Chuyện tình giữa Hòa Thượng Liên Hoa và Công Chúa Long Thành có thật chăng? (1)
Tôi được một anh bạn cho một bài nói về chuyện yêu đương của Công Chúa Long-Thành đối với Thiền Sư Liên-Hoa. Chuyện thực, hư thế nào không biết, có điều là tác giả bài viết, viết không rõ ràng, làm người đọc có thể lầm lẫn giữa Công Chúa Long-Thành Ngọc-Tú và Công Chúa Bảo-Lộc Ngọc-Anh. Tôi có đưa ý kiến đó cho anh bạn tôi, và được anh bạn tôi cho biết là nhiều người bạn khác cũng có ý kiến đó, và anh biết tôi có đôi chút tài liệu nói về hai Công Chúa Long-Thành và Bảo-Lộc, nên đề nghị tôi tra cứu lại các tài liệu, hầu làm rõ sự phân biệt giữa hai vị Công Chúa.
Câu chuyện được đăng ở mạng lytuongnguoiviet trên Internet, dưới nhan đề « Đi tìm sự thật về chuyện tình hoàng gia ngang trái ». Tôi xin trích vài hàng của bài đó như sau :
«Chuyện tình đẹp bi thương – Chuyện Công chúa triều Nguyễn yêu đơn phương một nhà sư ».
« Chuyện nàng Công chúa triều Nguyễn là Hoàng nữ đệ tam Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh yêu đơn phương một vị nhà sư – thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt – sau được phong là Quốc sư – đã để lại nhiều huyền tích khiến người đời vừa xúc động cảm thương nàng công chúa, vừa bội phục một vị chân tu đắc đạo…
Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung. Trong số đệ tử này có một vị Hoàng cô Nguyễn Thị Ngọc Anh, đó là Thái trưởng công chúa Long Thành, chị ruột chúa Nguyễn Phúc Ánh, cô ruột của vua Minh Mạng. Hoàng cô cũng quy y và thọ Bồ Tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Trong những ngày theo học đạo, Hoàng Cô đã thầm yêu nhà sư. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên Hoàng Cô đã có ý định và tìm mọi cách ràng buộc duyên trần cùng với người con của Phật…
Tưởng rằng khi ôm hôn được bàn tay của Thiền sư thì mọi chuyện sẽ lắng xuống. Nhưng không ngờ, ngay đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của Thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện :
“THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình (dấu huyền) vui đạo mấy lần”.
Thiền sư Liên Hoa biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh nên đã dùng ngọn lửa để thức tỉnh và giáo hóa Hoàng Cô.
Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Sau khi làm lễ cúng thất tuần Hòa thượng Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết rằng bà sẽ ở lại chùa Đại giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng ngay ngày hôm sau, Hoàng Cô uống độc dược quyên sinh tại hậu liêu chùa Đại giác nhằm ngày mồng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823).
Hoàng cô Công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh chết theo Thiền sư để lại sự cảm động cho triều đình và nhân dân khắp vùng. Từ đó, ngôi chùa trở nên nổi tiếng và được các đời vua nhà Nguyễn chăm sóc đặc biệt.».
Hết trích.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói đến chuyện « Tình » nầy, nên tò mò, tôi lên Internet tìm những bài nói về chuyện « Tình » đó. Thôi thì có hàng chục bài, sao đi chép lại chuyện như đã được đăng ở mạng lytuongnguoiviet, với những Tựa khác nhau, như Chuyện tình công chúa triều Nguyễn với một nhà sư, hay Bi kịch tình yêu thảm thương nhất trong cung đình Việt Nam…, hay cả trên Wikipedia !…
Sau khi tìm đọc qua những bài trên, ở Internet, tôi tình cờ thoáng thấy một cuốn Tiểu Thuyết có nhan đề là Chuyện tình của Liên Hoa Hoà Thượng– CTLHHT của ông Thích Như Điển. Thấy là lạ, nên tôi đọc sơ qua bài giới thiệu của cuốn đó, thì thấy ông Như Điển, tự nhận là đã lấy ý trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong – LSPGĐT, của Nguyễn Hiền Đức và cuốn Thiền Sư Việt Nam – TSVN, của Thích Thanh Từ.
