WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nhân báo “An Ninh Thế Giới cuối tháng” bốc thơm thơ Trần Gia Thái

Trần Gia Thái

Báo “An ninh thế giới cuối tháng” tờ báo to gần bằng cái chiếu manh số 121, tháng 9-2011, trang 14 của Bộ Công an, do trung tướng công an Hữu Ước làm tổng biên tập, đại tá công an Hồng Thanh Quang làm phó tổng biên tập (phụ trách nội dung báo này), thấy có in một bài bốc thơm tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa” của Trần Gia Thái lên mây xanh (NXB Hội nhà văn 2011). Bài bốc thơm này của ông Nguyễn Sĩ Đại – hiện đang làm chủ biên, phụ trách báo “ Nhân Dân chủ nhật”. Bài viết của ông Nguyễn Sĩ Đại mang “ tít” (nhan đề) có thể được coi là dài nhất Việt Nam, mang tên rất hoành tráng như sau: “Tổng giám đốc – Tổng biên tập đài phát thanh & truyền hình Hà Nội, nhà báo Trần Gia Thái nghiêng cả về thu khúc thẳm sâu”.

Để độc giả hiểu vì sao bài tụng ca thơ Trần Gia Thái của ông Nguyễn Sĩ Đại có cái tên mang vẻ  “rồng rắn đi đâu, đi vuốt râu cho hùm” dài như dây khoai lang cuốn vào đầu trang báo như thế, chúng tôi xin trích dẫn lời ông Đại bình thơ như sau:

“…Trường thơ của Thái khá rộng. Hình thức cùng biến chuyển, linh hoạt; thiên về thơ hiện đại với những câu dài ngắn khác nhau, với chất liệu của hôm nay. Nhưng cũng giàu tính cổ điển, hàm súc. Như bài “ Nhớ cha” và “ Nghiêng cả về thu”, một tứ tuyệt hay:

“Hơi ấm còn đây, người ở đâu

Buồn dâng ngày lạnh lụt mưa ngâu

Bế say dốc cạn dòng sống đắng

Nghiêng cả về thu  khúc thẳm sâu”

(hết trích)

Hóa ra, Nguyễn Sĩ Đại( NSĐ) dùng một câu thơ của Trần Gia Thái “Nghiêng cả về thu khúc thẳm sâu” để gắn vào đuôi nhan đề bài báo, khiến nhan đề dài khôn xiết này thêm phầm mùi mẫn thi ca. Ở đây, chúng tôi thấy ông Đại, không biết vô tình hay cố ý, lại trích sai câu thơ cuối bài tứ tuyệt trên của Trần Gia Thái. Trang 20 của tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa” của Trần Gia Thái (TGT), câu thơ ấy nguyên văn như sau: “Nghiêng cả về thu khúc thẳm sầu”, nhưng ông NSĐ bó đi một dấu huyền khiền chữ SẦU nguyên bản biến thành chữ SÂU.

Mấy ông có thể hoạnh họe chúng tôi mà rằng: gớm, cái ông Hảo này rách việc, SÂU với SẦU hơn kém một dầu huyền ăn thua gì: “thẳm sầu” chữa thành “thẳm sâu” có khi còn hay hơn chứ, sao bắt bẻ vụn vặt thế? Vả, có khi ông NSĐ viết đúng nguyên bản nhưng cậu đánh máy lại đánh mất dấu huyền (theo phương cách trốn tội đổ cho người đánh máy của ông Đào Duy Quát) thì sao nào? Xin các bạn hãy nhìn vào ba chữ trên nhan đề bài: KHÚC THẲM SÂU to ngang con voi, thì dứt khoát không phải lỗi của cậu đánh máy, mà lỗi là ở người viết, tức ông NSĐ.

Như vậy, có thể xảy ra hai tình huống về việc ông NSĐ bình thơ lại trích sai thơ. Tình huống thứ nhất, do ông NSĐ đọc thơ tắc trách, qua quýt, nên đã trích sai câu thơ, lại là câu thơ dùng làm nhan đề bài viết. Tình huống thứ hai, do thấy chữ “thẳm sầu” của TGT sến quá, nên ông NSĐ đã ăn gian, chữa thành “ thẳm sâu” cho câu thơ bớt sến hơn chăng?

