Tôi không chống Cộng
Ở cả hai lần bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam (11/2005 và 4/2009), tôi đều không nhận được lời giải thích thỏa đáng nào từ chính quyền Việt Nam. Nhưng tôi nghe được phong thanh đâu đó: người ta cho là tôi “chống Cộng”. Mà không phải từ phía chính quyền, một số bạn đọc ở hải ngoại, ngay cả những người có vẻ có cảm tình với tôi cũng thường nói: Tôi “chống Cộng”. Riêng tôi, xin nói một cách thành thực: Tôi không hề chống Cộng.
Viết thế, tôi biết nhiều bạn đọc sẽ ngạc nhiên. Tuy nhiên, trước khi đánh giá (hay chụp mũ), xin đọc tiếp phần giải thích phía dưới.
Tôi nói tôi không chống Cộng vì hai lý do chính:
Thứ nhất, tôi không thích chữ “chống”. “Chống”, trong tiếng Việt, khác với các từ hoặc từ tố được xem là tương đương trong tiếng Anh như “fight”, “against”, “counter-” hay “anti-”, thường gợi lên hai ấn tượng chính: một, gắn liền với tổ chức, và hai, có tính chất bạo động. Tôi không thích cả hai. Với bạo động, tôi tuyệt đối không thích. Với tổ chức, tôi trân trọng và nghĩ nó cần thiết, hơn nữa, một nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội, nhưng tôi lại không thích nằm trong bất cứ một tổ chức nào; thậm chí, tôi cũng chưa từng đi biểu tình hay ký tên vào bất cứ một kiến nghị chung nào (1), dù, trên nguyên tắc, có thể tôi đồng tình và ủng hộ những việc làm ấy. Tôi không làm những việc ấy chỉ vì một lý do đơn giản: Tôi không thích ở trong “đội ngũ”, dù lâu dài hay tạm thời, chính thức hay không chính thức. Vậy thôi. Khác với Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ “Khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”, tôi chỉ thích đứng một mình. Khi phê phán bất cứ điều gì, tôi chỉ đứng từ góc độ một người trí thức; mà trí thức, tự bản chất, nói theo Edward W. Said, là kẻ lưu vong, nghĩa là, nói cách khác, một mình. Viết, tôi chỉ nhân danh chính mình và những gì mình tin là đúng. “Lực lượng” của tôi chỉ có sách vở và kinh nghiệm, kiến thức và lý trí, lương tâm và lương thức. Còn phương tiện, trước, với cây bút; sau, với bàn phím: Ở cả hai nơi, tôi chỉ có chữ. Hết.
Thứ hai, quan trọng hơn, ở thời điểm bây giờ, theo tôi, nói chống Cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn, cái không còn hiện hữu nữa.
Lý do thứ hai này cần được giải thích nhiều hơn:
Cái gọi là “chống Cộng” bao gồm hai nội dung chính: một, chống lại chủ thuyết Cộng sản (chủ yếu là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin); và hai, chống lại chế độ Cộng sản. Với cả hai nội dung ấy, trước năm 1975, nói chống Cộng: Được; trước năm 1990, nói chống Cộng: Được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại.
Trong việc chống Cộng, trước năm 1991, hai khía cạnh chống chủ thuyết (hoặc ý thức hệ) và chống chế độ (hoặc một guồng máy) là một. Chế độ, vốn cụ thể, gắn liền với hệ thống chính trị, tức là hệ thống quyền lực, là mục tiêu chống đối trước mắt. Nhưng sức mạnh của chế độ Cộng sản không phải chỉ ở đảng viên, cán bộ, quân đội, công an, súng đạn và các nhà tù. Sức mạnh của chế độ Cộng sản còn ở các lý tưởng tự do, bình đẳng cũng như cái thiên đường Cộng sản chủ nghĩa vốn có sức mê hoặc to lớn đối với mọi người, đặc biệt với giới trí thức vốn khao khát những điều cao cả, có tầm nhân loại. Hơn nữa, nó còn nằm ở các ảo tưởng về tính khoa học của chủ nghĩa Cộng sản hay ở cái gọi là tính tất yếu trong quy luật phát triển của lịch sử. Bởi vậy, người ta không thể chống lại chế độ Cộng sản chỉ bằng các phương tiện vật chất. Người ta phải chống lại chế độ Cộng sản ngay cả trong phạm trù tư tưởng, trong lãnh vực nhận thức, nghĩa là bằng các phương tiện tuyên truyền và giáo dục, nhắm thẳng vào những tên tuổi như Marx, Engels, Lenin và Stalin, những người đã chết; hơn nữa, bằng một bảng giá trị khác, cao hơn, hiện hữu ngay trong đời sống xã hội để mọi người có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, nghĩa là bằng một nỗ lực không ngừng tự do hoá, dân chủ hoá và nhân quyền hoá, như những điều chủ nghĩa tư bản, ở các quốc gia phát triển nhất, từng làm trong suốt thế kỷ 20.
Tuy nhiên, kể từ năm 1991, với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Cộng sản, với tư cách một chế độ, hoàn toàn sụp đổ; và cùng với nó, chủ nghĩa Cộng sản, với tư cách một ý thức hệ chính trị, cũng bị phá sản theo. Trật tự này, thật ra, theo một số học giả, cũng có thể đảo ngược hẳn lại: Vì sự phá sản của ý thức hệ Cộng sản, chế độ Cộng sản, với tư cách một bộ máy chính quyền, đã sụp đổ. Nhưng dù mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi, thực chất của vấn đề vẫn là một: phá sản và sụp đổ.
Về phương diện lý thuyết, hầu như ai cũng thấy chủ nghĩa Cộng sản sai. Những người thiên tả, ít nhiều lưu luyến với chủ nghĩa Cộng sản, cố vớt vát khi cho cái sai ấy không xuất phát từ Karl Marx mà từ Lenin, đặc biệt từ Stalin và Mao Trạch Đông; nghĩa là, nó không sai hẳn, nhưng một, nó không được cập nhật để theo kịp những thay đổi và tiến bộ của chủ nghĩa tư bản; và hai, nó chỉ sai trong cách ứng dụng và vận dụng lý thuyết Marx vào thực tế. Tuy nhiên, nói theo Richard Pipes, trong cuốn Communism, a History (2), chủ nghĩa Cộng sản, ngay trong tư tưởng của Karl Marx, không phải là một ý tưởng hay nhưng bị thực hiện sai mà, tự bản chất, nó là một ý tưởng dở; hay nói theo Kolakowski, do Pipes trích dẫn, chủ nghĩa Marx – nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa Cộng sản – là một huyễn tưởng lớn nhất của thế kỷ 20 (3).