Chuyện « Tình » ở chốn thiền môn hay ở nơi cung cấm, tôi e cũng có, vì chúng ta cũng chỉ là những con người, mà đã là con người thì có tình, có cảm, nhận biết được cái đẹp của thiên nhiên, cái hay của một tâm hồn cao thượng… Nhưng chuyện « Tình » trình trên lại chỉ về hai nhân vật lịch sử rất khả kính và rất nổi tiếng là Thiền Sư Hòa Thượng Thiệt-Thành – Liễu-Đạt – Liên-Hoa, một vị Thiền Sư, vì lý tưởng của mình, mà đã ẩn mình tu học ở chốn Thiền Môn, và Công Chúa Long-Thành, một vị Công Chúa, vì lý tưởng của mình, mà giữ tiết nghĩa cho đến lúc già yếu, cho đến lúc lâm chung, nên hiếu kỳ, tôi đã nhờ một người bạn của gia đình tôi, tìm mua giúp cho tôi, tại Việt Nam, cuốn LSPGĐT, in năm 1995. Vì sách ra đã lâu ngày, nên không còn bán tại các tiệm sách, làm anh bạn tôi vất vả cả mấy tháng trời mà cũng tìm không ra, sau cùng anh đã sao chụp lại rất tỷ mỷ cuốn đó và gởi cho tôi. Ở đây, tôi xin chân thành cảm tạ công ơn của anh bạn chí thành đó.
Để cố gắng làm sáng tỏ, chuyện « Tình » trên, tôi xin chia bài nầy theo các mục như sau :
- Phân biệt rõ ràng hai vị Công-Chúa Long-Thành Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
- Chuyện của Hòa-Thượng Liên-Hoa trong cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
- Cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng của Thích Như Điển.
- Chánh sử (Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Chánh Biên - ĐNTLCB, Đại Nam Liệt Truyện - ĐNLT), Khâm Định Đại Nam Điển Lễ Sự Lệ – KĐĐNĐLSL, Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả – NPTTP, cùng những tài liệu lấy ở Bulletin des Amis du Vieux Huế – BAVH.
- Vài sự kiện lịch sử.
- Kết luận.
I – Công-Chúa Long-Thành Nguyễn-Phước Ngọc-Tú và Công-Chúa Bảo-Lộc Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
Theo Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả – NPTTP (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1995, Huế), trang 226, 227 và trang 261, 262, thì :
1) Công Chúa Long-Thành, húy Nguyễn-Phước Ngọc-Tú.
Bà là trưởng nữ của Hưng Tổ (Nguyễn-Phước Luân), chị cùng mẹ với Thế Tổ (Nguyễn-Phước Ánh), sinh năm Kỷ-Mão (1759). Chồng là Cai Cơ Lê Phúc Điển. Năm Quý-Mão (1783), khi đánh nhau với quân Tây Sơn ở đảo Diệp Thạch, Phúc Điển bị địch bắt và bị giết.
Khi chồng mất, Bà còn trẻ tuổi, giữ tiết. Bà từng bảo rằng « Điển làm bầy tôi biết giữ nghĩa mà chết, ta là vợ há đổi tiết sao, khi nào lấy lại Kinh Đô cũ ta sẽ xuất gia thờ Phật ».
Đầu đời Gia-Long, Thế-Tổ làm nhà tại làng Dương Xuân (Thừa-Thiên) cho Bà ở. Bà thường xin cắt tóc đi tu, nhưng Thế-Tổ không vui.
Bà mất vào tháng 11 năm Quý-Mùi (1823), thọ 65 tuổi.
Vì Bà vô tự, nên Thường-Tín Công Nguyễn-Phước Cự, con của Thế-Tổ, trông coi việc thừa tự.
