WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Ăn năn vì Tổ Quốc

 

Tôi rất không bằng lòng, và nghĩ rằng có người đã phẫn nộ có lý khi đọc những dòng sau đây:

Nhân danh tổ quốc họ phát động cuộc chiến thôn tính miền Nam làm hàng triệu người chết và đất nước kiệt quệ. Tổ quốc đồng nghĩa với chiến tranh và chết chóc.
Toàn thắng rồi, tổ quốc xã hội chủ nghĩa quên phắt cam kết thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tổ quốc bỏ tù và hạ nhục hàng triệu người. Tổ quốc đánh tư sản, tống cỗ con cái ngụy quân, ngụy quyền ra khỏi trường học và lùa đi vùng kinh tế mới. Tổ quốc khống chế và hăm dọa bằng công an thành, công an tỉnh, công an huyện, công an phường. Biết dân chúng không còn chịu đựng được nữa và muốn bỏ nước ra đi, tổ quốc đứng ra tổ chức vượt biên bán chính thức để lấy tiền chuộc mạng của những người muốn chạy trốn nanh vuốt của mình. Tổ quốc hành động như bọn giặc cướp. Đến khi bị dư luận thế giới lên án dữ dội vì hành động bỉ ổi này, tổ quốc dẹp luôn đợt vượt biên bán chính thức và dĩ nhiên không trả lại tiền. Tồ quốc đểu cáng và lật lọng.
Đối với những người ra đi, tổ quốc là sóng gió, hải tặc, là cái chết trong bụng cá, may mắn hơn là những ngày ê chề trong những trại tập trung trước khi tìm được một quê hương mới. Tổ quốc là một dĩ vãng cần quên đi. Đối với những người ở lại, tổ quốc đổi tiền mấy lần để cướp giật, tổ quốc sách nhiễu từng ngày. Tổ quốc nói trắng cũng được, nói đen cũng xong, cấm rồi lại cho phép, cho phép rồi lại cấm, muốn bắt hay tha tùy ý, người dân phải chịu đựng hết. Vì tổ quốc có súng” (1).

Để biện minh cho bản cáo trạng nặng nề vô lối đó, Nguyễn Gia Kiểng giải thich:
“Người dân có thể cảm nhận về tổ quốc thế nào tuỳ ý, nhưng họ chỉ tiếp xúc thực sự với tổ quốc qua các chính quyền” (1).

Làm gì có sự tách bạch hoàn toàn giữa tiếp xúc với cảm nhận trong khi cảm nhận chỉ là hệ quả tổng hòa của tiếp xúc.

Thế mà, cùng cảm nhận và tiếp xúc nhưng, Tổ Quốc khi hiện lên trong tâm khảm người ta với “Những cánh đồng quê chẩy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều” thì vẫn nghe “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về” kia mà.

Tổ quốc, “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở (dẫu trong ngày ta ở có bao nhiêu điều phũ phàng, chua xót, thì)/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” kia mà.

Và, trong lòng ta, “Xưa yêu quê hương (đâu chỉ vì) có chim có bướm/ (mà còn vì) có những ngày trốn học bị đòn roi” kia mà.

Tổ quốc, ngay khi tưởng như: “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu” thì vẫn có những “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông/ Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả ” (2) kia mà.

Phải chăng chỉ NGK đã cả giận mất khôn !

Tuy nhiên, nỗi bất bình dường như tiêu tan khi ta nghe ông tâm sự:

Trước hết mỗi người Việt nam phải ăn năn và sám hồi. Ăn năn vì chúng ta, mỗi người chúng ta, đã ngây thơ coi tổ quốc như là vô tận, không thể hao mòn và đã không quan tâm làm cho tổ quốc ngày một vững mạnh hơn và đáng yêu hơn. Hay vì chúng ta đã khờ khạo nghĩ rằng mình có thể tự giải quyết các vấn đề cá nhân của mình bằng những giải pháp cá nhân như luồn lách, móc ngoặc, hối lộ, bỏ nước ra đi, v.v…” (1)

Đấy không chỉ là lời “hiệu triệu” mà còn là lời tự phê rất nghiêm khắc vì chính NGK “đã khờ khạo nghĩ rằng mình có thể tự giải quyết các vấn đề cá nhân của mình bằng những giải pháp cá nhân như … bỏ nước ra đi” (1).

Phải nói NGK là người dũng cảm và chân thành. Tuy nhiên, tai vạ thường đến với ông chỉ vì ông chủ trương:

“Quan niệm của tôi là không nhắc lại những gì mình nghĩ là đa số đã đồng ý để chỉ tập trung thảo luận về những gì mà nhiều người chưa đồng ý và nhất là những gì mà đa số không chấp nhận. Tôi nghĩ nên cố gắng đề nói ra những điều mới, và nếu trong mười điều mới nói ra có tới chín điều sai và chỉ một điều đúng thì cũng còn có ích hơn là nói mười điều đúng cả mười nhưng đều là những điều đã biết. Khi không chấp nhận một ý kiến, người ta hay cho rằng ý kiến đó là sai, là dở. Nhiều độc giả sẽ thấy nhiều điều nói ra trong những trang sau là sai và đánh giá tác giả là dở. Tôi chấp nhận sự kiện đó. Tôi cho rằng nói ra những điều mình nghĩ là đúng dù biết rằng sẽ có nhiều người cho là sai và đánh giá thấp mình là một thái độ khiêm tốn. Đó là cách khiêm tốn của tôi ” (1).

Có lẽ thần tượng của NGK là Socrates. Theo truyền thuyết, Socrates đã tuyên bố khi phiên tòa Athens kết thúc rằng: “Bây giờ chúng ta chia tay, quí vị để tiếp tục sống còn tôi để chết. Ai đúng chỉ có Trời biết, nhưng một cuộc đời không suy luận là một cuộc đời không đáng sống”.

Dường như NGK có ý thức phấn đấu làm một trí thức kiểu như thế, và thực tế ông đã là một trí thức tên tuổi, theo cái định nghĩa của chính ông:

“Tóm lại nếu phải định nghĩa người trí thức thì ta có thể nói: trí thức là những người do được đào tạo hay tự học đã đạt tới một trình độ hiểu biết và lý luận trên trung bình, quan tâm tới những vấn đề chính trị và xã hội, suy nghĩ một cách lương thiện, biết tự đặt cho mình những câu hỏi và tìm câu trả lời của mình cho những câu hỏi đó và sẵn sàng thách thức mọi thế lực để bảo vệ quan điểm của mình. Người trí thức phải suy nghĩ một cách độc lập và do đó không thể chấp nhân một sự chỉ đạo tư tưởng nào cả” (6).

Cho nên tôi đồng ý với nhà văn Nhật Tuấn khi ông đánh giá:

“Nhưng nhìn chung, tác phẩm Tổ Quốc Ăn Năn đã đưa ra nhiều cách nhìn táo bạo và đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ. Có những phát hiện của ông, có thể mang tác dụng uốn nắn được cách nhìn, cách suy nghĩ, cách hành xử của một số người. Nhưng cũng không thiếu những điều sẽ làm cho người đọc phẫn nộ. Bởi vì ông đã đi quá đà khi đưa ra nhiều kết luận liều lĩnh dựa trên những tiền đề chưa đủ tầm vóc để có sự thuyết phục” (3).

Tôi ngạc nhiên khi thấy NGK dám bác bỏ một nhận định đã thành chính thống rằng Nhật Bản đã vượt lên trên Phương Đông được là nhờ Minh Trị Thiên hoàng, và đã phải ngẫm nghĩ khi ông suy luận:

Xã hội Nhật do các lãnh chúa thống trị dựa trên giai cấp hiệp sĩ. Các lãnh chúa và các hiệp sĩ cực kỳ kiêu căng không thèm hòa trộn với dân chúng mà để mặc quần chúng tự tổ chức lấy cuộc sống của mình, miễn là nộp đủ thuế. Trong tình trạng ấy, quần chúng Nhật tuy ở sát nhưng thực ra lại sống rất xa giai cấp thống trị. Họ không thể tổ chức thành chính quyền nếu không muốn lãnh búa rìu và họ phải tìm cách sinh sống với nhau trong đồng thuận để tránh những can thiệp của bọn hiệp sĩ. Một cách tiệm tiến và thầm lặng, một sinh hoạt tự do đã hình thành giữa quần chúng với nhau, dưới sự giám sát từ xa của các lãnh chúa. Đó là lý do khiến xã hội Nhật đã phát triển, rồi chính sự phát triển này đã tạo ra áp lực buộc giới cầm quyền Nhật nhượng bộ dần dần” (4).

Tôi thường tâm niệm cái điều nhiều người đến nay vẫn tâm niệm rằng: Chủ nghĩa Marx ít ra cũng còn được cái lõi Biện chứng pháp, nhưng NGK thì xổ toẹt:

“Tuy không định nghĩa một cách chính xác thế nào là một tiền đề, một phản đề và một tổng hợp nhưng Hegel còn ý thức được sự mơ hồ của mình và biết dừng lại ở chỗ chỉ sử dụng biện chứng để giải thích lịch sử. Marx đã liều lĩnh hơn, coi vai trò của biện chứng không phải chỉ là để giải thích mà còn là để thay đổi lịch sử, nghĩa là để hành động” (5).

Tôi không đủ trình độ phán định khi nghe ông lên án:

“Điều thực sự mới của Marx so với Hegel là về mặt đạo đức, Hegel tuy không bàn tới đạo đức nhưng cũng không phủ nhận các giá trị đạo đức. Khi Hegel nói rằng kết quả của mỗi giai đoạn biện chứng đều là một tình trạng hoàn chỉnh hơn trước, khái niệm “hoàn chỉnh” còn có một ý nghĩa bởi vì các giá trị đạo đức vẫn còn đó để có thể được sử dụng như những tiêu chuẩn đánh giá, Marx trái lại phủ nhận hoàn toàn các giá trị đạo đức như là sản phẩm của giai cấp thống trị; như vậy khi Marx nói rằng mỗi kết thúc của một giai đoạn đấu tranh giai cấp – từ xã hội cộng sản nguyên thủy đến xã hội cộng sản qua các chế độ nô lệ, quân chủ, phong kiến, tư bản – đều là những tiến bộ, khái niệm “tiến bộ“ này hoàn toàn mơ hồ vì không có những tiêu chuẩn để định nghĩa.