Trong vô số những cái sai của chủ nghĩa Marx-Lenin, cái sai này là đáng kể nhất: Họ cho chế độ tư hữu là cội rễ của bất bình đẳng và tin là họ có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ấy để xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, không ai bóc lột ai và cũng không ai thống trị ai. Trên thực tế, khi công hữu hóa mọi tài sản và mọi phương tiện sản xuất, thứ nhất, họ triệt tiêu hầu như mọi động cơ lao động và sản xuất của người dân; thứ hai, họ tạo nên một giai cấp đặc quyền và đặc lợi để nắm toàn bộ việc lãnh đạo và quản lý các tài sản và công cụ sản xuất đã được công hữu hóa ấy. Những người ấy, một mặt, kém khả năng quản lý nên dẫn đến hết thất bại này sang thất bại khác; mặt khác, quan trọng hơn, trở thành một thành phần thống trị vừa ngu dốt vừa độc đoán, vừa tham nhũng vừa tàn bạo. Tất cả các yếu tố ấy không những dẫn đến những sự thất bại nặng nề về phương diện kinh tế mà còn phá hủy toàn bộ nền tảng lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản vốn nhắm đến tự do, bình đẳng và hạnh phúc.
Một cái sai khác của chủ nghĩa Marx-Lenin là họ đơn giản hóa lịch sử nhân loại vào lịch sử đấu tranh giai cấp. Sự phát triển của lịch sử, thật ra, còn tùy thuộc, thậm chí, tùy thuộc chủ yếu vào sự hợp tác của con người trong việc khám phá các quy luật của tự nhiên, từ đó, đẩy mạnh các khám phá về kỹ thuật để nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người. Chủ nghĩa tư bản, trong thế kỷ 20, đã chứng minh điều đó: Giới chủ nhân biết san sẻ trách nhiệm và quyền lợi với giới công nhân, nhờ đó, so với thế kỷ 19, công nhân càng ngày càng được hưởng lương cao và càng ngày càng được hưởng chế độ lao động hợp lý hơn. Hơn nữa, chính quyền cũng can thiệp để bảo vệ quyền lợi của công nhân và, qua chính sách thuế khóa, bảo đảm sự công bằng trong xã hội. Nhiều quốc gia mang tiếng là tư bản nhưng về các chính sách lao động và an sinh xã hội lại không khác gì với cái lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Marx mơ ước. Chưa hết. Yếu tố then chốt trong sản xuất không phải chỉ là công cụ sản xuất mà còn có cả tri thức. Mà tri thức thì không ai độc quyền được.
Một người tị nạn, như người Việt Nam sau năm 1975, chẳng hạn, khi sang nước ngoài, với hai bàn tay trắng, không thể sở hữu các công cụ sản xuất để làm chủ nhân bất cứ thứ gì được. Nhưng bù lại, chỉ cần chịu khó học hành, sau một thời gian nhất định, người đó có thể sở hữu một vốn tri thức khá cao đủ để bước vào thế giới trung lưu, thậm chí trung lưu cao, dễ dàng. Chính trong lãnh vực tri thức, vốn gắn liền với giáo dục, xã hội tư bản đã tạo nên sự bình đẳng thực sự và tối đa: Nếu mọi người không được và không thể bình đẳng khi ra đời (vốn gắn liền với gia đình, thành phần xã hội, chủng tộc và những đặc điểm về trí tuệ riêng – những điều không ai có thể lựa chọn được), họ lại được bình đẳng trong cơ hội để phát triển và tiến bộ. Ai cũng được quyền đi học; bất cứ ai có trí và có nghị lực cũng đều đi học được, và từ đó, có thể thay đổi cuộc đời mình được. Với những đặc điểm ấy, chủ nghĩa tư bản không những thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội một cách hiệu quả mà còn tạo nên sự bình đẳng và dân chủ, tuy không hẳn đã hoàn hảo, nhưng cũng hơn hẳn chế độ xã hội chủ nghĩa đủ để mọi người, kể cả những người đang sống dưới chế độ Cộng sản, cũng nhận thấy không phải kẻ thù mà chính mình mới là những kẻ đang đứng trước vực thẳm. Sự so sánh ấy cũng làm cho người ta nhận thấy những hứa hẹn về một thiên đường Cộng sản chủ nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, chỉ là một ảo tưởng, hơn nữa, một không tưởng. Cái không tưởng ấy lại bị trả giá bằng máu. Không phải máu của một hai người. Mà là của cả một tập thể, có khi cực kỳ đông đảo. Cả hàng triệu hay chục triệu người.
Về phương diện thực tiễn, với tư cách một chế độ, chủ nghĩa Cộng sản có năm đặc điểm chính trên bình diện tổ chức. Một, đảng Cộng sản nắm độc quyền lãnh đạo; hai, đảng ấy được tổ chức một cách chặt chẽ với một thứ kỷ luật thép từ trên xuống dưới; ba, kinh tế hoàn toàn tập trung, mọi quyết định, kể cả về giá cả thị trường, đều do cấp trên quyết định; bốn, mọi phương tiện sản xuất đều nằm trong tay nhà nước; và năm, mỗi quốc gia đều liên kết và, với những mức độ khác nhau, lệ thuộc vào cái gọi là phong trào Cộng sản quốc tế nói chung. Với cách tổ chức như thế, chế độ Cộng sản vấp phải vô số sai lầm. Và những sai lầm ấy rất dễ thấy.
Thứ nhất, các chế độ Cộng sản không những không công bằng hơn các chế độ tư bản, mà thậm chí, còn tệ hại hơn cả các chế độ phong kiến ngày xưa. Xưa, chỉ có vua, nay có cả nguyên một đảng đứng trên pháp luật. Xưa, chỉ có vua là được hưởng mọi đặc quyền và đặc lợi; nay, có cả hàng triệu người nhân danh đảng thi nhau vơ vét lợi và thao túng quyền.
Thứ hai, ngoài chuyện bất bình đẳng, chế độ Cộng sản, qua hơn 70 năm tồn tại, đã chứng tỏ sự tàn bạo vô tiền khoáng hậu. Những nhà lãnh đạo Cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Fidel Castro… không phải giống vua mà là giống các bạo chúa. Vua, còn đỡ. Trong đám vua còn có các minh quân. Trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng sản, được xây dựng quyền lực trên nguyên tắc “chuyên chính”, ngay cả những người có tiềm năng là minh quân cũng trở thành bạo chúa. Hậu quả là chế độ Cộng sản trở thành một chế độ đứng đầu trong danh sách giết người trong suốt cả thế kỷ 20. Họ giết người còn nhiều hơn cả chế độ phát xít và Nazi. Bàn tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhuộm nhiều máu hơn cả bàn tay của Hitler. Trong cuốn The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression do Stéphane Courtois và nhiều người khác biên tập (4), các tác giả ước tính tổng số nạn nhân bị giết chết dưới các chế độ Cộng sản trên thế giới kể từ năm 1917 đến năm 1991 là khoảng 100 triệu người, bao gồm khoảng 20 triệu ở Nga, 65 triệu ở Trung Quốc, hai triệu ở Campuchia, hai triệu ở Bắc Triều Tiên, một triệu ở Đông Âu, v.v..