Dù một trong hai tình huống nào xảy ra, thì bài bốc thơm này của ông NSĐ quả tình không nghiêm túc, không biểu lộ phương pháp làm khoa học của ông, một người có học vị cao mà ông khoe khoang ngay khi viết câu văn thứ nhất của bài báo này: “Năm 1995 khi tôi bảo vệ xong luận án tiến sĩ …”

Chúng tôi cho rằng thẩm mỹ thơ của ông NSĐ có vấn đề, nên ông mới khen bài tứ tuyệt “ Nghiêng cả về thu” của TGT là hay. Là một nhà Hán Nôm, từng nghiên cứu thơ Đường, hẳn ông NSĐ biết thừa cái motif bài thơ này là những motif quen thuộc, lặp đi lặp lại của thơ xưa Trung Quốc cũ lắm rồi; viết như thế chỉ vô tình nhái thơ xưa thôi. Vả, bằng vào từ ngữ mà TGT dùng, nếu bài này in trong thời thơ mới 1932-1945, vẫn bị chê là sáo cũ, là sến. Chao ôi, toàn những sáo từ mòn chán như “người ở đâu”, “buồn dâng”, “bến say”, “khúc thẳm sầu”…dễ dãi và nhạt nhẽo thế này mà vẫn được ông NSĐ khen hay (!)

Chúng tôi xin trích lời của ông NSĐ, khen bài thơ “Nhớ cha” của TGT là hay,là xúc động: “Nhớ cha là một bài thơ hay đã làm xúc động rất nhiều bạn đọc không chỉ ở nông thôn. Hình ảnh người cha vùng quê nghèo đã làm nên cuộc đời khi ông sống  và ngay cả khi ông chết được Thái diễn tả một cách chân thực như không thể thực hơn, và vì thế nó cũng thành ám ảnh:

 “Cứ tưởng người đi dạo lúa đồng

Người đi chở cát với vôi nồng

Người đi đội đá xây mương nổi

Đong bát mồ hôi đổi cháo không…

 

Bát cháo đồng chiêm cơ cực ơi

Nuốt vào cay đắng nuốt không trôi

Mồ hôi thì mặn nước mắt chát

Đeo đẳng đời cha từng giọt rơi “

(hết trích)

Thông thường, khi ta nhắc lại ký ức tuổi thơ với mẹ cha áo vá, đói cơm, nuôi ta khôn lớn bằng rau cháo dễ làm người khác cảm động. Sự cảm động do câu chuyện kể là một việc; nhưng sự cảm động ấy lại được lồng vào thơ, thì thơ có hay không, có đúng là thơ không, lại là việc khác, vấn đề khác. Hai khổ thơ thất ngôn viết theo kiểu truyền thống (bốn câu ba vần) trên phải nói chỉ là những câu nói diễn nôm có vần, chưa thể gọi là thơ được; vì nó được viết rất dễ dãi, rất lười, cốt gieo vần cho êm tai thôi mà không có hình ảnh, hình tượng độc đáo, không có ý tưởng sâu xa, thiếu một vài câu tài hoa làm cho cả khổ có thể được gọi là thơ. Ví như khi ta viết về mẹ mình bằng những câu nói có vần này chẳng hạn:

Cứ ngỡ mẹ đi gặt lúa vàng

Người tìm rau má mót khoai lang

Người đi móc đất làm ông táo

Bếp lạnh người run thắp nén nhang

 

Cơm cháo ngày ba tháng tám ơi

Cháo toàn rau má cục mùng tơi

Mồ hôi mẹ trút không cần tắm

Rét run cầm cập sống cầm hơi”

Tám câu tấu có vần này do chúng tôi phóng tác trực tiếp theo kiểu tám câu được gọi là thơ trên của TGT. Thấy người mẹ trong “ thơ tôi” còn khổ hơn người cha của  thơ TGT. Người cha trong thơ TGT còn có cháo trắng để ăn, còn có vôi cát để xây nhà, nghĩa là còn giầu hơn người mẹ chỉ ăn toàn cháo rau má nấu lẫn cục mồng tơi của “thơ tôi”. Đọc lên nghe cảm động như ai; nhưng nó không phải là thơ, thưa ông NSĐ!

