốn có vấn đề nhân quyền ở VN nhưng họ cũng muốn hợp tác với VN để kìm chế TQ. Lúc này ‘kìm chế TQ là tối thượng nên họ mới làm như vậy. “Nhân quyền” chỉ là “con muỗi” so với “quả tạ” kìm chế TQ mà thôi. Hiểu không? Các vị đấu thế chứ đấu nữa cũng hoài công dã tràng se cát Biển Đông mà thôi./.
    Reply
    Hà says:
    09/06/2013 at 08:10
    Đúng vây, trên thế giới này bất cứ chính phủ nước nào (Trừ TQ) đều công nhận đường lối chống TQ của VN là rất hay. Các ông chống CS ở đây không biết hay sao?
    Reply

  4. vk mỹ says:

    Thế cái lúc ông Ngô Đình Diệm kêu gào “Bắc Tiến”- “Lấp sông Bến Hải” thì sao nào? Có phải định chiếm Miền Bắc không?. Nhưng mà thôi, tôi đồng ý với ông là CS không chiếm Miền Nam mà chỉ là Giải phóng nhân dân Miền nam mà thôi. Đúng, đất nước VN là một , không có chuyện miền nọ chiêm miền kia. Vây tôi xin cải chính lại nhé:

    Có người nói, CSVN bỏ cái nhỏ (HS) mà tập trung vào cái lớn (đó là cả Miền Nam VN).
    CSVN đưa ra cái công văn lấp lửng đó để lừa TQ, làm cho TQ yên tâm ủng hộ VN giải phóng Miền Nam. Nay giải phóng Miền nam xong rồi CSVN trở mặt nói Cái công văn Phạm Văn Đồng là không hợp pháp và sẽ kiên trì dựa vào luật QT để đòi lại.
    Nếu đúng vậy thì CSVN rất khôn, rất bài bản và đáng nể phục chứ?

    • Austin Pham says:

      Bỏ đi vẹm!. Ông Diệm không có kêu gào gì cả, cái đó là bài bản của tụi cộng sản trời thần nhồi nhét tuyên truyền sau này để tự tạo lý do chúng nó tấn công miền nam sau khi ai ai cũng thấy rõ chúng nó là những thằng ăn cướp. Nói có sách, mách có chứng-anh thừa hiểu mấy cái đám TTXVN và bọn sứ quán có trụ sở các nước phương tây đã được”trang bị” kỷ càng mấy cái “băng nhão” có nội dung phía trên, nhiều nhất là “phim” từ cái loa rè TCN-chuyên gia vật lý + thiền+…sách hiếm ( bơm như “Bác”). Nói nào ngay, lúc anh dẫn chứng thái độ lưu manh thủ đoạn ( tự gọi là “không ngoan” gì đó) về cái khoản công hàm thì anh cũng đang chữi cha bác và đảng, vô tình tán dương danh ngôn ” Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”. Sức mạnh của ‘chân lý” này vô cùng ghê gớm vì nó “phủ định” mọi thứ xuất phát từ mồm thối của…Minh “rau”, đảng và các “chuyên viên oanh tạc…sự thật” như các anh. Khi thằng Trung cộng đưa ra công khai cái công hàm, tác phẩm vĩ đại của bọn lãnh đạo VNDCCH thì nó có 2 dụng ý như sau:
      1. Hồ và đồng bọn là những tên bán nước-tay sai của Trung quốc, nếu dân VN còn nhớ những câu nói của Hồ. Nào là “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…”, rồi còn đòi đốt dãy Trường Sơn gì nữa..Tóm lại là Trung cộng cũng đồng ý 100% : “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”. Nghe mà mát cả ruột…hà!
      2. Nếu nói Trung cộng xâm lấn chủ quyền của VNCH nên “bác và đảng” không có trách nhiệm bán đứng thì nó đồng nghĩa với việc thằng cộng sản bắc việt cũng là thằng ăn cướp khi tụi nó xâm chiếm miền nam-chủ quyền của VNCH. Đây gọi là “gậy ông đập lưng ông”- tiếng “việt cộng” là tự đưa tay vả vào mồm, theo truyền thống…. cách mạng.
      Vài hàng chủ yếu dạy cho anh, một thằng cam kiếm cơm-láo bịp, giả danh, ngụy biện một bài học về logic để anh có thể kiếm…gạo sau này ở Ba Đình một khi cộng sản bị dân đập nát bét ở Việt Nam mà không cần vác bị gậy hay vác dao vào miền nam xin đểu.
      Chào đoàn kết, quyết….sống mái với cộng sản. Tiến lên, thắng lợi ắt về ta.
      Chúc ngủ ngon, đồng chí vẹm!

      • vietha says:

        Người Mỹ mà đọc được những lời của Austin pham thì họ cười cho thói mũi. Đã không hiểu biết gì mà lại ăn nói hàm hồ phi logic. Đáng xấu hổ

  5. Nguyen trong Dan says:

    Minh Đức says:
    08/05/2013 at 11:24
    Chơi trò đánh lừa lật lọng thì sẽ sinh ra xung đột, chiến tranh giữa hai nước. Trung Quốc là nước lớn thì chơi trò đánh lừa lật lọng sẽ bị Trung Quốc đánh cho. Trung Quốc chỉ dùng sức mạnh, không dùng luật quốc tế thì làm sao đòi được? Đánh Trung Quốc thì không đánh được, đòi phải tôn trọng luật quốc tế thì Trung Quốc không nghe. Chơi trò dâng đất để dựa vào ngoại bang bắt dân miền Nam phải theo Cộng Sản thì dân miền Nam không phục, coi CSVN là kẻ bán nước.

    Bên ngoài thì không đủ sức đánh lại ngoại bang, bên trong thì bị dân xem là kẻ bán nước thì mà ai nể phục? ”

    Minh Đức đưa ra ý kiến như trên rất hay. Mời các vị thấy thế nào?.

    • vkmy says:

      TQ lợi dụng giúp VN đánh Mỹ để âm mưu chiếm HS, TS thế không là lừa lọc thì là cái gì? VN lừa lọc lại thì đâu có phải là xấu. Đó là ‘tương kế , tựu kế’ , đó là ‘ gậy ông đập lưng ông” mà thoi’. Như vậy là CSVN quái thủ trước TQ chú có phải là hèn nhát, là tay sai đâu?

  6. Bùi lễ says:

    Đám lãnh đạo Việt cộng cố chạy tội cho Hồ chí Minh vì họ lấy tư tưởng họ Hồ này làm kim chỉ
    nam cho đảng việt cộng và nhồi vào đầu (brian-wash) các em bé VN hiện nay thì không lý do gì
    để ông trở thành một kẻ bán nước .
    Và thêm một điều tiếu lâm nữa là nếu là một kẻ VN thì tại sao lại đi năn nỉ , xin xỏ Mao và Stalin
    để được làm chủ tịch VN ? Đúng là,

    Thiên triều thần phục, chư hầu em đây!

    THeo tôi thấy, Ông Phạm văn Đồng là vô tội . Ông này chỉ ký tờ công hàm vì là phần nhiệm
    vụ của ông ta mà thôi.

  7. Viet kieu My says:

    Việt kiều Mỹ hay loa phường?

Leave a Reply to vietha