Thứ ba, chế độ Cộng sản hoàn toàn thất bại về phương diện lãnh đạo và quản lý kinh tế đất nước. Không có nước Cộng sản nào giàu có và dân chúng được no ấm. Từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, kinh tế của các nước Cộng sản bị lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đến thập niên 1980, chỉ số phát triển của nó hầu như chỉ là một con số không to tướng. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa thời ấy, rất nhiều cửa tiệm trống rỗng không có hàng hóa để bán (5). Dân chúng ngất ngư vì đói khát. Nhưng dễ thấy nhất là khi chúng ta nhìn vào các quốc gia bị chia đôi, trong đó, một nửa theo chế độ Cộng sản và một nửa theo chế độ tư bản. Như Đông Đức và Tây Đức. Hay như Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Cái nửa theo chế độ Cộng sản bao giờ cũng có chỉ số phát triển thấp hơn hẳn cái nửa theo chế độ tư bản. Thấp một cách toàn diện. Riêng ở Triều Tiên, thu nhập tính trên đầu người ở miền Nam (32.400 đô la/người/năm) gấp 18 lần ở miền Bắc (1.800 đô la). Cùng một dân tộc. Cùng một lịch sử. Chỉ khác ở chế độ. Mà hai nơi khác nhau đến vậy.
Cuối cùng, nói theo Stéphane Courtois (6), Cộng sản phạm vô số tội ác không phải đối với con người với tư cách cá nhân mà còn đối với cả văn minh nhân loại và văn hóa quốc gia. Ở đâu, các chế độ Cộng sản cũng phá tan tành rất nhiều di tích và di sản lịch sử cũng như các nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ tự. Họ trấn áp các tôn giáo, xóa bỏ nhiều truyền thống tốt đẹp với lý do, theo họ, đó là những tàn tích của chế độ phong kiến.
Với những thất bại hiển nhiên về cả phương diện lý thuyết lẫn thực hành như vậy, chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn toàn bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thoạt đầu, vào năm 1989, với việc đảng Cộng sản Hungary chấp nhận một hệ thống chính trị đa đảng vào tháng 2; việc Công đoàn Đoàn kết thắng phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội Ba Lan vào tháng 6, sau đó, lên nắm chính quyền vào tháng 9; việc Bức tường Berlin bị sụp đổ vào tháng 11 (sau đó nước Đức được thống nhất vào tháng 10/ 1990); kết thúc bằng việc Mikhail Gorbachev tuyên bố từ bỏ chế độ độc đảng vào ngày 7/2/1990; và sau đó, sự tan rã của Liên bang Xô Viết vào tháng 12/1991 (trước, trong và sau sự tan ra ấy, có 16 quốc gia – vốn bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết – tuyên bố độc lập, bao gồm: Lithuania, Estonia, Latvia, Georgia, Ukraine, Belarus, Moldova, Azerbaijan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan, Armenia, Turkmenistan, và Kazakhstan).
Nếu sự ra đời của chủ nghĩa Cộng sản là biến cố lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, sự tan rã của nó ở Nga và Đông Âu là một biến cố trọng đại nhất trong sau thế kỷ 20. Cả hai đều là cách mạng. Cuộc cách mạng đầu nổ ra và, sau đó, tồn tại bằng máu và nước mắt; cuộc cách mạng sau, ngược lại, diễn ra với ba đặc điểm chính: nhanh chóng, nhẹ nhàng và bất bạo động. Có vẻ như giới lãnh đạo Cộng sản (trừ ở Romania) tự ý từ bỏ quyền lực và chế độ Cộng sản tự tan rã. Không có sự kháng cự nào đáng kể cả.
Trước thập niên 1990, trên thế giới có tổng Cộng 23 quốc gia theo chế độ Cộng sản. Trong thời điểm giao thừa giữa hai thập niên 1980 và 1990, có 18 quốc gia từ bỏ Cộng sản: Afghanistan, Albania, Angola, Benin, Bulgaria, Campuchia, Congo, Czechoslovakia, Đông Đức, Ethiopia, Hungary, Mông Cổ, Mozambique, Ba Lan, Romania, Nga, Nam Yemen và Yugoslavia. Người ta gọi những nước này (trừ Đông Đức vốn không còn là một “nước” riêng sau khi thống nhất) là “hậu Cộng sản” (postcommunism), một thuật ngữ do Zbigniew Brzezinski đưa ra vào năm 1989 (7). Do một số quốc gia, sau năm 1991, bị chia cắt (chủ yếu là do vấn đề chủng tộc), hiện nay có 28 quốc gia được xem là hậu Cộng sản (8).
“Hậu Cộng sản” nghĩa là không còn Cộng sản nữa.
Có thể nói, trên bình diện thế giới, cái gọi là “Cộng sản” đã thuộc về quá khứ. Khi “Cộng sản” thuộc về quá khứ, chuyện chống Cộng cũng không còn lý do hiện hữu nữa.
Thật ra, trên thế giới cũng còn ít nhất năm quốc gia, trên danh nghĩa, chưa từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Bắc Triều Tiên và Cuba. Tuy nhiên, trong năm quốc gia ấy, chỉ có Bắc Triều Tiên là thực sự Cộng sản, Cộng sản theo kiểu Stalin trong thập niên 1930 và 1940. Ở tất cả bốn nước còn lại, kể cả Việt Nam, chủ nghĩa Cộng sản đang dần dần biến chất và biến thể. Nó không giống chủ nghĩa Cộng sản của Stalin và Mao Trạch Đông. Nó cũng không giống chủ nghĩa Cộng sản của Lenin. Và nó cũng không giống chút nào với cái chủ nghĩa Cộng sản mà Mark và Engels quan niệm.
Thứ nhất, về phương diện kinh tế, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều chấp nhận kinh tế thị trường vốn là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Dĩ nhiên, cái gọi là “kinh tế thị trường” ở đây vẫn còn bị giới hạn bởi cái đuôi phía sau “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng cái đuôi ấy chỉ là một cố gắng níu kéo nắm giữ quyền lợi cho một số người thuộc tầng lớp thống trị qua các đại công ty và tập đoàn quốc doanh. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động và sự điều hướng kinh tế vẫn theo quy luật thị trường, nghĩa là tư bản hóa.
Thứ hai, về phương diện chính trị, tất cả vẫn cố thủ, trên danh nghĩa, trong cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng ở đây cũng lại có vấn đề. Cái gọi là chính trị Cộng sản chủ nghĩa vốn bao gồm hai khía cạnh: một, về tổ chức, sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản; và hai, về phương diện ý thức hệ, lý thuyết của Marx và Lenin. Ở tất cả bốn quốc gia kể trên, Cộng sản chỉ nằm ở bình diện tổ chức, còn ở bình diện ý thức hệ, hầu như không ai còn tin, thậm chí, không mấy người muốn nhắc đến ý thức hệ Cộng sản nữa. Ngay ở Việt Nam, giới lãnh đạo cũng thừa hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin không còn sức thuyết phục và sự quyến rũ nữa. Họ phải thêm vào mấy chữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, cho đến nay, họ cũng không biết cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” ấy thực sự là gì. Lý do là Hồ Chí Minh vốn là người thực hành, không viết về lý thuyết, và thật ra thì cũng chẳng có lý thuyết gì ngoài một mớ giáo điều đơn giản và cũ kỹ ông học được ở Nga và Trung Quốc. Những kẻ đang nắm quyền tại Việt Nam sử dụng cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như một huyền thoại chứ không như một chủ thuyết.