Đầu tháng 9-2011, khi bài ca ngợi thơ TGT của nhà thơ VQP in trên báo Văn Nghệ, chúng tôi đã nhờ hai người bạn thân ngoài Hà Nội đến các hiệu sách thủ đô tìm mua giúp tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa” của TGT;nhưng các bạn không tìm ra. Tại Sài Gòn, chúng tôi và nhà thơ NTS cũng đi lùng sục khắp các hiệu sách, tinh không thấy có tập thơ này của TGT. Tập thơ của TGT chỉ in có 1000 cuốn, hầu như chỉ để tặng là chính. May nhờ một người quen, hiện là một quan chức của thành phố Hồ Nội, được tác giả TGT kính tặng tập thơ “Lời nguyện cầu trước lửa”, bèn gửi phát nhanh vào Sài Gòn, chúng tôi mới có tập thơ này để phê bình. Thế mà ông NSĐ dám viết: “Nhớ cha” là một bài thơ hay đã làm xúc động rất nhiều bạn đọc không chỉ ở nông thôn”.

Là một người có học vị tiến sĩ, ông NSĐ không thể nói liều như vậy được; khi ông chưa điều tra xã hội học, thì sao biết có bao nhiêu người đã đọc bài thơ “ Nhớ cha”, đọc ở nguồn nào, bao nhiêu người xúc động, bao nhiêu người khen, bao nhiêu người chê ? Sao bỗng dưng ông dám kết luận theo kiểu bốc phét quá hoang đường như thế?

Ông NSĐ còn trích khá nhiều thơ, loại thơ phản cổ điển, tức thơ không vần của TGT ra khen, ra bình loạn xôm trò, tung hứng còn hơn lân thấy pháo. Ông tứng tẩy bút, khen loại thơ viết linh tinh, lảm nhảm, xuống dòng liên tục, chẳng có câu nào thơ, để rồi bình rất chi là bốc phét, hoắng, nghĩa là bình cũng linh tinh nốt, đại loại: “ …Con người Thái mang một bản thể tình yêu”…” Thơ tình yêu của Thái vì thế rất ẩn, rất sâu và rất thực.Và cũng rất dữ dội. Thơ anh vùng dậy quyền sống, quyền được yêu” (hết trích).

Chính ra  ông NSĐ cần phải viết thêm mấy câu sau mới đầy đủ bản chất con người TGT: “Thái cần phải vùng lên để hét vang trời lời căm thù bọn yêu nước biểu tình chống người anh em nước lạ, để vu cáo chúng tới tận cùng là bọn xấu xa, bọn phản động, để bắt hết bọn yêu nước biểu tình kia Thái mới yên vui làm thơ bằng tiếng nước lạ, làm dáng giả điên giả dại thành ông Bùi Giáng thứ hai mới đích thực nghệ sĩ.”

Chúng tôi xin dẫn chứng một lời bình kỳ lạ của NSĐ và đoạn thơ kỳ quái của TGT: “ Sống thật, sống hết mình như thế nào? Trần Gia Thái có giải pháp: anh đã muốn lựa chọn làm một người điên để được sống thật, để không ai nhảy xổ vào cuộc sống của mình:

“Tôi thấy mình thông minh

Tôi thấy mình dũng cảm

Tôi thấy mình đáng yêu hơn

Đấy là lần duy nhất đúng

Tôi mong là một người điên

Người điên không phải đề phòng

Quyền yêu, quyền giận, quyền buồn

Không bị người đời thô bỉ

Nhảy xổ vào cuộc sống riêng”

(hết trích)

Thưa ông nhà thơ TGT và ông bình thơ NSĐ: các ông sướng lắm do quen sống giả dối nhiều rồi nên mới thích biến thành người điên để được sống thật phải không? Thưa, người điên là người đã đánh mất lí trí, tức không còn ý thức được mình và cuộc đời. Một người không còn lí trí, không còn ý thức, phỏng có thể biết đâu là chân giả mà các ông dám cho cứ điên mới sống thật. Còn 99 % dân ta đang sống tỉnh như ngóe trên thiên đường xã hội chủ nghĩa chẳng lẽ toàn sống giả trá hay sao?