[Duới triều Gia-Long, vì Bà là chị của Thế-Tổ, nên người ta gọi Bà là Trưởng Công Chúa. Dưới triều Minh-Mạng, vì Bà là công chúa của triều trước và cũng là cô ruột của Thánh-Tổ, nên người ta gọi Bà là Thái Trưởng Công Chúa hay còn gọi là Hoàng Cô. (Xin xem thêm ở phần IV, Chánh Sử ở dưới). Cũng theo NPTTP thì đời nhà Hán, chị và em gái của vua gọi là Trưởng Công Chúa, đời nhà Đường, cô của vua gọi là Thái Trưởng Công Chúa.]
2) Công-Chúa Bảo-Lộc húy Nguyễn-Phước Ngọc-Anh.
Bà là con gái thứ ba của Thế-Tổ. Bà sinh năm Canh-Tuất (1790). Năm Mậu-Thìn (1808), Bà lấy chồng là Vệ-Uý Trương Phúc Đặng, con trai của Cai-Cơ Trương Phúc Tuấn. Năm Đinh-Hợi (1827), Phúc Đặng vì bắt người trái phép, bị cách chức nghị tội, Đặng sợ, tự tử mà chết. Về sau được khai phục lại nguyên hàm.
Bà mất năm Canh-Tuất (1850), thọ 61 tuổi.
Bà có 1 người con trai và 3 người con gái.
II – Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức.
1) Tác giả.
Theo amida.vn (Nam Mô A Di Đà Phật) thì Nguyễn Hiền Đức, Cử Nhân Giáo Khoa Sử Học, năm 1973, (Đại Học Văn Khoa Sàigòn) là một nhà nghiên cứu lịch sử, nhất là về Phật Giáo. Ông có làm Giảng Viên tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam (thành phố HồChíMinh). Ông đã cho ra nhiều tác phẩm nghiên cứu về Phật Giáo như Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (từ khi du nhập đến đời Lý), Lịch Sử Phật Giáo Đàng Ngoài (1592 – 1801), Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong (1558 – 1802)…
2) Cuốn Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong – LSPGĐT.
Cuốn nầy gồm 2 tập, tập I có 386 trang, tập II có 490 trang, tổng cọng (cộng) 876 trang, in năm 1995 do nhà Xuất Bản Thành Phố HồChíMinh ấn hành. Là một tài liệu nghiên cứu về Phật Giáo Đàng Trong khá công phu. Sách có cho 31 tài liệu tham khảo và trích dẫn (22 bằng chữ Việt, 9 bằng chữ Hán). Trong những trang viết thì đôi khi có dẫn chứng các tài liệu, đôi khi có ghi chú ở phần cuối trang, như khi bàn về ngày sinh và ngày mất của Tổ Nguyên-Thiều (trang 101, tập I), hay là bàn về chuyện của Tổ Mật-Hoàng làm Tăng-Cang ở chùa Thiên Mụ (trang 260, tập I) …
Tôi không đọc hết cả cuốn nầy, mà chỉ đọc những đoạn nói về Hòa Thượng Liên-Hoa hay Thiền Sư Thiệt-Thành – Liễu-Đạt, cùng các chùa Thiên Mụ, Quốc Ân (Huế), Từ Ân, Khải Tường (Sàigòn), Đại Giác (Biên Hòa).
Tên của Hòa Thượng Liên-Hoa được nhắc đến một vài nơi của cuốn sách, nhưng chuyện chính của Hòa Thượng thì được viết trong tập II, từ trang 231 liên tục đến trang 235. Không cho xuất xứ (nguồn tài liệu). Cuối trang 235 có hình chụp Long Vị của Hòa Thương Liên-Hoa và Thần Vị của Hoàng Cô kề sát nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân (1) (để làm bằng chứng chăng ?).
Chuyện xin trích tóm tắt như sau :
« Khoảng những năm 1789, trước khi xây xong thành Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần tạm trú tại chùa Từ Ân; Thái Hậu, Vương Phi, Công Chúa tạm trú tại chùa Khải Tường do Hòa Thượng Liên-Hoa làm thủ tọa (2), và Thái Trưởng Công-Chúa Long-Thành đã thọ giới với Hòa Thượng.