Theo chủ nghĩa Marx-Lenin, một hình thái chính trị đúng nghĩa phải tương ứng với, thứ nhất, một hình thái kinh tế nhất định; và thứ hai, một ý thức hệ nhất định. Nền chính trị Việt Nam hiện nay, trên danh nghĩa, vẫn là Cộng sản, nhưng kinh tế lại là tư bản hoặc ít nhất, nửa-tư bản hoặc đang trong quá trình tư bản hóa; còn ý thức hệ thì hoàn toàn trống rỗng: Nó phi-Marx và cũng phi-Lenin. Chẳng giống ai và cũng chẳng là cái gì cả. Đó là một thứ tôn giáo vừa không có thần linh vừa không có điển phạm (canon). Tên nó, ở Việt Nam, nhiều người gọi thẳng: mafia.
Bởi vậy, trong trường hợp của Việt Nam hiện nay, nếu chúng ta nói đến chuyện chống Cộng có lẽ ngay cả những người đang mang danh hiệu đảng viên Cộng sản trong nước – hầu hết đều rất giàu có và sống rất trưởng giả – sẽ cười khì, hỏi: “Cộng nào vậy nhỉ?” Lôi tư tưởng Marx, Engels và Lenin ra phê phán, phần lớn họ – những người chẳng bao giờ thực sự đọc Marx, Engels và Lenin – hẳn sẽ trố mắt lên hỏi: “Mấy người đó là ai vậy? Có phải mấy ông râu ria xồm xoàm gì đó không?” Nói đến đấu tranh giai cấp, đến tầng lớp công nhân và nông dân, đến chuyên chính vô sản, đến công bằng xã hội và đến lý tưởng làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, những vấn đề nòng cốt của ý thức hệ Cộng sản, họ – những người đang sống như giới thượng lưu và thường được gọi là “tư bản đỏ” – hẳn sẽ bịt tai lại, như nghe những chuyện cổ tích vừa xa vời vừa nhảm nhí.
Trong trường hợp ấy, chống Cộng là chống ai và chống cái gì?
Đối với riêng tôi, khi phê phán chính quyền trong nước, tôi không nghĩ là tôi chống Cộng. TÔI CHỈ CHỐNG LẠI ĐỘC TÀI.
Chế độ Việt Nam hiện nay đáng bị phê phán không phải vì nó là Cộng sản. Mà vì nó là độc tài. Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất. Ngay cả khi chúng ta chống lại điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam, chúng ta cũng chỉ chống lại một sự độc tài. Chính quyền Việt Nam hiện nay đang rục rịch muốn đổi tên nước. Có khi họ đổi cả tên đảng. Nhưng dù đổi đảng Cộng sản thành đảng Dân chủ hay đảng Cộng hoà, cái việc nhân danh Hiến pháp để giành quyền lãnh đạo độc tôn như vậy cũng vẫn là độc tài. Tên gọi có thể thay đổi, thực chất vẫn là một. Vẫn độc tài.
Mọi sự độc tài đều đáng phê phán. Nhưng khi độc tài đi liền với bất tài thì càng đáng bị phê phán hơn. Và nhu cầu phê phán ấy cũng càng khẩn cấp hơn. Sự độc tài chà đạp lên dân chủ và nhân quyền, nhưng trong một số trường hợp nào đó, dưới một sự độc tài sáng suốt, người ta cũng có thể sẵn sàng chấp nhận hy sinh dân chủ và nhân quyền trong một thời gian nào đó để xây dựng và phát triển đất nước (như trường hợp của Singapore). Độc tài mà bất tài thì bao giờ cũng gắn liền với sự ngu dốt và tham nhũng bởi họ sẽ không có, không thể có, bất cứ lý tưởng nào khác ngoài tiền và cũng không có một thứ trí tuệ nào khác nào thứ “trí tuệ” dùng để làm giàu cho bản thân và gia đình. Sự ngu dốt trong chính sách và tham nhũng trong bộ máy chỉ tồn tại được nhờ hai yếu tố: dối trá trong tuyên truyền và tàn bạo trong quản trị. Tập hợp của tất cả các yếu tố ấy, người ta chỉ làm được mỗi một việc duy nhất là tàn phá đất nước và hành hạ dân chúng. Tính chất độc tài, bất tài, tham nhũng, dối trá và tàn bạo ấy càng trở thành nguy hiểm hơn nữa khi đất nước đối diện với nguy cơ xâm lấn chủ quyền và lãnh thổ của Trung Quốc.
Đối diện với các nguy cơ trên, chữ “chống Cộng”, theo tôi, rất dễ làm lệch vấn đề. Nó dễ gợi lên ấn tượng là, khi chống lại chế độ Việt Nam hiện nay, chúng ta nhân danh hai điều vốn bị xem là đối lập với Cộng sản, nhất là Cộng sản Việt Nam: Một, chủ nghĩa tư bản và hai, Việt Nam Cộng Hoà lúc trước. Nhưng chúng ta chống Cộng không phải vì chủ nghĩa tư bản và cũng không phải vì để trả thù hay để phục hồi miền Nam. Việc chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam cần xuất phát từ những lý tưởng hiện đại, cao cả và phổ quát hơn: quyền tự do, dân chủ và quyền làm người. Hơn nữa, nó còn xuất phát từ cả sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tiền đồ của đất nước nữa. Trong chiến tranh có tính dân tộc chủ nghĩa, người ta có thể huy động lịch sử, hay nói như Tố Hữu, trước năm 1975, “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”; trong cuộc chiến chống độc tài, nguồn sức mạnh không phải chỉ nằm ở quá khứ mà còn, nếu không muốn nói chủ yếu còn, nằm ở tương lai.
Chúng ta chống lại chế độ Việt Nam hiện nay không phải vì việc họ chọn lựa hệ thống xã hội chủ nghĩa, việc họ gây ra cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam, việc họ cưỡng chiếm miền Nam, việc họ trả thù những người miền Nam: Tất cả đều đã thuộc quá khứ.
Người ta cần lưu giữ quá khứ, cần thường xuyên đào xới lại quá khứ và cần viết lại quá khứ, một cách chính thức, bằng lịch sử; hoặc một cách không chính thức, bằng ký ức, từ ký ức cá nhân đến ký ức tập thể. Nhưng không ai thay đổi được quá khứ. Càng không cần phải chống lại quá khứ. Những điều ấy khác nhau.