Chúng tôi xin mô phỏng những lời nói tầm thường được mạo nhận là thơ của TGT mà than rằng:

Tôi thấy mình nửa điên nửa dại

Tôi thấy mình đớn hèn

Tôi thấy mình đáng ghét

Đấy là lần sai bét

Tôi mong tỉnh như quạ

Để làm giám đốc truyền hình

Trả nợ cho một trăm ông đã ca ngợi thơ tôi

Làm cho mỗi ông một bộ phim về đời văn thơ của họ

Chiếu hoành tráng trên truyền hình

Như thế tôi mới không thành kẻ lường gạt

Các ông cứ thoải mái bốc thơm thơ tôi nhé

Không thiệt đâu hỡi người anh em”

 

Nhân chuyện ông NSĐ bốc thơm thơ, bình tán nhảm thơ ông TGT trên tờ “An ninh thế giới cuối tháng”, chúng tôi ngậm ngùi nhớ đến cả một nền phê bình xu phụ của văn học Việt Nam trong mấy chục năm qua. Có rất nhiều ông GS.TS. làm luận án TS bằng phương pháp Hàn Tín xin cơm là  bốc thơm thơ mấy ông lớn. Có rất nhiều ông bất tài, chỉ có tài nịnh thơ cấp trên, biến thứ thơ báo tường cũng chê là dở thành thơ thiên tài để nhận được chức tước, nhà cửa, bổng lộc.

Một ông mới làm chức bật mã ôn (chữ của nhà thơ Trần Trương) là vụ trưởng vụ báo chí mà mỗi tết đã có hàng trăm tờ báo phải in thơ tết cho ông. Nhuận bút trả ông bao giờ cũng là nhuận bút đặc biệt, gấp mười kẻ cùng đăng thơ với ông trên chính báo ấy. Báo nào tết đến không gọi điện thoại đến xin thơ ông: “ Em là tổng biên tập báo …, kính xin anh một bài thơ in số tết”. Ông “ bật mã ôn” bèn làm cao: hồi này tớ bận lắm, mấy tờ báo vượt rào, in nhiều bài có vấn đề, nên còn phải kiểm tra, nếu thấy nặng có thể cho đình bản tờ ấy tờ nọ…”. Báo nào không xin thơ ông, trả nhuận bút ông bèo là ông liền a lô xuống mà rằng : báo các cậu hồi này có vẻ trật định hướng rồi đó, nhiều bái báo có vấn đề, các cậu buông lỏng dây cương để cho mấy tay có vấn đề viết toàn bài có vấn đề …Tôi định báo cáo lên trên nhưng còn chờ xem các cậu có thành ý không?…Thế là quà cáp, là phong bì dồn đến nhà ông như nước lụt… Nay ông “ bật mã ôn” này về hưu, chẳng ma nào thèm đăng thơ tết cho ông nữa, thứ thơ thuộc trường phái nước ốc…mà khi còn tại chức, ông đã làm ngập lụt hàng trăm tờ báo tết.

Người ta mượn văn học, mượn chuyện in ấn, xét giải, xét kết nạp hội viên, làm chân dung nhà văn nhà thơ nhà phê bình trên truyền hình để làm công cụ, làm hàng hóa trao đổi, móc ngoặc, rất là tồi tệ;  nên văn học không còn mang tính mục đích nữa. Rất nhiều nhà thơ trường phái nước ốc chạy tiền, đã được truyền hình phát chương trình giới thiệu thơ trên đài truyền hình quốc gia dài tứ 40 phút đến một tiếng…

Cách đây mười mấy năm có một đại gia từ Cà Mau tên là Hùng Tấn (bút hiệu Hùng Anh) là giám đốc Công ty dược Cà Mau tập tẹ làm thơ con cóc. Trong một lần lên Sài Gòn đại gia Hùng Anh gặp được ông Hữu Thỉnh. Thế là, thi sĩ trường phái con cóc Hùng Anh bèn được kết nạp đặc cách vào Hội nhà văn Việt Nam một cách không thể nào hiểu nổi. Cũng lúc đó Đài truyền hình Việt Nam VT3 phát một chương trình ca ngợi thơ nước ốc của đại gia Hùng Anh suốt cả tiếng đồng hồ. Ba tháng sau, Hùng Anh bị bắt vì ăn cắp công quỹ gần trăm tỉ đồng, phải đi tù mấy chục năm. Nghe đồn khi bị bắt, Hùng Anh khai dùng tiền ăn cắp để bôi trơn cho sự nổi tiếng làm thơ của mình hòm hòm cũng bạc tỉ…