Đó là một sự tùy tiện tuyệt đối, với hậu quả là kẻ có bạo lực có thể làm tất cả. Mọi đảng cộng sản vì thế đều có bản chất khủng bố, đó là lý do chính tạo ra sức mạnh của chúng. Cũng nên lưu ý là sự phủ nhận các giá trị đạo đức của Marx đã đạt tới mức độ lạnh lùng dễ sợ. Marx không coi việc giai cấp thống trị bóc lột giai cấp bị trị là một tội ác, trái lại ông coi nó là một lẽ tự nhiên, cũng tự nhiên như việc giai cấp bị trị phải vùng dậy tiêu diệt giai cấp thống trị (5).

“Triết lý Mác-Lênin quan trọng ở chỗ nó tạo ra cả một văn hoá và một tâm lý cộng sản. Biện chứng duy vật là một lối lý luận rất sơ đẳng. Nó tạo ra ảo tưởng rằng ngay cả những người vô học cũng có thể lý luận trên tất cả mọi vấn đề, và do đó đảm nhiệm những vai trò lãnh đạo, nếu biết biện chứng duy vật. Từ đó hình thành một tâm lý võ biền coi thường kiến thức. Chính Lenin cũng đã có tâm lý này” (5)

Tôi ngỡ ngàng để thích thú trước những phát hiện nhờ sức tổng hợp khái quát cao:

“Trong suốt lịch sử của phong trào cộng sản thế giới chưa hề có một đảng cộng sản nào thắng một cuộc bầu cử lương thiện nào. Cũng chưa hề có một đảng cộng sản nào đem lại phồn vinh cho một quốc gia nào. Không hề có một phát minh hay sáng tác thực sự đáng kể nào trong các chế độ cộng sản, một vài tác phẩm văn học lớn đều là của những người đối lập (7).

“Ở mọi nơi mà nó đã được thử nghiệm chủ nghĩa cộng sản đã chỉ là nghèo khổ, khủng bố và tội ác. … Chế độ cộng sản khác với mọi chế độ bạo ngược đã có trong lịch sử thế giới, nó là chế độ duy nhất bách hại và tàn sát nhân dân của chính mình. Tuyệt đại đa số nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản là những người dân của các chế độ cộng sản (7).

Và đây nữa:

“Chế độ này chắc chắn sẽ bị đào thải. Không phải chỉ vì đàn áp và bóc lột tự nhiên làm nảy sinh ra chống đối. Có những chế độ bạo ngược kéo dài rất lâu. Nó sẽ sụp đổ nhanh chóng hơn vì một lý do khác. Đó là vì không một đoàn thể nào có thể tồn tại nếu không có một mục tiêu chung hoặc những giá trị đạo đức chung. Đảng cộng sản không có cả hai. Nó sẽ nhanh chóng trở thành một đấu trường hoang dại. Chính những đảng viên cộng sản sẽ xâu xé nhau” (5).
Và đây nữa:

“Coi nhẹ các giá trị dân chủ và nhân quyền còn là một sai lầm lớn nếu hoà bình là điều cần được trân quý nhất. Trong lịch sử thế giới các cuộc chiến đã chỉ xảy ra hoặc giữa các nước độc tài với nhau hoặc giữa một nước độc tài và một nước dân chủ. Chưa có trường hợp hai nước dân chủ chiến tranh với nhau. Dân chủ và nhân quyền là nền tảng của hoà bình (8).

Song, đôi khi tôi cũng đã sửng sốt trước sự hồ đồ và tự mâu thuẫn của NGK:

“Phải nhìn nhận rằng trên thế giới này khó tìm ra một dân tộc bạc nhược như vậy. Mà có phải con người Việt Nam bạc nhược đâu. Cũng những con người ấy khi được tổ chức và chỉ huy đã đánh bại quân Tống, quân Nguyên, quân Thanh, đã từng chiến thắng vẻ vang tại Điện Biên Phủ” (4).

Không thể không bảo NGK là thiếu chín chắn khi dám tuyên dương:

“Tôi biết hai ký giả Pháp khá nổi tiếng. Họ không phải là những nhà văn nhà báo lớn nhất của nước Pháp, nhưng trình độ nhận thức của họ cao hơn hầu hết các chính trị gia Việt Nam. Đặc điểm chung của họ là rất tha thiết đối với đất nước và con người Việt Nam, do đó họ hiểu biết đất nước Việt Nam hơn hẳn các chuyên gia về Việt Nam khác” (4).

Một trong hai ký giả đó tên là Michel Tauriac, đã nói rất lếu láo:

“Chế độ cộng sản Việt Nam chẳng mạnh gì, vấn đề là người Việt Nam không có ý chí tranh đấu gì cả, người ta có cảm tưởng đó là một đàn cừu” (4).

Gần đây NGK còn phóng tay mạc mặt cho chủ nghĩa cá nhân:

“Chủ nghĩa cá nhân coi mục đích của tổ chức xã hội, trong đó quan trọng nhất là chính quyền, là tạo điều kiện để mỗi cá nhân xây dựng hạnh phúc của mình. Nói cách khác, cá nhân là cứu cánh, mọi tổ chức trong xã hội kể cả nhà nước chỉ là phương tiện … Bản tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc 1948 chỉ qui định những bổn phận của nhà nước đối với cá nhân chứ không qui định một bổn phận nào của cá nhân đối với nhà nước. Tài liệu này mặc nhiên coi cá nhân là giá trị cao nhất; tổ chức xã hội, trong đó có nhà nước, có mục đích sau cùng là phục vụ cá nhân; nó có thể được coi như là bản tuyên cáo của chủ nghĩa cá nhân và đem lại cho chủ nghĩa cá nhân một nội dung cụ thể ” (15)

Chủ nghĩa cá nhân biểu hiện tư tưởng triết học Max Stirner và Nietzche. Nó đã góp phần giải phóng con người khỏi những xiềng xích của chủ nghĩa phong kiến và của giáo hội cổ đại. Hết cái sứ mệnh giai đoạn lịch sử, cá nhân chủ nghĩa hoặc dẫn đến vô chính phủ, hoặc dẫn đến độc tài.

Ở đây, khi NGK nói: “Cá nhân phải được hiểu là con người được nhìn một cách độc lập với tư cách thành viên của một tập thể nào đó. Con người này vừa trừu tượng vừa phổ cập, vì không là riêng ai cả nhưng lại hiện diện trong mọi người, nó được coi là giá trị cao nhất. Mỗi cá nhân là một thể hiện cụ thể của con người này …” (15) thì đối tượng nói đến không phải là cá nhân cụ thể từng người mà là con người chỉ mang đặc tính bất biến của con người mà ta phải viết hoa: Con Người. Con Người này là sự trừu tượng hóa con người, siêu thoát khỏi mọi ràng buộc của kết cấu chính trị, xã hội như: mầu da, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch …

Tuyên ngôn Nhân quyền đặt vấn đề đối với “Con Người” (chứ không phải cá nhân), nhà nước có trách nhiệm với “con người” trong quốc gia mình (chứ không phải với từng cá nhân)

Song, vì Tuyên ngôn Nhân quyền đặt vấn đề đối với “Con Người” nên các nhà nước đã ký vào Tuyên ngôn không thể ngụy biện rằng họ chỉ cần ban phát quyền “con người”.

(Năm 1999 khi thấy tôi công khai xiển dương “Nhân quyền cao hơn chủ quyền”, ông Đỗ Mười – tổng bí thư ĐCSVN lúc ấy – đã ra lệnh tống tù tôi !)

Như tất cả những ai vượt thoát được khỏi mụ mị lú lẫn do bị tuyên truyền nhồi sọ quá lâu, NGK chua xót ngẫm lại nguồn cơn những cuộc chiến tranh đã xẩy ra trên đất nước Việt Nam suốt thế kỷ qua:

“Mọi người đều biết nó không cần thiết và hơn nữa còn là một thảm kịch cho đất nước nhưng nó đã diễn ra vì độc lập không phải là mục tiêu của đảng cộng sản, lực lượng áp đảo lúc đó. Độc lập chỉ là một biện minh, mục tiêu thực sự của đảng cộng sản là áp đặt chế độ cộng sản. Mục tiêu này không chấp nhận được cho nhiều người Việt Nam và cũng là một thách thức đối với khối dân chủ tư bản, do đó chiến tranh là điều không tránh khỏi. Ngày nay, khi chủ nghĩa cộng sản đã hiện nguyên hình như một sai lầm đẫm máu và hơn thế nữa một chủ nghĩa tội ác về bản chất, cuộc chiến này phải bị lên án, ít nhất như một sự cuồng dại … Họ đã hành động vì chủ nghĩa cộng sản, độc lập dân tộc và quyền lợi đất nước không phải là động cơ của họ” (9).

Cuộc chiến 1954 – 1975, mà đảng cộng sản gọi là cuộc chiến tranh chống Mỹ lại càng vô lý hơn. Đứng trên quan điểm dân tộc, nó là một sự ngu xuẩn tuyệt đối. Mỹ hoàn toàn không phải là một đế quốc thực dân, trái lại còn là một cường quốc chống chủ nghĩa thực dân. Từ ngày lập quốc họ chưa hề đánh chiếm để sáp nhập hay thống trị một nước nào. Mỹ là một cường quốc không gian, hàng hải và thương mại cần thị trường chứ không cần thuộc địa. Cho tới nay họ vẫn từ chối sáp nhập Porto Rico dù không ai, kể cả người Porto Rico, chống lại; họ trả độc lập cho Philippines sau khi mua lại quần đảo này từ Espana. Sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam đáng lẽ đã phải được coi là một may mắn lớn, nó đem lại cho chúng ta sự hợp tác tận tình của cường quốc mạnh nhất, giầu nhất, tân tiến nhất và sáng tạo nhất thế giới mà không hề có nguy cơ mất nước. Cuộc chiến này đã chỉ xảy ra vì quyền lợi dân tộc không phải là ưu tư của đảng cộng sản. Ưu tư của họ là áp đặt chế độ cộng sản trên cả nước” (9).