Chúng ta chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam vì nó ĐANG chà đạp lên quần chúng, ĐANG làm cho đất nước bị phá sản trên mọi phương diện, từ kinh tế đến giáo dục, từ ý thức đạo đức đến cả lòng tự hào dân tộc, từ các giá trị truyền thống đến tinh thần hiện đại với những giá trị về dân chủ và nhân quyền vốn đang, cùng với xu hướng toàn cầu hoá, càng ngày càng trở thành phổ quát, ĐANG kiềm hãm sự phát triển của đất nước khiến Việt Nam, một dân tộc vốn rất nhiều năng lực, bị thua kém không những các nước được xem là những con rồng của châu Á mà còn có nguy cơ thua cả một quốc gia vốn bị rất nhiều tai tiếng, như Miến Điện.
Và chúng ta cũng chống lại chế độ ấy vì, với sự nhu nhược của nó, Việt Nam có nguy cơ bị biến thành một tỉnh lẻ của Trung Quốc.
Cuối cùng, có một điểm cần được nói thêm: Ở Tây phương, ngay trong thời Chiến tranh lạnh, nghĩa là lúc chế độ Cộng sản vẫn còn rất mạnh, nhiều chiến lược gia và trí thức, đặc biệt ở châu Âu, đã chuyển khẩu hiệu “chống Cộng” (anti-communism) thành “chống toàn trị” (anti-totalitarianism). Dưới khẩu hiệu chống toàn trị, người ta không những chống lại chế độ Cộng sản mà còn chống lại cả chế độ phát xít, đồng thời người ta cũng khẳng định được lập trường của họ một cách rõ ràng: Việc chống đối ấy, thứ nhất, không nhắm vào một lý thuyết mà nhắm vào một chế độ với những guồng máy và chính sách cụ thể; và thứ hai, không nhằm bảo vệ hay bênh vực cho chủ nghĩa tư bản mà là để bảo vệ dân chủ và nhân quyền, những lý tưởng vừa có tính phổ quát vừa dễ được mọi người đồng thuận.
Cả tính phổ quát và sự đồng thuận ấy tạo nên sức mạnh cho cuộc tranh đấu, cuối cùng, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa như một hệ thống độc tài đáng kinh tởm (9).
© Nguyễn Hưng Quốc
Nguồn: VOA
——————————————
Chú thích:
- Trên một số bản kiến nghị lưu hành trên internet, tôi thấy có tên “Nguyễn Hưng Quốc” ở Úc. Đó không phải là tôi. Có thể chỉ là trùng tên hoặc là một sự giả mạo. Bản thân tôi thì chưa từng ký vào bất cứ một kiến nghị nào cả.
- Richard Pipes (2003), Communism, a History, New York: Random House, tr. 147.
- Như trên.
- Do Jonathan Murphy và Mark Kramer dịch sang tiếng Anh, Harvard University Press, 1999.
- Xem Stathis N. Kalyvas (1999), “The decay and breakdown of communist one-party systems”, Annu, 1999, tr. 329.
- Stéphane Courtois và nhiều người khác (biên tập) (1999), The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression, Cambridge: Havcard University Press, tr. 7.
- Leslie Holmes (1997), Post-Communism, an Introduction, Cambridge: Polity Press, tr. 13.
- Ghia Nodia (2000), “Chasing the meaning of ‘post-communsm’: a transitional phenomenon or something to stay?”, Contemporary European History, 9 (2000), tr. 278.
- Xem bài “From anti-communism to anti-totalitarianism: the radical potential of democray” của Dick Howard trên Government and Opposition số 37, 2002, tr. 551-572.
Đọc cái tựa đề “Tôi không chống Cộng” của ông Nguyễn Hưng Quốc tôi thấy là lạ và chỉ muốn nói với ông rằng; “Ông không chống cộng” thì “cộng vẫn chống Ông”.
Nhưng khi đọc đến đoạn này: “Người ta phải chống lại chế độ Cộng sản ngay cả trong phạm trù tư tưởng, trong lãnh vực nhận thức, nghĩa là bằng các phương tiện tuyên truyền và giáo dục, nhắm thẳng vào những tên tuổi như Marx, Engels, Lenin và Stalin, những người đã chết; hơn nữa, bằng một bảng giá trị khác, cao hơn, hiện hữu ngay trong đời sống xã hội để mọi người có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, nghĩa là bằng một nỗ lực không ngừng tự do hoá, dân chủ hoá và nhân quyền hoá, như những điều chủ nghĩa tư bản, ở các quốc gia phát triển nhất, từng làm trong suốt thế kỷ 20“, tôi mới hiểu ra rằng;
Ông Quốc “không chống cộng”, mà “chống những kẻ khai sinh ra CNCS”. Nói kiểu cách khác thì; “tao không chống chúng mày, mà chống cái thẳng đẻ ra chúng mày”!
Sợ rồi a` ? Lại muốn mo` về Việt Nam kiếm chút “cỏ non” chứ gi`.
Mấy con “bo` gia`”, càng gia` càng sinh tật …( Kể cả nhửng con bo` già Nhạc Sĩ, Ca sĩ, Tiến Sĩ, Giáo Sư … Chí khí cuả một người đàn ông bỏ ở đâu ?)
“Tôi không chống cộng, chỉ chống gậy” P. Duy
Chú em Quốc làm gì có đủ bản lãnh như PD, sao chú em vội chôm chỉa câu chửi của P.Duy sớm thế, nhẩy?
Tôi vẫn “ngoan cố”, quan niệm rằng việc làm đó là chống cộng. Việc làm của những người VNCH cũ là chống cộng, việc người ta bỏ miền Bắc di cư nào Nam năm 1954 là không chấp nhận CS, đồng nghĩa với chống cộng, việc người ta chống lại chính quyền độc tài ở VN hiện nay cũng đồng nghĩa với chống cộng.
Mỗi người có một ý niệm về xã hội và cách xử dụng ngôn ngữ khác nhau. Tôi không cãi bài viết đó là sai, nhưng tôi nhìn sự kiện không theo định nghĩa của những danh từ xử dụng mà nhìn theo cái người ta vẫn coi đó là đúng. Người VN gọi máy bay bay trên trời, nhưng người Mỹ nó dùng chữ máy bay bay trong trời. Ai cũng đúng cả, đừng cãi cho mệt. VC gọi ngày 30/4 là ngày Giải Phóng, miết rồi nhiều người quen gọi như thế, tôi chẳng cần bắt bẻ họ nữa; vì họ hiểu nó khác nhưng họ quen nói chữ GP, và có khi ngay cả tôi cũng thích nói chữ đó và thường nhấn mạnh nó khi xử dụng. Tôi xử dụng accent khi xài nó tuỳ theo nghĩa diễn tả, chứ không cần chú ý đến định nghĩa của nó nữa. Có nhiều chữ tương tự như vậy, chẳng hạn như “nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” VC nó dùng chữ đó và không ai sửa đổi chữ đó khi nhắc lại mặc dù ai cũng biết cái đất nước đó chẳng có dân chủ tí nào.
Tại sao người ta thường gọi VC là “đỉnh cao trí tuệ”, tại vì chính VC nó tự xưng là như vậy nên người ta sẵn sàng chiều nó luôn; bây giờ nó được gọi như vậy thì nó lại … hối hận!!!