Năm 1805, khi Thái Trưởng Công Chúa lên đường về Kinh Đô, Hòa-Thượng Liên-Hoa có nhờ Công Chúa lo trùng tu chùa Quốc Ân, vì chùa nầy là do Tổ Nguyên-Thiều xây dựng từ năm 1683.
Năm 1817, Hòa-Thượng Liên-Hoa được cử làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ và làm pháp sư ở nội cung. Trong thời gian nầy, Hòa Thượng Linh-Nhạc, ở chùa Từ Ân, lo cho Hòa Thượng Liên-Hoa không tránh khỏi mối dây ràng buộc trần duyên, vì giảng giải trong nội cung, gần nữ giới. Năm 1821, Hòa Thượng Linh-Nhạc mất, nhưng mãi đến năm 1823, Hòa Thượng Liên-Hoa mới biết tin, và nhân đó, lấy cớ xin từ nhiệm ở chùa Thiên Mụ, để về làm trú trì chùa Từ Ân.
Vào tháng 10 năm 1823, Hoàng Cô vâng lệnh vua (Minh-Mạng) vào Gia Định để cúng dường chùa Từ Ân và chùa Khải Tường. Hòa Thượng Liên-Hoa nghe tin, muốn lánh mặt Hoàng Cô, nhưng Hòa Thượng Viên-Quang khuyên cứ tiếp Hoàng Cô. Trong thời gian Hoàng Cô ở chùa Từ Ân, mỗi sáng Hòa Thượng Liên-Hoa đều tiếp kiến và hầu chuyện với Hoàng Cô, cho đến ngày thứ ba, thì không biết Hòa Thượng Liên-Hoa đi đâu mất. Hoàng Cô cho người tìm kiếm, nhưng vô hiệu quả. Hoàng Cô trầm tư, buồn bã, không màng ăn uống trong ba ngày. Vì sợ Hoàng Cô đi đến tuyệt vọng có hại cho chùa, thị giả Mật Đĩnh đã cho Hoàng Cô biết là Hòa Thượng Liên-Hoa đã đến chùa Đại Giác ở cù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất trong hai năm. Hoàng Cô báo cho quan trấn thủ Gia Định là sẽ đến chùa Đại Giác để cúng dường.
Đến chùa Đại Giác, sau khi lễ Phật xong, Hoàng Cô đến tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa, xin diện kiến, nhưng Hòa-Thượng không trả lời. Hoàng Cô quỳ xuống thưa, nếu Hòa Thượng không tiện ra tiếp, thì xin Hòa Thượng cho thấy bàn tay, thì cũng đã hân hoan mà ra về. Im lặng trong vài phút, Hòa-Thượng đưa bàn tay ra ở cửa nhỏ, nơi đưa thức ăn vào tịnh thất. Hoàng Cô vội ôm lấy bàn tay hôn nhẹ một cách trìu mến, rồi sụp xuống lạy ba lạy và khóc sướt mướt…
Đến giữa đêm, tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy và xác thân của Hòa Thượng cũng cháy tiêu. Mọi người đang bàn tán xôn xao, có người phát hiện được bài kệ Niết Bàn viết bằng mực đen trên vách chánh điện (3) :
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần,
THÀNH không vẩn (dấu hỏi) đục vẫn trong ngần.
LIÊU (thiếu dấu ngã chăng ?) tri mộng huyễn chơn như huyễn,
ĐẠT đạo minh (không dấu) vui đạo mấy lần.
Phía dưới có đề : Sa môn Thiệt-Thành hiệu Liễu Đạt.
Sau khi làm lễ nhập tháp Hòa Thượng Liên Hoa xong, Hoàng Cô rất buồn bã và cho biết sẽ ở lại chùa Đại Giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng, ngay ngày hôm sau đó, Hoàng Cô uống độc dược tự tử tại hậu liêu chùa Đại Giác, ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý-Mùi (1823), thọ 65 tuổi. (Có lẽ Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó cũng hơn 60 tuổi) (4).