Tuy nhiên, khác với những ai hận thù mù quáng, giận cá chém thớt, căm ghét tất cả những người từng ở bên kia chiến tuyến, dù là đồng bào mình, NGK thật thấu tình, thật bao dung:

“Phải nói thật rõ: đại bộ phận những người đã chiến đấu dưới lá cờ đỏ sao vàng trong cuộc chiến này đã chiến đấu vì lòng yêu nước, họ phải được tôn vinh; những người phải bị lên án là những người đã quyết định cuộc chiến này” (9)

“Chúng ta vẫn không được quên là đã có hàng trăm nghìn người lương thiện, yêu nước và dũng cảm đã hy sinh dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ trong niềm tin rằng mình đang chiến đấu cho một tương lai Việt Nam tự do và dân chủ. Cờ vàng vì vậy phải được tôn trọng, không phải vì những người đã tạo ra nó, hay vì chế độ Việt Nam Cộng Hòa, mà vì những người đã hy sinh cho đất nước. (Một lý luận tương tự cũng phải được áp dụng cho lá cờ đỏ sao vàng của chế độ cộng sản Việt Nam)” (10).

“Hãy trả lại cho lá cờ vàng ba sọc đỏ chỗ đứng đúng đắn của nó. Nó có thể có chỗ đứng trong gia đình để ghi nhớ một quãng đời. Đối với nhiều người, trong đó có kẻ viết bài này, nó là kỷ vật của một ước vọng ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản và xây dựng một nước Việt Nam có tự do và dân chủ, có chỗ đứng và tiếng nói ngang nhau cho mọi người và được quản trị một cách hợp lý. Giấc mơ dù không thành nhưng vẫn đáng tự hào. Chỗ đứng của cờ vàng là chỗ đứng của một kỷ niệm của một giai đoạn lịch sử đau buồn vừa phải quên vừa phải nhớ. Nhớ đến những người đã hy sinh vì đất nước, nhớ đến những nạn nhân của cuộc chiến, nhớ để lịch sử đừng lặp lại. Và quên đi những thù hận đã tàn phá đất nước và còn có thể giam hãm chúng ta trong chia rẽ và bất lực” (10).

Ông cũng tỏ ra thật khách quan, thật công tâm, không chỉ thấu tình mà còn đạt lý:

“Chúng ta có thể, và phải, tôn trọng cờ vàng vì những người đã hy sinh dưới lá cờ này, nhưng không phải vì thế mà gán cho nó một ý nghĩa mà trong suốt thời gian tồn tại nó chưa bao giờ có, nghĩa là dùng nó làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì dân chủ. Nếu coi cờ vàng là tiêu biểu cho dân chủ thì phải hài lòng với một thứ dân chủ giả dối và bệnh hoạn. Cờ vàng càng không thể dùng làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh cho dân chủ vì một lý do khác: cuộc đấu tranh nào cũng đòi hỏi ý chí, quyết tâm, lòng tự hào và lòng tin vào thắng lợi, do đó không thể lấy lại lá cờ của một chế độ bạc nhược đã thất bại và đầu hàng” (10).

“Vả lại, trên thực tế, cờ vàng cũng chưa bao giờ là một quốc kỳ Việt Nam mà chỉ là cờ của một trong hai phe trong một cuộc nội chiến, cũng tương tự như cờ đỏ sao vàng trước năm 1975, nhưng với một sự chính đáng kém hẳn (cờ đỏ sao vàng vào lúc ra đời đã được hầu hết mọi thành phần dân tộc nhìn nhận)” (10).

Không chỉ tỏ ra sáng suốt khi đứng nhìn hai đại khối dân tộc đã từng chia thành địch thủ mà ông còn rất thấu tình khi nhìn vào trong lòng đảng Cộng sản Việt Nam:

“Mà đảng cộng sản cũng không phải là của hai triệu đảng viên cộng sản. Những đảng viên, ngay cả các đảng viên cao cấp, cũng không tự do hơn người khác, có khi còn bị trói buộc hơn, càng cao cấp lại càng phải phục tùng đảng hơn trong lời nói và hành động. Đảng là một cái gì đó rất vô hình vì không là ai cả, nhưng lại rất cụ thể như công an, tòa án và nhà tù” (4).

Đây chính là cơ sở hình thành tư tưởng Hòa Giải Hòa Hợp Dân tộc rất đáng trân trọng của Nguyễn Gia Kiểng.

Tôi tìm đến ông để khai sinh Tập san Tổ Quốc có phần hướng theo tư tưởng đó.
Trong đấu tranh vì sự nghiệp dân chủ hóa chúng tôi cùng có mối tâm giao ở chủ trương rằng kích động quần chúng nổi dậy phải hết sức thận trọng, để bảo vệ quần chúng, đặc biệt để tránh nguy cơ hy sinh oan uổng những phần tử tiên phong đầy nhiệt huyết:
“Kêu gọi quần chúng đứng dậy khi chưa có tổ chức sẽ không được hưởng ứng, như một vài lời kêu gọi vừa chứng tỏ, mà còn có tác dụng ngược là làm mất lòng tin của quần chúng vào sự nghiêm chỉnh của phong trào dân chủ, chưa kể là còn có nguy cơ hy sinh oan uổng những phần tử nhiệt thành quí hiếm” (11).

Chủ trương “cao biền dậy non” khuyến khích anh em trẻ trống dong cờ mở, công khai xưng hùng xưng bá khi lực lượng quá mỏng, thậm chí chưa có gì, là sự dại dột tội lỗi.
Đấu tranh lý luận-tư tưởng dù hết sức khó khăn, phức tạp vẫn phải làm trước một bước dù vô cùng gian khó, dù phải kiên trì đến bao lâu. Dù bị hiềm khích dè bỉu là “chính trị sa lông” thì cũng phải quyết làm vì chính đấy là sứ mệnh thiêng liêng.
Để giành thắng lợi dứt khoát về mặt tư tưởng và lý luận Nguyễn Gia Kiểng chủ trương:

“Chúng ta phải đập tan lập luận xuyên tạc cho rằng dân chủ sẽ đưa tới hỗn loạn. Chúng ta sẽ chứng minh rằng dân chủ là điều kiện căn bản để bảo đảm không có hỗn loạn, là phương thức sinh hoạt cho phép xã hội tiến hóa và đổi mới không ngừng trong trật tự.

Chúng ta phải đập tan lập luận cho rằng muốn phát triển cần có kỷ luật và muốn có kỷ luật cần hy sinh dân chủ, giới hạn tự do và nhân quyền.

Chúng ta phải đập tan lập luận cho rằng xã hội phương Đông khác với xã hội phương Tây, và do đó không thể chấp nhận những giá trị của phương Tây như tự do cá nhân, dân chủ và nhân quyền. Chúng ta cần phơi bày sự sai trái của lập luận cho rằng các giá trị văn hóa châu Á có lợi cho phát triển hơn các giá trị văn hóa phương Tây.
Chúng ta cũng cần phải cực lực bác bỏ một thứ “chủ nghĩa kinh tế” mà một số chính quyền muốn che dấu quyền lực độc tài, trong đó có Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, đang lấy làm lý cớ để phủ nhận hoặc giới hạn tự do, dân chủ và nhân quyền.

Một cố gắng khác, rất quan trọng, là chứng minh cho những đảng viên cộng sản và cán bộ của nhà nước còn đang phân vân và ngờ vực, rằng họ hoàn toàn không có lý do chính đáng nào để lo ngại sự cáo chung của chế độ độc tài đảng trị cả. Trái lại họ còn có mọi lý do để vui mừng trước những thắng lợi của dân chủ. Danh dự, nhân phẩm và những quyền lợi hợp pháp của họ sẽ được tôn trọng” (12).

Tôi gọi công cuộc này là đấu tranh cải tạo nhận thức xã hội. Đấu tranh tư tưởng-lý luận tốt để cải tạo nhận thức xã hội thật triệt để (trong quàn chúng, trong đảng viên, trong BCH TƯ, trong Bộ Chính trị …) thì sẽ có diễn biến hòa bình êm đẹp, chẳng những không cần đổ máu mà cũng không cần quần chúng nổi dậy.

Nếu vì nhà cầm quyền quá lì lợm ngoan cố, không thể không nổi dậy thì cũng phải bất thình lình tổng nổi dậy mới mong giành thắng lợi. Nổi dậy manh mún, lẻ tẻ chỉ tổ làm mồi cho chính quyền đàn áp, như đã thấy, dễ như trở bàn tay.

Hô hào chống tham nhũng nhưng chỉ hướng quần chúng trút căm phẫn lên đầu mấy ông cán bộ xã, cán bộ huyện hay đến cả trung ương … thì chỉ có biểu tình cỡ trăm, cỡ nghìn người là cùng, nhưng nếu làm cho quần chúng hiểu chính là đường lối sai lầm của Đảng đã và đang mở đường và bao che cho tham nhũng thì quần chúng sẽ hiểu: muốn chống tham nhũng phải chống Đảng.

Cho rằng đất nước tụt hậu, đời sống đói nghèo, xã hội đầy tệ đoan … vì đất nước trải qua quá nhiều chiến tranh do Đảng có công giành độc lập, thống nhất nên dẫu thế nào đi nữa cũng phải đời đời nhớ ơn Đảng. Nhưng, nếu làm cho quần chúng hiểu đúng bản chất phi lý, vô nghĩa của các cuộc chiến đó thì quần chúng ít ra cũng đồng lòng khẳng định phải có đảng khác có đường lối đúng đắn hơn.
V v …

Công tác Tư tưởng-Văn hóa phải làm sao đủ tốt để đạt được mộng ước của Nguyễn Gia Kiểng, và cúng là của chúng tôi:

“Mộng ước của mọi người Việt Nam hôm nay là đổi hướng đi của lịch sử và mở ra một kỷ nguyên của tiến bộ và hạnh phúc. Đó là một cuộc đổi đời rất lớn. Nhưng có cuộc đổi đời nào không đòi hỏi một thay đổi lớn về tâm lý? Nếu biết nhỏ lệ xót thương cho số phận của đất nước ta, biết dứt khoát tiêu diệt cái bản năng chiến tranh trong con người của mỗi chúng ta, biết lấy đối thoại, tương kính, tương nhượng làm căn bản dựng nước mới là chúng ta đã rút được bài học lịch sử quí giá nhất và đã vượt được trở ngại kinh khủng nhất” (13).