Cái gì đã thành quá thông dụng rồi, rất khó để mà sửa lại; ngay cả chữ Việt Kiều mà VC thường dùng sai nghĩa khi gọi những người VN sống ở ngoại quốc là hoàn toàn sai, nhưng coi chừng nó sẽ trở nên thông dụng ở hải ngoại và người ta sẽ không sửa nổi nữa. Ở VN thì chữ đó người ta đã hoàn toàn chấp nhận rồi…! Bản quốc ca của VNCH, có nhiều người đề nghị đổi bài khác vì tác giả bài đang sai là VC. Điều đó không thể được, bài đó không còn là của riêng ông Lưu Hữu Phước nữa, mà nó là của toàn thể dân VNCH nói riêng và dân chống cộng nói chung.
Tôi cũng ý thức VC không theo đúng chủ nghĩa CS ngay từ đầu, chẳng có nước CS nào theo đúng triết học giai cấp công nông đúng theo sách vở của Mark cả. Nhưng có ai nói nước Nga trước năm 1991 không phải là CS đâu, họ chỉ nói thêm là nước Nga theo chủ nghĩa Xét Lại. Nam Tư, hoàn toàn không theo Bolchevik nhưng ai cũng biết hồi đó Nam Tư là một nước CS. Nếu như VC nó thực hiện đúng triết học của Mark thì có lẽ tôi cũng theo CS rồi, vì quả thực tôi cũng chẳng ưa gì tư bản. Thế nhưng tôi vẫn chống cộng, và chẳng mặc cảm gì khi người ta gọi tôi là người chống cộng.
Không cần tự hào, không bao giờ tự tôn; nhưng không thể nào tự ti mặc cảm với những chữ đó. Mặc dù tôi không chống lại Mark, chỉ chống lại CS (cái cảm giác về chữ đó theo quan niệm của số đông) và chống những chính quyền độc tài đảng trị, khát máu và man rợ, bất công và gian manh, nhưng tôi vẫn coi mình là người chống cộng. Ai có ác cảm với chữ đó là quyền của họ. Tôi trái lại, tôi có thiện cảm với những chữ như là: “phản động, bán nước, nợ máu, ngụy, chống cộng, tay sai,…” và rất hoài nghi, ác cảm với những chữ “tổ quốc, thống nhất, yêu nước, cách mạng, giải phóng, độc lâp…” Người ta xài miết rồi khái niệm mấy chữ đó dần dần trơ nên xấu trong cảm xúc của tôi.
Hồi sống dưới chế độ VNCH, mỗi khi nghe bài “Ôi tổ quốc ta đã nghe lời réo gọi…” của La Hữu Vang, tôi thấy cơ thể mình cảm động, máu chạy rần rần. Bây giờ nghe lại bài đó không thấy áp phê gì nữa, cả những bản nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn trước khi tôi thường hát khi đi cắm trại, bây giờ tình cờ nghe lại tôi thấy mình như vịt nghe sấm!
ĐÀO CÔNG KHAI
Ông Đào Công Khai bảo học thuyết Mác là đúng, ông không chống học thuyết Mác, ông chỉ chống Cộng là những người làm sai học thuyết Mác đến độ trở nên quá tàn ác. Ông chống là chống cái phi nhân, cái dã man, tàn ác.
Đây thật là một ý kiến lạ, mà có lẽ cả những người CS thật sự cũng có thể thấy mình bị bối rối.
Nếu nói như ông Khai, thế thì lỗi cuối cùng là do ai ? Dĩ nhiên theo ông là do những người thực hành chủ nghĩa Mác. Bởi ông Khai nói nếu họ thực hành đúng ông sẽ theo ngay. Quả là chuyện lạ trên đời.
Ông Khai không biết nghiên cứu học thuyết Mác đến đâu mà cách phát biểu của ông thật là ngoạn mục. Nếu học thuyết Mác hoàn toàn đúng, thế thì cái sai do đâu mà có ? Nếu cái sai chỉ do người làm sai sao lại không sửa được để khiến Liên Xô đành phải sụp đổ. Đã vậy sau khi LX sụp đổ, trong chế độ mới của nước Nga, đảng CS cũng không bao giờ thắng cử và cầm quyền được trở lại cả. Như vậy có nghĩa hơn hai trăm triệu dân Nga đều không sáng suốt, không hay, không giỏi bằng ông Đào Công Khai.
Rõ ràng, trong cuộc sống hiện đại và thực tế, mọi người cần luôn thật lòng với nhau thì chính bản thân mỗi người và toàn thể xã hội mới có thể phát triển thành công và tốt đẹp. Lỗi đây là lỗi lý thuyết. Chính lỗi lý thuyết làm thành lỗi hệ thống. Sau cùng chính lỗi hệ thống đã làm nên lỗi của thực tế, tức là tập thể những con người cụ thể. Đó chính là ý nghĩa khách quan mọi người đều thấy (biết đâu cả những người CS nhưng họ đều không muốn nói ra), đó là ý nghĩa của câu không có lửa làm sao có khói như cổ nhân ta đã có nói, đó mới là tư duy sâu xa và đúng đắn ông Đào Công Khai à. Lỗi người thợ làm giầy làm cho cái chân bị sưng đau, đó đâu phải là lỗi của cái chân phải không mọi người ?
TRĂNG NGÀN
(13/5/13)
Tôi không thể nào nói học thuyết Max hoàn toàn đúng, hay tuyệt đối đúng. Nhưng tôi dám nói nó đúng ở chỗ nó chống tư bản. Khi nói nó đúng thì đâu có nghĩa là nó không có chỗ sai? Tui duy vật chứ không duy tâm, do đó không có những niềm tin tuyệt đối. Cái gì cũng tương đối thôi, dĩ nhiên Max nó có cái đúng, nhưng nó có cái sai. Và cả tư bản lẫn CS đều có những cái sai. Đối với tôi không chơi với chủ nghĩa nào cả, nhưng trong tình thế bị bắt buộc, không còn đường lựa chọn, thì tôi sẽ theo QG. Cũng như tôi giả thiết nếu VC làm đúng như sách vở của Max thì chắc là tôi đã bỏ QG để theo VC. QG cũng chẳng tốt đẹp gì, nhưng sở dĩ mình ủng hộ QG bởi vì VC nó ghét QG. Lý luận thế có lẽ nhiều người sẽ bắt bẻ mình nữa… Nhưng tui là như vậy. Sở dĩ theo QG là vì đã đến lúc mình khoái chống cộng.
SỰ HÈN YẾU CỦA CON NGƯỜI
Ông Đào Công Khai càng viết nhiều lại càng nói lung tung không đâu vào đâu và chỉ càng cho thấy những sự hiểu biết rất nông cạn, hời hợt, phiến diện của ông ta. Ông viết “quả thực tôi cũng chẳng ưa gì tư bản”. Thế tại sao ông ta lại không về VN mà vẫn sống ở Mỹ. Đây cũng là tâm lý của một số người. Miệng cứ nói không ưa xã hội tư bản nhưng vẫn chạy sang sống ở các nước đó. Điều đó chẳng trách những điều tệ hại trong xã hội con người vẫn cứ xảy ra là như thế. Con người quen sống giả tạo, giả dối, lời nói không đi theo với hành động, thái độ là như thế.