Thiền Sư Bổn-Giác, trú trì chùa Từ Ân và chư tăng lo lễ nhập tháp Hòa-Thượng Liên-Hoa, cùng lễ an táng Hoàng Cô (5) và thỉnh long vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và linh vị Hoàng Cô về thờ ở chùa Từ Ân. Long vị của Hòa Thượng thờ ở bàn thờ Tổ, linh vị của Hoàng Cô thờ ở bàn thờ bá tánh. Nhưng sau đó bỗng nhiên xảy ra nhiều sự cãi vã, xào xáo trong chùa, nên Hòa Thượng Viên-Quang đề nghị với Thiền Sư Bổn-Giác đưa linh vị của Hoàng Cô thờ chung với long vị của Hòa Thượng Liên-Hoa ở bàn thờ Tổ. Quả nhiên sau khi làm như thế, trong chùa Từ Ân trở lại bình thường…(6) ».
Hết trích.
Đó là tóm tắt 5 trang viết về Hòa Thượng Liên-Hoa trong cuốn LSPGĐT. Gạch dưới ở những nhóm chữ trên là do tôi làm.
3) Ý kiến của tôi :
a) Nguyễn Hiền Đức đã khai thác tài liệu thiếu chính xác.
- Tập II, trang 257, 258 của LSPGĐT cho : « Tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH) năm 1915 có viết như sau : “Công chúa Ngọc Anh, chị của vua (Minh Mạng) còn trẻ và tiết liệt, khi Tây Sơn khởi nghĩa đã đến tu ở chùa Đại Giác, giữ cuộc sống cô độc trầm tư mặc tưởng và tu hành hết sức sùng mộ”.».
Tôi đã rà cả 4 tập Bulletin des Amis du Vieux Huê, của năm 1915 mà không thấy nói về chuyện đó. Tôi cho rằng tác giả viết lầm năm, hoặc năm bị in sai, tôi mới tìm trong Index analytique et Résumé des matières (Bảng tra phân tích và mục lục) của BAVH, năm 1924, thì không thấy có những tên Ngọc-Anh, Bảo-Lộc, Đại Giác (có chữ Đại Giác nói về điện thờ Phật ở chùa Diệu Đế, chứ không nói đến chùa Đại Giác ở Biên Hòa), nhưng có thấy những tên Bổn Giác ở BAVH, 1915, tập 3 (Juillet-Septembre), trang 315-316; Mật-Hoàng ở BAVH, 1915, tập 2 (Avril-Juin), trang 186 và tập 3, trang 311-314; Liên-Hoa ở BAVH, 1915, tập 3, trang 309, 310; Long-Thành ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, 309, và ở BAVH, 1915, tập 4 (Octobre-Décembre), trang 341-348; Ngọc-Tú cũng ở BAVH, 1915, tập 3, trang 308, và ở BAVH, 1915, tâp 4, trang 341-348.
Mặt khác, « khi Tây Sơn khởi nghĩa » là năm nào ? vào những năm 1780 chăng ? Lúc đó Công Chúa Ngọc-Anh chưa sinh ra (sinh năm 1790), thì làm gì có « giữ cuộc sống cô độc trầm tư mặc tưởng và tu hành hết sức sùng mộ ». Cho đi đến 1801, thì Công Chúa Ngọc-Anh cũng chỉ mới 11 tuổi !
- « Thái Hậu, Vương Phi, Công Chúa tạm trú tại chùa Khải Tường do Hòa Thượng Liên-Hoa làm thủ tọa » (xem hàng gạch dưới ở (2), phần trên) là sai. Thánh-Tổ sinh ở làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định, năm 1791, cũng vì thế sau nầy, cho chỗ ấy là đất thiêng và để cám ơn Trời Phật, nên năm Minh-Mạng thứ 13 (1832), Thánh-Tổ cho xây chùa Khải Tường ở tại đó. (Xem ĐNTLCB, Đệ Nhị Kỷ, Quyễn LXXXIII. Thực lục về Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế : « Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], mùa thu, tháng 9… ». Chuyện xây cất chùa Diệu Đế ở Huế, sau nầy cũng thế (nơi sinh của Hiến-Tổ).