Và chúng ta tâm niệm rằng:
“Hạnh phúc của một dân tộc không phải chỉ là lợi tức trung bình trên mỗi đầu người, càng không phải là tỷ lệ tăng trưởng 5 hay 10% mỗi năm. Còn những điều cao hơn, và cao hơn nhiều. Đó là phẩm giá, là quyền được nói và làm điều mình muốn, là quyền được sống mà không sợ bị bắt giam vô cớ, được phát triển khả năng của mình mà không cần đút lót, và được tham dự vào những quyết định quan trọng cho cộng đồng” (4).
Với tất cả những ưu, khuyết, nhược điểm có trong Nguyễn Gia Kiểng, tôi vẫn nghĩ như học giả Trương Nhân Tuấn:

“Riêng tôi nhận thấy ông Kiểng là một người yêu nước nồng nàn. Ông đã cống hiến rất nhiều thời gian trong đời mình, cống hiến rất nhiều trí tuệ của mình cho đất nước. Tư tưởng của ông đã được rất nhiều thành phần người Việt đón nhận. Tổ chức do ông sáng lập (Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên) là một tổ chức có tầm vóc, kỳ cựu, có kinh nghiệm đấu tranh, tập hợp nhiều người có tư cách và tận tụy với đất nước. Tổ chức của ông Kiểng cũng là một tổ chức trong sáng, chưa hề gạt gẫm một ai, chưa hề quyên góp, lem nhem tiền bạc với người nào” (14).

Tiểu sử Nguyễn Gia Kiểng tìm được trên Google như sau:

“Nguyễn Gia Kiểng sinh ngày 8 -11-1942 tại Thái Bình trong một gia đình nông dân, cha và các chú bác đều là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, một đảng chống Pháp giành độc lập đã thất bại trong cuộc tổng khởi nghĩa 1930 với hậu quả là các lãnh tụ chính bị chế độ thuộc địa Pháp hành quyết. Sau Cách Mạng tháng 8 đảng CSVN mở đợt khủng bố tiêu diệt VNQDĐ, hai người chú bị thủ tiêu, cha bỏ trốn. …

Trong thời gian tại Pháp Nguyễn Gia Kiểng làm chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris năm 1965 và chủ tịch Liên Minh Sinh Viên và Công Nhân Việt Nam tại Châu Âu năm 1968. Ông là người lãnh đạo sinh viên và công nhân Việt Nam có ảnh hưởng lớn nhất tại Pháp cho đến khi về nước. Về nước ông làm chuyên viên ngân hàng và dạy môn kinh tế chính trị tại đại học Minh Đức Sài Gòn rồi làm phụ tá bộ trưởng kinh tế với hàm thứ trưởng cho đến ngày 30-4-1975.

… Nguyễn Gia Kiểng viết rất đều trên nguyệt san Thông Luận và trang Web Thông Luận của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên từ hơn hai mươi năm qua chung quanh các chủ đề triết lý chính trị, kinh tế, vận động dân chủ, và đôi khi lịch sử. Nguyễn Gia Kiểng đặc biệt chú trọng hô hào cho văn hóa tổ chức, coi xã hội dân sự với những tổ chức không thuộc chính quyền như một điều kiên bắt buộc cho tiến trình dân chủ hóa. Ông là tác giả cuốn sách chính trị bằng tiếng Việt được đọc nhiều nhất trong những thập niên gần đây: Tổ Quốc Ăn Năn (đã được Nguyễn Ngọc Phách dịch sang tiếng Anh: Whence… Whither… Viêtnam?). Dù luôn luôn tự khẳng định là một người hành động, Nguyễn Gia Kiểng là một trong những nhà lý luận chính trị có ảnh hưởng nhất Việt Nam hiện nay và đã đem lại cho tiếng Việt nhiều từ ngữ chính trị đã trở thành quen thuộc. Tổ chức mà ông lãnh đaọ, Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, được coi là tiêu biểu cho khuynh hướng hoà giải dân tộc.

Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH” 

(Tác giả gửi đăng)

————————————————-

Ghi chú:
1- Nguyễn Gia Kiểng – Tổ Quốc ăn năn
2- Bình Ngô Đại cáo
3- Nhật Tuấn – Vài nhận xét về cuốn “Tổ Quốc ăn năn” của Nguyễn Gia Kiểng
4- Nguyễn Gia Kiểng – Đi tìm một mô thức phát triển đất nước
5- Nguyễn Gia Kiểng – Chúng ta đang ở giai đoạn hậu cộng sản?
6- Nguyễn Gia Kiểng – Trí thức là một khái niệm chính trị
7- Nguyễn Gia Kiểng – 1989, thế giới và Việt Nam
8- Nguyễn Gia Kiểng – Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama
9- Nguyễn Gia Kiểng – 35 năm sau ngày 30-4-1975: Vài khẳng định cần thiết
10- Nguyễn Gia Kiểng – Tình cảm và chỗ đứng nào cho cờ vàng?
11- Nguyễn Gia Kiểng – Thân chào và cảm tạ
12- Dự án Chính trị Dân chủ Đa nguyên
13- Nguyễn Gia Kiểng – Mở mắt và nhỏ lệ
14- Trương Nhân Tuấn – Về những “Xét lại” của Nguyễn Gia Kiểng
15- Nguyễn Gia Kiểng – Vài ghi chú về chủ nghĩa cá nhân

 

 

 

53 Phản hồi cho “Ăn năn vì Tổ Quốc”

  1. Quang Minh says:

    Ông NGK đã từng sống ở miền Nam và lại là người có chức quyền mà lại viết 1 cuốn sách như thế, Không thể nói ông ngây thơ, lầm lạc mà chỉ có thể nói tâm hồn ông đang xiêng xẹo, ngôn từ lẻo lự, nói năng bất nhứt để đánh hỏa mù cho cái sự ông bán mình cho QUỸ ĐỎ mà thôi ! Tôi hết sức thất vọng ! Trước năm 1975 cũng có 1 nhóm gọi là LLHGDT đánh trống khua mõ lừng vang, thử hỏi họ có hòa giải gì được chưa hay là trưa ngày 30/4/1975 phải chính thức ra hàng 1 cách nhục nhã ! Lúc đó vị trưởng ” Hòa giải ” còn mở miệng nói rằng ” bàn giao” thì bị 1 tên sĩ quan GP tầm thường buông lời xấc xược nhục mạ ! Thế mà đến nay lại 1 ông quan VNCH NGK lại nói đến hòa giải !! Vậy ông hòa với ai ? CSVN nó chuẩn bị ” bàn giao” đất tổ cho TQ, vậy ông định HGHH với TQ chắc ??? Ông nên xem lại cái vị TT trương bảng hiệu HGHHDT ra hàng CS nhục nhã như thế nào, thì lý nào ông lại được nó ban ” ơn huệ” ! Gìa rồi, ông nên giử khí tiết !! Vậy mà lại có 1 ông có học vị tiến sĩ cũng giả đò lãng tai chứ !

  2. Vũ duy Giang says:

    “Tổ quốc trong máu anh,thắm tận nguồn
    Tổ quốc chúng gào ĐẦU LƯỠI
    …Hãy cảnh giác!
    Bọn mặt bự,DẺO MỒM
    Thời nào chẳng NHÂN DANH Tổ quốc…
    …Hãy cảnh giác
    Lòng ta yêu Tổ Quốc vô cùng
    Chúng luôn MOI làm bẫy LỪA ta”

    (Thơ Bùi Minh Quốc)

    Chúng là CSVN,và cũng như NGK đã bắt”Tổ quốc ăn năn” để tự quảng cáo,vì lâu lâu,sợ bị bỏ quên, không ai để ý nữa! Cũng như bây giờ mượn NT.Giang(cùng nhóm báo free”Tổ Quốc” !)viết bài để
    “thanh minh,thanh nga”cho NGK,và nhân dịp,ca tụng luôn NGK,khác nào Trần dân Tiên(=HCM)ca tụng HCM!

    Miễn phê bình chi tiết bài ca tụng”kinh”này cho NGK của NTG, nhưng nếu NGK đã bắt đầu sự nghiệp “chính khách” bằng chức CT.Tổng hội SVVN 1965 tại Paris,thì có biết rằng TH này đã bị nhiểm vi trùng VC ngay từ Chủ Tịch đầu tiên 1960,vốn là một sinh viên sư phạm,được học bổng tu nghiệp ở Paris,rất thủ đọan khi gửi kiến nghị(ghi tên cả những SVVN giữ trách nhiệm ở các cư xá, mà không hỏi ý kiến của họ!) hoan hô chính sách”Ấp chiến lược”của TT.NĐ.Diệm!Nhưng sau đó lại hoan hô cuộc cách”mạng”(của 2 anh em TT.Diệm) tháng 11 do Mỹ và các tướng tá chủ mưu,để xin sẵn sàng về phục vu! Cuối cùng thì ông CT”đầu tiên”này đã ngả theo MTGPMN!

    Như vậy chức CT.đầu tiên này của NGK, cũng đã trở thành chiến công đưa ông về làm “Công(cầm!)cán ủy viên”(chargé de mission) cho 1 ông bộ trưởng,chớ không như mà NTG viết “phong”cho NGK làm:”phụ tá BT.KK,và hàm thứ trưởng cho dến ngày 30.04.1975″!

    Cũng miễn bàn về”sự nghiệp”chính khách NGK sau đấy! Nhưng không ai được phép bắt”Tổ Quốc ăn năn”, cũng như CSVN bán đất,nhương biển hết cho TQ,thì:

    “Nếu Tổ Quốc không còn Biển
    Dân tộc tôi sẽ chết đuối trên bờ
    Chết đuối trên Cao Nguyên
    Chết đuối trong bùn BÔ XÍT

    Mất Hoàng Sa,Trường Sa
    Rồng Việt Nam không còn chỗ núp
    Không có lối ra
    Tổ quốc,như bị GIAM trong NGỤC”

    (Thơ Trần Mạnh Hảo)

    • Lâm Vũ says:

      Tôi xin có ý kiến nhỏ. Tôi không biết ông chủ tịch đầu tiên của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam, Paris, là ai nhưng cho dù ông này sau này có về VN rồi đi theo Mặt Trận GPMN đi nữa, không có nghĩa là Tổng Hội ở Pháp vì ông ta thành… Vi Xi!