Ông cũng viết “Tôi cũng ý thức VC không theo đúng chủ nghĩa CS ngay từ đầu, chẳng có nước CS nào theo đúng triết học giai cấp công nông đúng theo sách vở của Mark cả”. Viết như thế nhưng liệu ông Khai có hiểu “triết học giai cấp công nông theo đúng sách vở của Marx” thật sự là gì không, và ý nghĩa cùng giá trị thực chất của nó như thế nào thì có trời rõ.
Đúng là múa rìu qua mắt thợ giữa chốn công khai bàn dân thiên hạ.
Ông ta viết “tôi không chống lại Mark, chỉ chống lại CS và chống những chính quyền độc tài đảng trị, khát máu và man rợ, bất công và gian manh”. Ông không chống Marx, nhưng lại chống các sản phẩm, thành quả của Marx, có nghĩa ông không chống lại cái cây mà chỉ chống lại những cái gai của cái cây đó. Quả đúng là một con người lãng mạn và lý tưởng. Nhưng ông chống lại “CS” với các thuộc tính như ông ta nói bằng cách nào đây khi ông đang ở Mỹ thì lại không nói rõ, và nhất thiết ông chẳng ưa gì Mỹ nhưng vẫn cố sống bên đó.
Ông đúng là một người VN với những cố tật mà mọi người đều biết.
Thật ra, Marx phê phán những mặt trái của kinh tế tư bản là đúng. Nhưng từ các mặt trái đó, thay vì tìm ra các mặt phải tích cực của nó để kiếm cách chế giải lại, ông ta lại sổ toẹt luôn chính bản thân của nó. Thật quả khác gì một người lập dị, một kẻ muốn chơi trội lại không đủ lông cánh. Và cũng từ đó, nếu ông quật nó để xây lên một cái gì khác tốt hơn thì không nói, lại xây lên một cái còn tệ hơn nhiều mặt, đó chính là tính vô trách nhiệm, thiếu tài bộ và thiếu thông minh của Marx. Chỉ điều đó thôi cũng cho thấy tính cách khoa học và tính cách triết học của ông ta thực chất là vô cùng yếu kém. Và điều này ngày nay chính thực tế đã chứng minh mà không chỉ tính phản lô-gích, tính phản khách quan trong lý thuyết đã tự chứng minh ngay từ đâu khi ông xuất trình lý thuyết đó của ông ra trước toàn thể nhân loại.
Điều này quả thật Đào Công Khai hãy còn khuya hay đến Tết Công gô mới có thể hiểu hết được.
ĐẠI NGÀN
(13/5/13)
Đừng nên lẫn lộn tư bản với tự do dân chủ nhé. Có lẽ cái này nhiều người hay lẫn lộn. Tư bản thì hiện nay Mỹ cũng có tư bản và VC cũng là tư bản luôn. VC đích thực họ không phải là CS, ngay từ đầu họ dùng CS để lường gạt dân và lường gạt ngay cả chính tư tưởng của họ nữa. Thực ra họ là một loại phong kiến kiểu mới. Còn bây giờ thì cả Mỹ và VC đều là tư bản và VC như tôi đã thường nói, họ là tư bản đúng nghĩa như sách vở họ viết chửi tư bản trong thời họ còn ca ngợi chủ nghĩa CS.
Dĩ nhiên tôi không ưa tư bản, bởi tư bản nó thối nát, bóc lột. Nhưng tôi phải lựa chọn chỗ nào tự do dân chủ hơn để sống chứ; xã hội này đâu có chỗ nào tuyệt đối. Nếu phân tích xã hội VN thì người ta thấy thực tế giai cấp tư bản ở VN hống hách hơn bọn tư bản Mỹ nữa. Ở đâu cũng thế, luật pháp nó nằm trong tay những thằng có tiền.
thưa tác giả
ông không chống cộng
ông ghét chử chống
tốt
*
nhưng
tôi chống cộng
tôi cần chử chống
tốt
*
độc tài chỉ là một khái niệm
nếu
không có kẻ nào đó
đem áp đặt nó vào đời sống xả hội
thì nó chỉ là
hai cái chử chết khô trong sách báo
*
tôi không chống hai chử độc tài
mà tôi chỉ
chống nhửng kẻ đang áp đặt chế độ độc tài
lên
dân tộc tôi đất nước tôi
đó là
tập đoàn tội ác ba đình hà nội
là
đảng cộng sản việt nam
là bọn việt công đả mất tính người
đả và đang
bán nước cho bọn bành trướng tàu cộng
*
chống tàu cộng bành trướng
chống việt cộng độc tài
đó là CHỐNG CỘNG
*
tôi
chỉ là một người dân bình thương
vì vậy
tôi sẻ không đưa một ông tây râu xồm
hay
một anh tàu mắt xếch
ra để
làm khuôn vàng thước ngọc
nhằm xác nhận cho tôi
là
người có học thức
*
ông đả hai lần viết câu
“chông lại chế độ việt nam hiện nay”
*
thưa ông
chế độ việt nam hiện nay
là
chế độ nào vậy
(Chúng ta chống lại chế độ Việt Nam hiện nay)
(là, khi chống lại chế độ Việt Nam hiện nay,)
“…trước năm 1975, nói chống Cộng: Được; trước năm 1990, nói chống Cộng: Được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại.”
Láo!
Chẳng biết cố nội Quốc Xẻng… gì đó đã mần được cái trò trống gì chưa (?) Chớ đọc qua, là biết tay trí thức …tự sướng rồi!
Tôi không cần biết nó tên gì. Tôi chống cái đảng độc tài, tham nhũng, ngu si, dốt nát, hiện đang cai trị nước Việt Nam
Khi người ta làm một việc duy tâm thì không nên chú trọng tới những danh từ hay định nghĩa của những danh từ đó nữa. Tiếp xúc với người công giáo VN, tôi biết họ có bài hát thánh ca rất hay “trên con đường về quê, mà vắng bóng mẹ, con biết cậy nhờ ai, biết trông chờ ai… Mẹ Maria, nhân từ…” Bài đó sau này cũng bị một số người công giáo phê phán rồi tự động không hát ở nhà thờ nữa. Người ta cho rằng chỉ thờ một Chúa mà thôi, bai` hat’ sai tin’ ly’…
Tôi nghĩ đó là quan niệm tình cảm chứ không liên quan đến tín lý; nhưng người ta hành động theo ý thức chứ không theo tình cảm thì đó là quyền của người ta. Ở đây cũng vậy, tác giả có lý và tác giả đúng; nhưng theo duy tâm thì người ta xử dụng chữ chống cộng vẫn là đúng. Tác giả dựa theo duy lý để biện hộ quan điểm của mình, nhưng ở đây tôi theo duy tâm. Chống cộng vì CS độc tài, vô thần; và ngày nay thì VC vẫn vô thần, họ xử dụng thần thánh trở lại cốt để mị dân mà thôi, thực tế họ không có niềm tin duy tâm nào nữa. Chúng ta thấy rõ, họ xây lại chùa nhưng đưa tượng HCM vào trong đó; họ cho xây học viện Khổng Tử bởi vì trong các tôn giáo thì nho giáo là nhập thế và duy vật nhiều nhất. Người ta chống cộng vì người ta định nghĩa một cách thực dụng, CS là vô thần. Chỉ khi nào VC tôn trọng các tôn giáo thì họ mới có thể hết là CS.