- Tập II, trang 298, 299 của cuốn LSPGĐT cho : « … Tăng Cang Tiên-Giác – Hải Tịnh (huý Nguyễn Tâm Đoan) bị tội chưa biết tội gì, nên bị cách chức Tăng Cang, bị đày làm việc nặng ở chùa (Thiên Mụ)…, mãi đến khi vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841), Thiền Sư Hải-Tịnh mới được vua tha tội và phục hồi chức Tăng Cang… Tăng Cang Hải-Tịnh là người ở Gia Định…, có thể Tổng Trấn Lê Văn Duyệt đề nghị với vua Minh Mạng cho Thiền Sư Hải-Tịnh làm Tăng Cang chùa Thiên Mụ… Vì vậy khi Lê Văn Khôi nổi loạn, vua Minh Mạng kết tội Tăng Cang Hải-Tịnh, cách chức Tăng Cang và bắt làm việc nặng ở chùa Thiên Mụ… ».
Chuyện nầy là sai ! Sao lại kéo Lê Văn Khôi vào đây ? Sự thật là, theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ nhị kỷ, Quyển CCVII, tháng 10 và 11 cho : « Kỷ Hợi, Minh Mệnh năm thứ 20 [1839], mùa đông, tháng 10… Sư chùa Thiên Mụ có tên Nguyễn Văn Huấn vì ghen giết người. Bộ Hình và viện Đô Sát xét hỏi qua một năm không khám phá ra manh mối. Đến nay Khoa Đạo là Nguyễn Sĩ Đăng, Lê Tập bí mật đi dò xét tìm được tình trạng, đều thưởng cho mỗi người 10 lạng bạc và gia một cấp. Khi án giao xuống đình thần xét, Huấn bị xử trảm hậu; sư trưởng Nguyễn Tâm Đoan, cách bỏ chức trụ trì, chuẩn bắt phải làm việc nặng nhọc tại chùa ấy. ».
Sau nầy Hòa Thượng Hải-Tịnh được phục hồi chức Tăng Căng vào năm nào, thì tôi không rõ, nhưng theo Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1993), Tập 8, trang 201, thì « Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), chuẩu lời tâu : Tăng Cang chùa Giác Hoàng là Nguyễn Tâm Đoan (Hòa Thượng Hải-Tịnh) chuẩn chiếu như lệ Nguyễn Nhất-Định (Hòa Thượng Nhất-Định), tháng cấp 3 quan tiền, 1 phương gạo…».
- Ngay cả chuyện Hòa Thượng Liên Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ cũng là một nghi vấn. Trong cuốn LSPGĐT không cho một chứng cứ lịch sử nào hết. Chuyện nầy, phải đến các chùa Thiên Mụ và Quốc Ân, để xin khảo sát tường tận các tài liệu đang tồn trữ ở chùa, mới có thể biết thực hư được. Linh Mục Léopold Cadière là một người rất hiếu kỳ, một nhà thông thái lại có trong tay rất nhiều tài liệu về các chùa Thiên Mụ, Quốc Ấn, nếu Hòa Thượng Liên-Hoa có làm Trú Trì ở chùa Thiên Mụ, thì có lẽ trong bài « La Pagode de Quấc Ân » (Xin xem phần IV, Chánh sử, ở dưới), Linh Mục Cadière đã đề cập đến.
- Ngày sinh, ngày mất của Hòa Thượng Mật-Hoằng (LSPGĐT, Tập II, trang 272) cũng sai, nhưng ở đây, tôi không bàn tới, vì không phải đề tài của bài viết.