      Theo những gì tôi biết, THSV Paris vốn là “ổ” Quốc Gia (chống cộng). Điều này không thay đổi ngay cả sau ngày miền Nam thất thủ. Bằng chứng, anh Trần Văn Bá – vâng người hùng TVB – đã từ là chủ tịch của THSV Paris, từ 1973 đến 1980 (theo wikipedia), và nhiều người khác, như nhạc sĩ Phan Văn Hưng cũng từng là thành viên của Tổng Hội. (Nghe bản Hai Mươi Năm, của PVH, do chính tác giả hát http://www.youtube.com/watch?v=yDYIPnPn8s0)

      • Vũ duy Giang says:

        Nhưng trong THSV cũng có nhạc sĩ Phạm trọng Cầu sáng tác ra bài”Sinh viên hải ngoại hành khúc”để dượt cho ban hợp ca SV.Ông này bị cụt 1 chân khi trẻ đi làm liên lạc viên cho VM,và bà Mẹ nổi tiếng theo MTGPMN,đã từng”vào tù,ra khám”Chí Hòa(trong tù,bà này vẫn tuyên truyền cho CS)thời VNCH,và đã gửi đa số các con trai,gái ra Bắc Việt tập kết từ 1954,rồi dần dần trở lại hoạt động ở miền nam từ những năm 1960,và có người cũng bị bắt giam ở khám Chí Hòa!

        Đúng là THVN đã được thành lập từ đầu những năm 1960(khi TT.Diệm cho SV đi du học lại ở Pháp),với sự khuyến khích của GS.Meillon(dậy trường”Langues Orientales)biết nói tiếng VN,quen biết ông Ngô đình Nhu,nên được chỉ định”hỗ trợ” tổ chức này lúc đầu(ở cư xa”Maison du VN”,phố Saint Jacques,khu La Tinh,Paris),với mục đích chống CS,và tránh cho SVVN(có nhiều SV được học bổng của Pháp)theo MTGPMN.Nhưng VC cũng âm thầm”năm vùng”trong THSV, cũng như trong một số những Hội đoàn,đảng phái chống VC ở nước ngoài hiện nay (hay trong chính quyền VNCH thời xưa).

        Tuy vây,THSV”quốc gia”này vẫn cố gắng hoạt động sau 1975 cho đến bây giờ, và cũng có những cựu SV”anh hùng”(desesperatos)như TVB trở về VN theo nhóm giáo phái chống VC, thì bị bắt xử tử hình.Còn CT.NG.Kiểng thì khôn hơn,chỉ làm”cầm cán ủy viên” thôi!

      • Lâm Vũ says:

        Với một gia đình thành tích CS “nổi tiếng” như anh VHG nói, mà Phạm Trọng Cầu vẫn được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn, được chính quyền VNCH cho phép đi du học (năm 1962), rồi về nước dạy nhạc ở trường cũ, cho thấy là chế độ “ngụy” thật sự chủ trương hòa giải dân tộc.

        Chính quyền Quốc gia như thế, chả trách Tổng Hội SV (Quốc Gia) ở Paris cũng chủ trương bao dung, không kỳ thị một người thành tích CS như PTC. Chính nhờ tinh thần dân tộc trong sáng đó, THSV vẫn hoạt động trong tình thần chống CS cho đến ngày hôm nay, 37 năm sau ngày VNCH xụp đổ. Còn bằng chứng nào rõ rệt hơn cho tính nhân bản của miền Nam?

        TB. Theo cái nhìn của tôi, anh Trần Văn Bá về nước kháng chiến không phải vì “chủ nghĩa anh hùng”, mà chủ yếu vì tư tưởng “Không thành công, cũng thành nhân” của Nguyễn Thái Học, cũng là tinh thần “Kẻ Sĩ” của người Việt. Vì thế, theo tôi, dù đứng ở vị trí chính trị nào, người Việt đều kính trọng anh, như kính trọng Nguyễn Thái Học vậy.

        Theo những gì tôi được biết, người chỉ huy công an lùng bắt TVB, rồi đem xử tử, nay chính là người cầm đầu chính phủ CSVN! Một điều biệu tượng cho sự nghiệt ngả của lịch sử VN hiện đại.

      • D.Nhật Lệ says:

        Bác Lâm Vũ,
        Thật ra,sự bao dung của người Việt quốc gia như thế là một điểm
        vừa mạnh vừa yếu nhưng yếu lại gây hại lớn như thực tế cho thấy.
        Nói cách khác là lợi bất cập hại.Lý do là bị bọn bất lương lợi dụng
        để quật lại chúng ta mà THSV.ở Paris là trường hợp điển hình.
        Đa số bọn du học ở đây đều bị cộng sản lợi dụng để tuyên truyền
        ngay cả có nhiều kẻ gia nhập đảng cs.Pháp.NNGiao thì đi thông
        dịch tiếng Pháp cho bọn MTGPMN.ĐTiến thiên tả-thân cộng,CH Thuần thiên tả lúc đầu về sau phò cộng công khai,không giấu
        mặt như trước kia là ngươi chủ mưu Biến động miền Trung 1966.

      • Vũ duy Giang says:

        Có lẽ như LV viết:”chế độ”ngụy” thật sự chủ trương hòa giải dân tộc”,nên cũng đã trọng dụng Vũ ngọc Nhạ làm cố vấn cho Tổng thống VNCH,và cả Phạm xuân Ẩn nữa?!
        Miển bàn về chuyện LV”kính trọng TVB”như Nguyễn Thái Học(?!),nhưng đừng”suy bụng ta,ra bụng người”Việt khác!
        Và nếu đúng như LV viết:”người CA lùng bắt TVB…chính là người cầm đầu chính phủ CSVN”, thì cũng chỉ là”Được làm Vua(tập thể!),thua làm giặc” mà thôi!

      • Lâm Vũ says:

        @ D. Nhật Lệ
        Vì nếu chính phủ miền Nam đó hung hăng, ai có vẻ thiên tả hay “phản chiến” là bắt bớ tù đày, thì liệu NNGiao có khác?

        Theo tôi, NNGiao thiên tả vì hắn… ngu, chứ không phải vì phe QG… “bao dung”. Tôi nói “ngu” là có bằng chứng rõ ràng” NNG đến ngày nay, già đầu vẫn còn khinh người, nhưng lại cam tâm làm trò múa rối cho đám đầu trâu… Ba Đình. Như vậy gọi là thông minh sao được?

        @ Vũ Huy Giang
        Bạn hơi thích trò bịp đấy nhé! Tôi có viết “chê độ “ngụy”…” hay không?

        Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn là hai trong cả ngàn “gián điệp CS” tìm cách trà trộn (chính CS sau này khoe như thế) vào hàng ngũ “quốc gia”, đó là việc mọi chế độ CS nào cũng làm. Ở Đức thời còn phân chia Đông – Tây chẳng hạn, một gián điệp Đông Đức – Günter Guillaume – giả làm người Đức tị nạn CS, rồi len lỏi làm tới chứ cố vấn của thủ tướng Tây Đức, Willy Brandt, trước khi bị sở Phản Gián Đức lật tẩy… Cho thấy đó là một trong những phương cách “chiến tranh” của CS ở mọi nơi, có gì lạ?

      • Vũ duy Giang says:

        “Đi với Bụt,mặc áo cà sa
        Đi với ma,mặc áo giấy”

        Cho nên nếu chống VC,mà lại mặc áo cà sa,mà thua thì không có gì lạ?!

        Có thể so sách”chút xiu” TVB với Cao Bá Quát(nhưng”văn hay,võ tốt” hơn TVB nhiều!),là người chống”giặc nội xâm”(VC,hay Vua chúa thời CBQ),chớ không như Nguyễn Thái Học đã chống và bị”giặc ngoại xâm”Pháp bắt và giết chết.

        Còn Cao Bá Quạ khi sắp bị chém,thì vẫn khẩu khí” rằng:

        “Ba hồi trống dục,đù cha kiếp
        Một nhát gươm đưa,bỏ mẹ đời”

        Hình như sau ngày 30 tháng 4,năm 1975, TVB còn thủ”dao,búa”xuống đường phố Paris để”ăn thua”với các SVVN theo VC, Những SVVC này, như Nguyễn ngọc Giao,nhóm”Diễn đàn”(chớ Đặng Tiến vốn là nhân viên ngoại giao VNCH, chốn qua Pháp,khi hết nhiệm kỳ,bị gọi về Saigon trước 1975!)hiện vẫn sống ở Paris,có thể can đảm lên tiếng về chuyện này?

  3. Dân Chửi says:

    Có vẻ như ông Nguyễn Thanh Giang muốn phản bác lại bài viết “Cờ đỏ không phải là cờ Tổ Quốc” cũng đăng trên Đàn Chim Việt này, nhưng lại “vờ vịt” quay sang “cặp cổ” ông NG Kiểng vào đây “đỡ đạn” giùm!!! Xin được trình bày thẳng với ông TS “đất” NTGiang rằng: Lịch sử và tương lai của nước VN sẽ được viết lại chính xác và đúng đắn hơn do những người đứng dưới lá cờ vàng. Xin ông cứ chờ xem. Chiều dài Lịch sử của một đất nước sẽ lâu hơn thời gian tạm bợ của một lá cờ máu của một lũ gian manh tráo trở, một lá cờ chỉ nói lên sự lệ thuộc vào nước Tàu, làm sao có Độc Lập.