Cũng cách đây hơn chục năm, tờ “Người Hà Nội” tổ chức thi thơ mà người được giải thưởng phần lớn là các đại gia: giám đốc hoặc tổng giám đốc. Trong số người được giải thơ ấy có một ông thứ trưởng bộ nông nghiệp… Ông thứ trưởng này cũng trường thơ con cóc, đã bỏ ra bạc tỉ để hội thảo thơ mình, thuê hàng mấy chục nhà văn nhà thơ nổi tiếng viết bài ca ngợi thơ con cóc của ông, lại tổ chức hội thảo linh đình, còn hơn Nguyễn Du vừa sống lại. Đùng một cái ông bị mất chức vì làm thất thoát công qũy nhiều tỉ đồng…

Chúng tôi có thể còn kể ra đây hàng chục thí dụ về bọn buôn thơ, buôn văn, dùng văn học làm phương tiện để trục lợi; hẹn bạn đọc trong một dịp khác. Những động cơ phi văn học hầu như đang điều hành guồng máy nền văn học quốc doanh. Đấy là một tai họa cho đất nước : văn học chân chính đang bị xua đuổi khỏi đời sống xã hội, nếu còn những người làm thơ như ông TGT, ông Hùng Anh và còn người bình thơ như ông NSĐ.,.

Sài Gòn ngày 01-10-2011

© T.M.H

© Đàn Chim Việt

19 Phản hồi cho “Nhân báo “An Ninh Thế Giới cuối tháng” bốc thơm thơ Trần Gia Thái”

  1. Người San Jose says:

    Lảo ngồi rặn mãi không ra !
    Tại sao lại gọi nó là cục phân ?

    Người San Jose
    Xin lỗi ! Tôi sữ-dụng computer chưa rành.

  2. Người San Jose says:

    Lảo ngồi rặn mãi không ra !
    Tại sao lại gọi nó là cục phân ?

    Người San Jose

    • Người San Jose says:

      Lảo ngồi rặn mãi không ra !
      Tại sao lại gọi nó là cục…thơ ?
      Người San Jose

  3. Người Hà nội says:

    Trời đất! Đọc thơ của Trần Gia Thái rồi đã đủ ớn lạnh. Đọc bình phẩm của Nguyễn Sĩ Đại thấy bốc mùi…thum thủm (bởi chợt nhớ chuyện xưa trong dân gian thầy cúng bảo với thầy đồ như thế…!) Nay nghe Trần Mạnh Hảo chỉ tay 10 ngón, “Người Hà nội” tôi cũng bắt chước thầy cúng xưa…nói với 2 “nhà đại thơ đại danh đại sĩ đại tiến đại v.v…” – Trần Gia Thái và Nguyễn Sĩ Đại là thơ và lời bình của các chư vị nó cứ có cái mùi….(hết trích)

  4. Người San Jose says:

    Nếu tôi là Trần-gia-Thái,tôi cũng làm như hắn.
    Biết thơ của mình dỡ thì phãi thuê người chữi !
    Chữi hay khen đều tạo nên sự chú-ý giống nhau !
    Đôi khi chữi bới lại có hiệu-quả vượt hẵn lời khen.
    Vì vậy,thuê người chữi phãi trã nhiều tiền hơn.
    Và,thợ chữi có bản-lãnh thì không có nhiều.
    Cái gì hiếm thì giá phãi đắt.
    Chiêu này xưa rồi,nhưng rất công-hiệu đễ gợi sự chú-ý.
    Đáng khen Trần-gia-Thái.
    Tiếp-thị rất khôn-ngoan.
    Hiệu-quã thấy rõ-ràng.
    Nhưng,rất là bẩn-thĩu.
    Và,cũnh hơi tục-tĩu !
    NSJ

  5. Sinh viên SG says:

    Những tay bồi bút ăn theo, nói leo chế độ này cũng sắp hết đát rồi. Dân khinh chúng nó như mẻ ấy, ai thèm đọc mấy quyển sách của chúng nó. Viết ra rồi đem tặng nhau là chính ấy mà. Giấy vụn bây giờ không có gái như ngày xưa, lúc đói kém nữa, chứ nếu có thì người ta nhận sách xong cũng đem bán lại cho mấy bà đồng nát thôi…