Có nịnh bợ la làng “tôi không chống cộng” cho lắm thì bọn cộng cũng đếch cho về, nhiều khi chúng ầm ừ cấp giấy cho về, nhưng đến phi trường không cho vào để mất tiền vé máy bay chơi. Đểu thế, làm gì nhau nào? Tưởng viết vài con chữ “tôi không chống cộng” là bọn csvn tha thứ cho vào VN chăng?
Tóm lại ngày nào bọn csvn còn chưa dẹp bỏ chế độ csvn như Ba Lan đã dẹp, hay còn tung hô cs dưới dạng đảng csvn nhưng bám víu tư bản, hoặc còn tung hô học tập gương HCM thì dân VN còn chống lại những thứ rác rưởi bệnh hoạn phá hoại tổ quốc và dân tộc ấy. Vì thế, cho dù ai vì lý do gì đi nữa, cố tuyên truyền la cho to “tôi không chống cộng” vì mong bọn csvn nghe được mà tha thứ, hoặc để được vào VN thì thiên hạ vẫn không tin những trò rẽ tiền ngụy biện như thế nầy.
CỘNG SẢN ANH LÀ AI ?
Vốn có người thắc mắc
Cộng sản anh là ai ?
Chống hay là không chống
Và chống biết chống ai ?
Anh là năm ba mươi
Trong lòng thế kỷ trước
Hay từ năm bảy lăm
Cũng gọi là ba mươi ?
Một thế kỷ qua rồi
Bây giờ là hai mốt
Ông Mác cũng ra đời
Cách đây thế kỷ rưởi !
Sau Mác, ông Lênin
Người dựng lên Cộng sản
Lập ra nước Liên Xô
Từ lâu đã tan rã !
Hay anh theo Bác Hồ
Nhằm giải phóng đất nước
Nhưng khi giải phóng rồi
Tại sao làm cộng sản ?
Bác Hồ là cộng sản
Hay tư sản hỡi anh
Bác là người độc lập
Hay Cộng sản Đệ Tam ?
Chuyện này rõ mồn một
Bác trông vào Đệ Tam
Để tìm đường cứu nước
Cộng sản vẫn niềm tin !
Nhưng mọi chuyện qua rồi
Chiến tranh cũng chấm dứt
Ba mươi tám năm trôi
Việt Nam cũng hội nhập !
Khởi đầu đuổi Đế quốc
Bằng gươm dáo, tầm vông
Giờ thì mời chúng lại
Bằng thảm đỏ trải lên !
Bốn triệu người đã ngã
Còn biết họ đi đâu
Họ đã đi theo Mác
Hay đi theo Bác Hồ ?
Hoặc họ về quốc thổ
Của tiên tổ Hùng Vương
Nào có ai biết được
Riêng Bác theo Mác Lê !
Những lời di chúc Bác
Nào được ai có tin
Nên không đem đốt xác
Mà xây lăng tưng bừng !
Bác Hồ làm cách mạng
Lại trở nên thánh thần
Các anh là cộng sản
Duy vật hay duy tâm ?
Bác vốn mang dép râu
Sao chết nằm lăng tẩm
Nhằm hạnh phúc riêng mình
Hay toàn dân hạnh phúc ?
Các anh chỉ theo Bác
Hay Lê Duẩn, Trường Chinh
Hoặc cả ba chỉ một
Tập thể hay cá nhân ?
Hỏi anh người yêu nước
Thế cộng sản là gì
Còn anh người cộng sản
Thì yêu nước ra sao ?
Đừng cố tình nhập một
Chẳng nên nói tào lao
Yêu nước yêu chủ nghĩa
Như đã có ngày nào !
Giờ thì chủ nghĩa rã
Trên toàn thế giới rồi
Khối Liên Xô đã sụp
Anh còn yêu nữa thôi ?
Anh từng đọc Mác Lê
Ít ra là vài cuốn ?
Hay thuần nghe tuyên truyền
Hầu như chỉ bằng miệng !
Anh tin vào lý tưởng
Giờ lý tưởng ra sao
Hay đỉnh cao trí tuệ
Hiện đỉnh cao thế nào ?
Anh cốt vì xã hội
Nay xã hội ra sao
Hay cốt nhằm quyền lợi
Hỏi anh nghĩ thế nào ?
Quả biết bao câu hỏi
Được đặt ra với anh
Phải trả lời chính xác
Đừng nên nói loanh quanh !
Bởi kẹt trong guồng máy
Của chuyên chính ngày nào
Vì vào thì rất dễ
Mà có dễ khi ra ?
Nhưng kẹt bởi vì đâu
Đúng chăng vì cơ chế
Hay đồng chí, bạn bè
Còn đất nước thì sao ?
Vậy anh người yêu nước
Hay yêu cộng sản nào
Bởi Mác Lê cộng sản
Nhưng dân tộc tự do !
Mác cố hô chuyên chính
Để kiềm nhau ra trò
Vậy anh yêu chuyên chính
Hay là yêu tự do ?
Mà chuyên chính làm gì
Khi cuộc đời khổ ải
Kinh tế chỉ thụt lùi
Sao tự do anh sợ !
Anh sợ bởi lợi riêng
Hay bởi vì dân tộc
Hãy nhìn ra thế giới
Có ai như anh không ?
Tổ quốc ta Hùng Vương
Sao chỉ mong Quốc tế
Câu hỏi này liệu thừa
Nếu anh người Cộng sản ?
Võ Hưng Thanh
(12/5/13)
Thưa ông Tuấn.
“Khác với Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ “Khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”, tôi chỉ thích đứng một mình.”
Ông mà so sánh với CLV thì giống hệt như bác hồ tự sướng với Đức Trần Hưng Đạo!
Ông thực chất chẳng là trí thức trí ngủ gì ráo trọi, chỉ là một người biết viết chữ Việt, thế thôi.Đừng tự sướng để người khác khinh bỉ.
Ông không bầy đàn vì ông là con thỏ. Chỉ có vậy thôi.
Hãy tự đánh giá đúng khả năng và tư cách của mình. Chúc ông sáng sủa hơn.
Cám ơn Hà Việt Vũ đã viết những gì tôi cũng muốn viết: “đừng tự sướng” “không bầy đàn vì chỉ là con thỏ”.
Cũng cám ơn Tâm đã nói sự thật: “có nịnh bợ thì chúng nó đếch cho về”