    Ông NG Kiểng cũng như nhiều người khác có tôn trọng những chiến sĩ miền Bắc đã hy sinh cho lá cờ máu, thì điều đó cũng là trước vì nghĩa đồng bào, sau là bởi lòng thuơng hại cho cuộc đời họ vì xui xẻo mà phải sinh ra và sống trong chế độ bưng bít lưu manh mọi rợ, rồi bị phải đẩy ra chiến trường làm bia đỡ đạn cho bọn chóp bu VC, thế thôi!!! Ngoài ra, lá cờ vàng không hề đại diện cho đảng phái quốc gia nào cả. Do đó, khi ông Kiểng gán cho nó là “tiêu biểu cho dân chủ” thì chúng ta cần phải nhớ lại quá khứ từ lúc có lá cờ vàng cho đến 1975, VN chưa hề có dân chủ thực sự. Miền Bắc thì quá rõ ràng là chế độ CA trị, đảng độc quyền, còn trong miền Nam thì dân chủ tuy có nhưng vẫn còn non trẻ và bị quá nhiều kẻ lợi dụng trong đó có rất nhiều cán bộ CS nằm vùng!!!! Lá cờ vàng đơn giản chỉ là lá cờ duy nhất xứng đáng đại diện cho VN kể từ thời Quân chủ cho tới nền Cộng Hòa, còn nó “tiêu biểu” cho giá trị gì, là sẽ do chính người dân VN, chính quyền VN dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ ấy, sẽ tạo nên. Xin các ông bỏ đi cái thói “trí thức giả cầy” mà nhìn vấn đề cho rõ ràng bằng cái tâm trong sáng, thì cái vốn kiến thức của các ông mới mong có cơ hội giúp ích cho VN.

  4. Tuần Triệt says:

    Vì bản chất háo chiến và mang chủ nghĩa diệt chủng, cộng sản Bắc Việt bất chấp những hiệp định đã ký, tìm mọi thủ đoạn bất lương đánh chiếm Miền Nam gây ra cảnh máu chảy đầu rơi huynh đệ tương tàn. Sau đó đem cả đất nước Việt Nam giao cho Trung Quốc. Cộng sản việt là tội đồ của dân tộc Viêt Nam….( Đứng đầu là Hồ Chí Minh ).

  5. noileo says:

    “Nếu coi cờ vàng là tiêu biểu cho dân chủ thì phải hài lòng với một thứ dân chủ giả dối và bệnh hoạn.” (Nguyễn Thanh Giang _ trích dẫn Nguyễn Gia Kiểng)

    Nguyễn Thanh Giang trích đểu Nguyễn Gia Kiểng, y hệt như các chuyên gia làm chứng gian, aka “trí thức cộng sản chân chính tim đỏ thẻ đỏ & trí thức xã hội chủ nghĩa & trí thức minh triết HCM & trí thức 19-5 & trí thức đảng lãnh đạo”…, hòng trả đũa người dân VNCH, hòng xuyên tạc & bôi nhọ cuộc sống & lá cờ của VNCH, hãy thử mở mắt đọc & học & nhìn thấy sự thật về cuộc sống ở VNCH qua những nhận định của giáo sư Đoàn Viết Hoạt :

    Đoàn Viết Hoạt:” Ở đây có sự khác biệt lớn. Độc tài cộng sản khác với tất cả các dạng độc tài khác, nó chỉ cho phép một đảng, người ta không thể lập bất cứ một tổ chức nào và không có quyền tự do biểu tình. Trước năm 1975 (khi miền Bắc Việt Nam theo cộng sản chinh phục miền Nam Việt Nam – ghi chú của phóng viên) ở miền nam chúng tôi đã có những quyền tự do đó.

    Chúng tôi có thể tập họp, thành lập các tổ chức theo ý mình. Chúng tôi còn có thể biểu tình chống lại chính phủ. Chúng tôi đã có nền báo chí độc lập, cả báo phê bình tổng thống. Một số báo còn in cả biếm họa của ông ta. Chúng tôi có thể dạy cái gì chúng tôi muốn, các trường đại học đều có quyền tự trị, giờ thì không. Miền nam là đất nước dân chủ, nó không hoàn toàn tự do, nhưng đó là vì chiến tranh và nguy cơ đe dọa của cộng sản.

    Phóng viên: Khi du lịch Việt Nam, người ta cảm nhận rất nhanh sự khác biệt giữa Nam và Bắc, người miền nam cởi mở hơn, tự tin hơn …

    ĐVH: Chính xác. Người miền Nam cảm thấy bị quản lý bởi miền Bắc. Bây giờ miền Bắc cũng phải chấp nhận kinh tế thị trường, thứ mà miền Nam đã có từ trước. Bây giờ ở miền Nam nền kinh tế tự do hơn và người ta cũng có quen thuộc với sự tự do đó hơn.”

    Giáo sư Đoàn Viết Hoạt trả lời phỏng vấn.
    http://www.doanviethoat.org/indexVN.htm

    • Lâm Vũ says:

      Một nhật xét hoàn về mặt “học thuật” của ông NGK, dựa trên cuốn TQĂN.

      Trước hết, nói chung, trong những món sở trường của ông NGK là đưa ra một cái “nếu” hoàn toàn không thực tế, rồi phê phán như một sự thực tế hiển nhiên. Nhưng phải nói là nhiều người, kể cả “trí thức” như TS Nguyễn Thanh Giang, đã bị đưa vào mê hồn trận.

      - Thí dụ câu trích dẫn trên đây, cái điều “nếu” tự nó đã vô nghĩa rồi: tương như một bộ đồng phục cho học sinh của một trường học, bảng hiệu của một cơ sỡ thương mại v.v. là cờ đại diện cho một tập thề – ở đây là một quốc gia. Nó không thể là “tiêu biểu” (biểu tượng?) cho “Dân Chủ” được.

      Nhưng trong trường hợp này tôi không nghĩ là ông NGK ngụy biện, mà ông bị “hớp hồn” bởi những lá cờ của những nước CS, trừ “thủy tổ” Liên Xô, thường có nền đỏ – tượng trưng cho “cách mạng” – và ngôi sao, tương trưng cho “chủ nghĩa” (lý tưởng) CS. Từ đó, ông K suy ra, lá cờ quốc gia nào cũng phải “biểu hiệu” cho một “chủ thuyết” nào đó chăng?

      Thực tế, ngoài chuyện cớ quạt của các nước theo chế độ CS, còn lại một lá cờ quốc gia được hoàn thành trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng không bào giờ theo một chủ thuyết nào cả.

      - Ngược lại, trong cuốn TQĂN có nhiều trường hợp, tác giả NGK đã cố tình ngụy biện dựa trên “phương pháp” nói trên. Điển hình là một chương có tựa để “Ils ne s’aiment pas” – tiếng Việt: Chúng nó ghét nhau. Chúng nó là người Việt. Mở đầu chương này, tác giả viết GS Nguyễn Huy Bảo (một thời làm Khoa Trưởng Văn Khoa ĐH Sài Gòn) kể với ông NGK là một vị GS người Pháp từng sống và làm việc ở VN đã nói với GS Bảo là “Người Việt không thích nhau”. Tác giả NGK còn kể một lô những giai thoại “có thật” khác, để chứng minh là người Việt vốn khinh rẻ lẫn nhau…

      Cho đến một ngày cách đây không lâu, nhân khi bàn về cuốn TQĂN, một người bạn giới thiệu cho tôi một bài viết phê bình cuốn sách nổi tiếng này. Bài viết, của một vị thức giả “ẩn danh”, chứng minh là nhiều câu trong chương “Ils ne s’aiment pas” là đã trích dịch gần như nguyên văn từ cuốn “Le Mal Français” (tạm dịch: Người Pháp Xấu Xí) của chính trị gia kiêm nhà văn nổi tiếng của Pháp, Alain Peyrefitte (1925-99). Dĩ nhiên, Peyrefitte nói về người Pháp, chứ không phải người Việt!

      TB. Tôi không nghĩ là TS NTGiang có ý đồ xấu khi viết về NGK, như bạn noileo có vẻ nghĩ, lý do vì theo tôi biết hai vị rất thân nhau và đang phát hành chung tờ báo mạng “Tổ Quốc”. Tôi cũng không đồng ý với bạn noileo là TS NTG “tim đỏ thẻ đỏ”. Ông NTG là một trong những người trí thức đấu tranh dân chủ, nổi tiếng hơn 10 năm nay, có thành tích “vào tù ra khám” của CSVN. Chúng ta không hoan nghênh thì thôi, nhất định không nên có sự đố kỵ.

      Đối với tác giả cuốn TQĂN cũng thế, chỉ vì ông có những tư tưởng chính trị hơi khác với đa số những người “chống cộng” bình thường, nhưng khó có thể không ngưỡng mộ những cố gắng của ông NGK trong việc đi tìm một hướng đi cho đất nước VN. Dù đường lối chính trị mỗi cá nhân hay đảng phái khác nhau, miễn là cùng chung mục đích, chúng ta nên ủng họ hay khuyến khích lẫn nhau. Mặc dù những khiếm khuyết, cuốn TQĂN đã tạo nên tiếng vang lớn trong cộng đồng người Việt hải ngoại lẫn trong nước. Theo tôi, đó không hẳn chỉ vì sự uyên bác của là nhờ sự uyên bác của tác giả mà chính ở lòng nhiệt thành yêu nước của tác giả (NGK) lồ lộ trong cuốn sách. Thân mến.

  6. kbc 3505 says:

    Đúng là lý luận của một con người “trí thức” cộng sản Nguyễn Thanh Giang.

    Ông viết: “Tôi rất không bằng lòng, và nghĩ rằng có người đã phẫn nộ có lý khi đọc những dòng sau đây: …”
    Những người phẫn nộ là ai? Là những người dân? Tôi không biết là những ai nhưng chắc là có ông! Chắc có lẽ ông vẫn còn ăn lộc của Đảng nên vẫn “…phải đời đời nhớ ơn Đảng” dù Đảng đang kìm kẹp sự thăng tiến của người dân và đang đưa đất nước và dân tộc vào con đường nô lệ.

    Chao ôi! Có bằng cấp như ông mà vẫn chưa mở mắt mờ lòng ra nhìn thực trạng của xã hội ngày nay.

    Ông hãy đi thăm người tù Việt Khang và hãy nghe hai bài nhạc “Anh là ai” và “Việt Nam tôi đâu” để biết thế nào là lòng yêu nước của người dân.