  6. văn thối thơ nát says:

    Văn thơ VN bây giờ “thối quá” nhỉ, bác Hảo ơi. Chúng ta phải sửa lại câu “Tức cảnh sinh tình, tức tình sinh thơ” thành “Tức cảnh sinh rồ, tức tiền sinh thơ” mất.
    Mà báo chí VN hổ lốn thế nhỉ, báo An ninh thế giới lại chẳng thấy nói gì đến an ninh thế giới cả, chỉ toàn những chuyện không đâu hoặc là “sân sau” của mấy anh nào đó muốn “tương” cái gì vào đó thì tương, bất cần biết nó thơm hay thối. Đúng là “treo đầu dê bán thịt chó”, tiền thuế của dân cứ tha hồ mà “sài” để tô vẽ cho nhau như chuyện công và quạ.

  7. Người San Jose says:

    Kính gỡi nhà viết phê-bình văn-học Trần-mạnh-Hảo.
    Nhờ ông bình bài thơ mà tôi mới vừa có cãm-hứng phọt ra.

    Gỡi Gió Phươnh Nam.

    Áo em hỡ cổ đường…tù.
    Anh mà không ngắm thiệt ngu vô cùng.
    Ngắm hoài cũng chẵng tiếc công.
    Em ly-dị chồng,anh sẽ…trốn luôn.
    Xa em thì cũng hơi buồn.
    Gần em thì sợ củi đòn hõi thăm.
    Chẵng là tri-kỷ,tri-âm.
    Mà sao khi đứng,khi nằm khó quên.
    Nếu như số-phận anh hên.
    Anh sẽ trúng số,đem tiền chuộc em.
    Da-ua cũng giống cà-rem.
    Thứ chua,thứ ngọt anh thèm cả hai.
    Bưng em bằng cả hai tay.
    Bốn mươi lăm ký, cỡ này vừa ngon.
    Em thơm,em ngọt,em giòn.
    Em bùi,em béo lại còn cay cay.
    Không bia,không rượu mà say.
    Sao em mơn-mỡn thế này hỡi em !
    Áo em hỡ cổ nhem thèm.
    Khiến cho thiên-hạ lèm-bèm khen,chê
    Đàn ông thấy gái không mê.
    Là gà bị thiến,là dê bị xiềng.
    Hỡơi ! Cái túi không tiền !
    Thấy áo hỡ cổ thêm điên cái đầu.
    Sao em lại nỡ trêu nhau ?
    Đễ áo hỡ cổ cho rầu lòng anh.
    Quả chanh,quả khế xanh xanh.
    Chua muốn vãi đái,mà anh cứ thèm.
    Muốn em mà chẵng được em.
    Thì anh thề sẽ không thèm…uống bia !
    Rượu Tây mới đũ sức…”phê”.
    Mới vơi nỗi nhớ,mới tê nỗi buồn.
    Tình em như lá khoai môn.
    Vừa trơn,vừa ngứa,vừa tròn,vừa to.
    Tình em như cái cẵng bò.
    Đá anh một phát gãy giò,lọi tay.
    Tình ơi ! Tổ mẹ nhà bay.
    Hại ta khỗ đến thế này chưa tha.
    Mai,ông luộc một con gà.
    Nhậu xong,ông chữi mả bà tình-yêu.
    Chữi xong,ông ngũ tới chiều.
    Xem áo hỡ cổ như diều đứt dây.
    Hỡ cổ ơi !
    Buồn-bã từ đây.
    Đễ anh thương tháng,thương ngày, thương năm.
    Ví dù em có bạc trăm.
    Không bằng em đẹp và văm tuyệt-vời.
    Thơ anh không đũ ý,lời.
    Người San Jose

  8. NSJ says:

    Trước khi viết phãi tự hõi mình:
    Ta đang cầm bút hay đang cầm củ cải ?
    Việt-cộng nó cầm củ cải là đúng rồi !
    Ta nhất-định không làm như vậy.
    Đúng không ?
    NSJ

Leave a Reply to Sinh viên SG