    Chào ông, và mong ông sớm tỉnh ngộ. Đừng “đời đời nhớ ơn Đảng” nữa mà quay về với dân tộc.

    kbc3505

  7. maison says:

    Trích: “……Nếu coi cờ vàng là tiêu biểu cho dân chủ thì phải hài lòng với một thứ dân chủ giả dối và bệnh hoạn.“

    Người dân miền Nam tôn trọng sự thật và hăng hái tham gia việc chính trị.

    Không thể nói là dân chủ giả dối và bệnh hoạn được!

  8. Võ Hưng Thanh says:

    BÉ CÁI LẦM

    Ông Nguyễn Thanh Giang viết “Tôi thường tâm niệm cái điều nhiều người đến nay vẫn tâm niệm rằng: Chủ nghĩa Marx ít ra cũng còn được cái lõi Biện chứng pháp, nhưng NGK thì xổ toẹt”. Theo tôi, cái mà ông Nguyễn Thanh Giang nói về “biện chứng pháp” chỉ là một ý niệm tuyên truyền một chiều cho các trí thức loàng xoàng, không mang tính cách nghiên cứu về khoa học hay triết học trong chiều cao và chiều sâu, hoặc có tính chất phê phán đúng nghĩa. Tôi không biết ông Nguyễn Gia Kiểng sổ toẹt cái gọi là biện chứng pháp như thế nào, chỉ xin nói vắn tắt như sau : Ý niệm biện chứng (die Dialektik) khởi thủy là ý niệm được Hegel dùng theo quan điểm của mình. Thật ra, khái niệm biện chứng đã có từ thời đại của Platon, thời cổ Hy Lạp. Cũng có thể nó đã bắt nguồn từ trong tư tưởng của Socrate, là thầy của Platon, trong chính biện pháp tranh luận của ông ta, tuy chưa hoàn toàn định hình một cách rõ nét hay cụ thể lắm. Dù sao, đối với Platon, phép biện chứng chỉ là một phương pháp suy luận hay tranh luận, tức nó chỉ mang tính cách nhận thức luận hay tính cách tư duy phân tích vả phê phán. Thế nhưng đến Hegel, ông này lại đã nâng lên thành một quy luật khách quan của tồn tại. Hegel là một nhà triết học duy tâm, tất nhiên biện chứng luận của ông cũng mang tính cách duy tâm. Đại thể Hegel cho rằng Tinh thần (der Geist) là một thực thể tồn tại duy nhất, nên theo quy luật mâu thuẫn, nó phải phủ nhận liên tiếp (die Negation der Negation) để phát triển thành thực tại và đi đến tự nhận thức trong bản thân của Tinh thần. Đó là cái mà người ta gọi nom na theo công thức : Tiền đề (Thesis), Phản đề (Antithesis), Hợp đề (Synthesis). Quan niệm của Hegel nâng khái niệm biện chứng thành quy luật khách quan của tồn tại, tuy mang tính cách thuần túy tư biện (diskursiv), nhưng phần nào cũng còn có lý do, bởi Tinh thần được Hegel quan niệm là cái tuyệt đối vô hạn, chứa trong nội hàm hay nội dung của nó mọi tiềm lực khả thể. Trong khi đó, Marx là người hoàn toàn duy vật, chủ trương vật chất (die Materie) là bản thân duy nhất của tồn tại. Từ đó ông mượn ý tưởng biện chứng luận, hay được gọi nom na là phép biện chứng để chủ trương duy vật biện chứng, duy vật lịch sử hay năm hình thái kinh tế xã hội. Trong tính cách như thế Marx quả thật chỉ làm cái việc mang râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vật chất thuần túy có nghĩa là phi tiềm lực, phi nội hàm tuyệt đối, thế thì làm gì mà có biện chứng, hay biện chứng cái nỗi gì, Đó là tính cách biện luận phi lô-gích, phi nguyên tắc của chính Marx. Từ đó mọi người cũng thấy được, tác phẩm then chốt của Marx là cuốn tư bản luận (das Kapital), thật ra chỉ là một hình thức “biện chứng hóa” các nguyên lý kinh tế khách quan, tự nhiên của xã hội. Kiểu người ta vẫn gọi là gọt chân cho vừa giầy. Bởi vậy lý luận từ xã hội cộng sản nguyên thủy, tiến sang tư bản chủ nghĩa, rồi đến cộng sản khoa học, qua chi tiết của năm hình thái kinh tế xã hội như là sự diễn tiến khách của lịch sử, bằng phép biện chứng, thực chất chỉ là sự cương đại không có cơ sở khách quan khoa học, hoặc không thể kiểm chứng được, của Marx. Học thuyết của Marx quả thật có nhiều chỗ quá gượng ép, đầy lổ hồng và nhiều chất cương đại, ức đoán vô bằng. Người ta chỉ cần nói một cách đơn giản, không cần chứng minh, rằng sự mâu thuẫn cũng như đấu tranh giai cấp trong xã hội đưa hình thái xã hội này sang hình thái xã hội khác, thế thôi. Xã hội tư bản phải tự đào thải để đi đến xã hội cộng sản. Đó quả thật là một niềm tin hoàn toàn chất phác và đơn giản. Thật đúng chỉ là niềm tin thụ động do tuyên truyền một chiều, mà không hề có tính chủ động trong mọi sự nhận thức, phê phán. Tất nhiên khoa học xã hội không thể chính xác hay kiểm chứng được một cách hoàn toàn cụ thể như khoa học tự nhiên, song ít nhất mọi lý luận của nó cũng phải có tính lô-gích. Đằng này lý luận của Mác chỉ là tưởng tượng, phỏng đoán, khiên cưỡng, gần như khó có được các cơ sở khách quan, khoa học đúng nghĩa. Từ đó mọi ý niệm và quan điểm khác của Marx đưa ra cũng không ra ngoài chính nền tảng phi lý hay mơ hồ ngay từ đầu đó. Đấy, đại khái cái được gọi là “phép biện chứng” được đem du nhập và tuyên truyền trong giới trí thức VN trong cả gần thế kỷ, nó là như vậy. Người ta chỉ nói một chiều theo cách thuật sự, tường thuật thụ động về sự kiện, nhưng không lồng vào đó tinh thần nhận xét hay ý thức phê phán, đánh giá. Đó chính là cái mà ông Nguyễn Thanh Giang từng “tâm niệm”, cũng như ông cho “cái điều nhiều người đến nay vẫn tâm niệm”, tức là “chủ nghĩa Marx ít ra cũng còn được cái lõi Biện chứng pháp” như ông đánh giá. Sự bé cái lầm nó là như thế. Bởi vậy, nhân đây cũng nói thêm, là chủ nghia quốc tế vô sản hoàn toàn khác với chủ nghĩa dân tộc yêu nước. Bởi chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ tuyệt đối một chiều tin vào chân lý trong học thuyết Mác, tin vào tình cảm quốc tế chưa thể trải nghiệm cụ thể, chắc chắn, nhưng chỉ có thể sống bằng cảm tính, xúc cảm chủ quan, nhất thời, hay quyền lợi, tham vọng riêng tư nào đó. Trong khi đó, chủ nghĩa dân tộc yêu nước, lại không thể tin vào cái gì khác ngoài tình yêu đất nước một cách khách quan, tự nhiên, nên cũng không ủy thác, không thể tin tưởng tuyệt đối vào bất kỳ một học thuyết nào, do vậy cũng không thể bất cẩn mang mọi người khác, mang dân tộc, mang đất nước ra để thách đố cùng với niềm tin và hi vọng vào bất kỳ một học thuyết mơ hồ nào hết, bởi vì lương tâm và trách nhiệm của một người yêu nước chân chính, cũng như mọi sự cẩn trọng cần thiết của người lãnh đạo đất nước, dân tộc, không bao giờ cho phép người ta được quyền bất chấp, để làm một cuộc đánh đố hời hợt, hoàn toàn bằng một niềm tin mù quáng, nông cạn, hay mông lung nào đó như thế cả. Bởi vì nếu biện chứng là nguyên lý khoa học khách quan của lịch sử xã hội, tại sao diễn tiến lịch sử của mỗi nước lại khác nhau, tại sao Liên xô và khối XHCN trước đây phải sụp đổ và tan rã, để chỉ còn lại bốn quốc gia duy nhất theo học thuyết mác xít ngày nay trên toàn thế giới. Chẳng biết ông Nguyễn Thanh Giang quá vô tư hay chỉ là bé cái lầm chính là như vậy.

    ĐẠI NGÀN
    (10/4/12)

    • Lâm Vũ says:

      Phê bình “Biện chứng pháp” của Marx trên đây, theo tôi, rất đứng đắn và đầy đủ. Rất tiếc bạn Đại Ngàn lại viết liền tù tì, không xuống hàng nên rất khó đọc, trong khi vấn đề tiết học chính trị vốn khó nuốt rồi. Tôi xin phép được đăng lại, chỉ co thay đổi duy nhất là pân đoạn và xuống hàng cho dễ đọc mà thôi.

      Thân trọng

      Võ Hưng Thanh says:
      10/04/2012 at 09:16

      BÉ CÁI LẦM
      Ông Nguyễn Thanh Giang viết “Tôi thường tâm niệm cái điều nhiều người đến nay vẫn tâm niệm rằng: Chủ nghĩa Marx ít ra cũng còn được cái lõi Biện chứng pháp, nhưng NGK thì xổ toẹt”. Theo tôi, cái mà ông Nguyễn Thanh Giang nói về “biện chứng pháp” chỉ là một ý niệm tuyên truyền một chiều cho các trí thức loàng xoàng, không mang tính cách nghiên cứu về khoa học hay triết học trong chiều cao và chiều sâu, hoặc có tính chất phê phán đúng nghĩa.

      Tôi không biết ông Nguyễn Gia Kiểng sổ toẹt cái gọi là biện chứng pháp như thế nào, chỉ xin nói vắn tắt như sau: Ý niệm biện chứng (die Dialektik) khởi thủy là ý niệm được Hegel dùng theo quan điểm của mình. Thật ra, khái niệm biện chứng đã có từ thời đại của Platon, thời cổ Hy Lạp. Cũng có thể nó đã bắt nguồn từ trong tư tưởng của Socrate, là thầy của Platon, trong chính biện pháp tranh luận của ông ta, tuy chưa hoàn toàn định hình một cách rõ nét hay cụ thể lắm. Dù sao, đối với Platon, phép biện chứng chỉ là một phương pháp suy luận hay tranh luận, tức nó chỉ mang tính cách nhận thức luận hay tính cách tư duy phân tích vả phê phán.

      Thế nhưng đến Hegel, ông này lại đã nâng lên thành một quy luật khách quan của tồn tại. Hegel là một nhà triết học duy tâm, tất nhiên biện chứng luận của ông cũng mang tính cách duy tâm. Đại thể Hegel cho rằng Tinh thần (der Geist) là một thực thể tồn tại duy nhất, nên theo quy luật mâu thuẫn, nó phải phủ nhận liên tiếp (die Negation der Negation) để phát triển thành thực tại và đi đến tự nhận thức trong bản thân của Tinh thần. Đó là cái mà người ta gọi nom na theo công thức: Tiền đề (Thesis), Phản đề (Antithesis), Hợp đề (Synthesis). Quan niệm của Hegel nâng khái niệm biện chứng thành quy luật khách quan của tồn tại, tuy mang tính cách thuần túy tư biện (diskursiv), nhưng phần nào cũng còn có lý do, bởi Tinh thần được Hegel quan niệm là cái tuyệt đối vô hạn, chứa trong nội hàm hay nội dung của nó mọi tiềm lực khả thể.

      Trong khi đó, Marx là người hoàn toàn duy vật, chủ trương vật chất (die Materie) là bản thân duy nhất của tồn tại. Từ đó ông mượn ý tưởng biện chứng luận, hay được gọi nom na là phép biện chứng để chủ trương duy vật biện chứng, duy vật lịch sử hay năm hình thái kinh tế xã hội. Trong tính cách như thế Marx quả thật chỉ làm cái việc mang râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vật chất thuần túy có nghĩa là phi tiềm lực, phi nội hàm tuyệt đối, thế thì làm gì mà có biện chứng, hay biện chứng cái nỗi gì. Đó là tính cách biện luận phi lô-gích, phi nguyên tắc của chính Marx.

      Từ đó mọi người cũng thấy được, tác phẩm then chốt của Marx là cuốn tư bản luận (das Kapital), thật ra chỉ là một hình thức “biện chứng hóa” các nguyên lý kinh tế khách quan, tự nhiên của xã hội. Kiểu người ta vẫn gọi là gọt chân cho vừa giầy. Bởi vậy lý luận từ xã hội cộng sản nguyên thủy, tiến sang tư bản chủ nghĩa, rồi đến cộng sản khoa học, qua chi tiết của năm hình thái kinh tế xã hội như là sự diễn tiến khách của lịch sử, bằng phép biện chứng, thực chất chỉ là sự cương đại không có cơ sở khách quan khoa học, hoặc không thể kiểm chứng được, của Marx.

      Học thuyết của Marx quả thật có nhiều chỗ quá gượng ép, đầy lổ hồng và nhiều chất cương đại, ức đoán vô bằng. Người ta chỉ cần nói một cách đơn giản, không cần chứng minh, rằng sự mâu thuẫn cũng như đấu tranh giai cấp trong xã hội đưa hình thái xã hội này sang hình thái xã hội khác, thế thôi. Xã hội tư bản phải tự đào thải để đi đến xã hội cộng sản. Đó quả thật là một niềm tin hoàn toàn chất phác và đơn giản. Thật đúng chỉ là niềm tin thụ động do tuyên truyền một chiều, mà không hề có tính chủ động trong mọi sự nhận thức, phê phán. Tất nhiên khoa học xã hội không thể chính xác hay kiểm chứng được một cách hoàn toàn cụ thể như khoa học tự nhiên, song ít nhất mọi lý luận của nó cũng phải có tính lô-gích. Đằng này lý luận của Mác chỉ là tưởng tượng, phỏng đoán, khiên cưỡng, gần như khó có được các cơ sở khách quan, khoa học đúng nghĩa. Từ đó mọi ý niệm và quan điểm khác của Marx đưa ra cũng không ra ngoài chính nền tảng phi lý hay mơ hồ ngay từ đầu đó.

      Đấy, đại khái cái được gọi là “phép biện chứng” được đem du nhập và tuyên truyền trong giới trí thức VN trong cả gần thế kỷ, nó là như vậy. Người ta chỉ nói một chiều theo cách thuật sự, tường thuật thụ động về sự kiện, nhưng không lồng vào đó tinh thần nhận xét hay ý thức phê phán, đánh giá. Đó chính là cái mà ông Nguyễn Thanh Giang từng “tâm niệm”, cũng như ông cho “cái điều nhiều người đến nay vẫn tâm niệm”, tức là “chủ nghĩa Marx ít ra cũng còn được cái lõi Biện chứng pháp” như ông đánh giá. Sự bé cái lầm nó là như thế.

      Bởi vậy, nhân đây cũng nói thêm, là chủ nghia quốc tế vô sản hoàn toàn khác với chủ nghĩa dân tộc yêu nước. Bởi chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ tuyệt đối một chiều tin vào chân lý trong học thuyết Mác, tin vào tình cảm quốc tế chưa thể trải nghiệm cụ thể, chắc chắn, nhưng chỉ có thể sống bằng cảm tính, xúc cảm chủ quan, nhất thời, hay quyền lợi, tham vọng riêng tư nào đó. Trong khi đó, chủ nghĩa dân tộc yêu nước, lại không thể tin vào cái gì khác ngoài tình yêu đất nước một cách khách quan, tự nhiên, nên cũng không ủy thác, không thể tin tưởng tuyệt đối vào bất kỳ một học thuyết nào, do vậy cũng không thể bất cẩn mang mọi người khác, mang dân tộc, mang đất nước ra để thách đố cùng với niềm tin và hi vọng vào bất kỳ một học thuyết mơ hồ nào hết, bởi vì lương tâm và trách nhiệm của một người yêu nước chân chính, cũng như mọi sự cẩn trọng cần thiết của người lãnh đạo đất nước, dân tộc, không bao giờ cho phép người ta được quyền bất chấp, để làm một cuộc đánh đố hời hợt, hoàn toàn bằng một niềm tin mù quáng, nông cạn, hay mông lung nào đó như thế cả.

      Bởi vì nếu biện chứng là nguyên lý khoa học khách quan của lịch sử xã hội, tại sao diễn tiến lịch sử của mỗi nước lại khác nhau, tại sao Liên xô và khối XHCN trước đây phải sụp đổ và tan rã, để chỉ còn lại bốn quốc gia duy nhất theo học thuyết mác xít ngày nay trên toàn thế giới.

      Chẳng biết ông Nguyễn Thanh Giang quá vô tư hay chỉ là bé cái lầm chính là như vậy.

      ĐẠI NGÀN
      (10/4/12)

      • Ngàn Khơi says:

        HOAN HÔ

        Rất hoan hô bạn Lâm Vũ, một con người giàu lòng thiện chí và quyết tâm theo chủ nghĩa vị tha, vô cầu. Đói là một tinh thần nhân bản và một khuynh hướng trách nhiệm cao, tôi rất thích. Sở dĩ tôi phải biết liền tù tì là vì để tiết kiệm đủ thứ, cho người đọc, cho trang báo, và cho cả chính mình. Thật sự từ lâu tôi có ý định viết hẳn ra một hay vài cuốn sách nghiêm túc cho các nội dung như trên, nhưng công việc đời sống bộn bề quá, thành ra chỉ tạm “nhốt” vào một vài bài ngắn như trên theo kiểu “liền tù tì” mà chính bạn LV đã chịu khó xở ra giúp. Xin được rất tán thành và cám ơn bạn Lâm Vũ.

        Hỡi người khuynh tả xưa nay
        Nhìn vào Lâm Vũ biết ngay ra mình
        Cuộc đời sao lắm linh tinh
        Tả khuynh, khuynh tả, giật mình lắm thay
        Hỡi ơi sao nước non này
        Bao nhiêu linh khí biết ngày nào khơi !

        NON NGÀN
        (11/4/12)

  9. nguyenha says:

    Bài viết thì dài,nhưng hầu hết “trích dẩn” từ cuốn Tổ-Quốc Ăn Năn”của Nguyễn Gia Kiểng.Một tác phẩm “chê”
    nhiều hơn “khen”,một tác phẩm dã “phản bội”lại chính người sinh ra nó! Một hiện tượng “ít có’ở người viết
    sách. Rất nhiều người” nhầm tưởng” Cờ là chế-dộ.Sự dồng hóa nầy do CS dặt ra:
    Yêu Tổ Quốc = Yêu CNXH!——–>Cờ Tổ Quốc = Cờ CNXH. Lịch sử VN qua Dnh-Lê-Lý-Trần có XHCN
    dâu,thế mà vẩn yêu nước,chống ngọai xâm.Do dó : Yêu Tổ-Quốc =/= Yêu CNXH——>Cờ Tổ Quốc =/=
    Cờ CNXH. Chúng ta dã chứng minh Cờ Tổ-Quốc không phải là “Cờ của Chế-Dộ”. HCM,NĐD,NVT…
    có chết di,nhưng Tổ-quốc VN không bao giờ chết!! Một Miền Nam VN cho dù “có nền Dân-chủ bệnh họan”
    thì lổi dó do những người Lãnh dâo(trong dó có Ng gia kiểng),chứ “không mắc mớ gì’một nền Dân-chủ mà Dân Miền Nam ước ao cả!! Hòan tòan khác với Miền Bắc: “Bác” =chế dộ=Tổ quốc!!. NGK bảo :”Cờ dỏ sao vàng dược mọi thành phần Dân-Tộc chấp nhân” Xin mọi người dọc lại bài Cờ Tổ-Quốc…của Ô TR t Dạo.
    Cái Quốc-Hội di kèm với “mủi súng”,không khéo NGK lại nói từ trước dến nay mọi ý kiến “di ra”từ cái Quốc-Hội “chó dẻ”dó, là ý kiến của dân-Tộc,nếu thế thì bỏ-mẹ!!
    =

Leave a Reply to Dân Chửi