- Ngoài ra về chuyện Hiệp Đức Hầu Nguyễn-Phước Thuần trong LSPGĐT (Tập II, trang 128-129) cũng bị Trần Đình Sơn phản bác như sau :
« Điều rất đáng ngạc nhiên là trong sách Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong ( LSPGĐT ), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiền Đức công bố sự việc cuối đời Hiệp Đức Hầu, hoàn toàn khác hẳn với sử sách xưa nay… Phát hiện mới lạ trên , không biết tác giả căn cứ theo truyền thuyết nhân gian, ( Bản thảo : lược sử chùa Sắc tứ Minh Thiện của giáo thọ Huệ Đăng, biên soạn năm Mậu Thìn 1988 ) hay có cứ liệu xác thực chứng minh ? Nên nhớ, Hiệp Đức Hầu đối với Hoàng tộc Nguyễn là một vị thân vương danh tiếng. Võ công của ông được xếp vào thượng đẳng thời các chúa, khi ông mất, Hiền Vương ( cha ) đã làm quốc tang theo tước Công. Dòng dõi của ông hiển đạt cho đến cận đại. Nếu sự kiện cuối đời của ông “ xuất gia – viên tịch “ như trong LSPGĐT viết, có lẽ nào quốc sử lẫn tộc phổ chẳng ghi lại một dòng để cho đời sau hay biết. [Nguồn : giaodiemonline] ». [LSPGĐT nói Ông đã lập chùa Minh Thiện ở Khánh Hòa, và sau đó an nhiên viên tịch... và được nhập tháp trong khuôn viên chùa nầy...].
Thật thế, chuyện Bà Nguyễn-Phước Ngọc-Cầu 球 , con của Dận Quận Công Nguyễn-Phước Điền 氵田 , có lập chùa Phước Thành ở An Cựu, Huế, đã được sử quán nhà Nguyễn (Đại Nam Liệt Tuyện Tiền Biên) ghi. Bà được phong tặng là Tuệ-Tĩnh (có nơi cho là Huệ-Tĩnh) Thánh Mẫu Nguyên Sư. Ở Huế, người ta gọi là chùa Bà Sư. Tháp của Bà nằm ở vườn, sau chùa.
Đại Nam Thực Lục Tiền biên. Quyển V. Thực lục về Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế (Hạ), cho : « Khi (Hiệp Đức Hầu) dẹp xong giặc trở về, tuyệt hẳn không cho đàn bà con gái yết kiến, dựng am nhỏ thờ Phật, thỉnh thoảng ra chơi, bàn đạo thuyết pháp để tự vui. Đến đấy bị bệnh đậu mà mất, mới 23 tuổi. ». NPTTP cho thêm, ở trang 144 : « Bà vợ của Ông húy là Nguyễn Thị Hưng, tiểu sử không rõ. Bà mất ngày 13 tháng 2 âm lịch (năm ?), mộ táng cùng một chổ với Ông, trong khuôn viên nhà thờ của phòng. ».
Vậy Nguyễn Hiền Đức đã khai thác tài liệu thiếu chính xác, và đôi khi, chưa tìm ra tường tận các tài liệu lịch sử, thì lấy giả thuyết riêng của mình để giải thích những sự kiện lịch sử. Thật đáng tiếc cho một công trình nghiên cứu về lịch sử !
b) Một số tài liệu quan trọng mà Nguyễn Hiền Đức dùng.
Một số tài liệu quan trọng mà Nguyễn Hiền Đức dùng, không nới đến Hòa Thượng Liên-Hoa. Như Việt Nam Phật Gíao Sử Lược của Thượng Tọa Thích Mật-Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của Hòa Thượng Thích Thiện-Hoa…
c) Bài kệ (xem hàng gạch dưới ở (3), phần trên).
Bài kệ đó, nếu là do Hòa Thượng Liên-Hoa viết thật, thì Hòa Thượng cũng đã viết trước khi Hoàng Cô đến chùa Đại Giác, vì khi Hoàng Cô đến chùa, thì Hòa Thượng đã nhập thất, và ngay sau đó, tịnh thất của Hòa Thượng đã phát hỏa. Không lẽ, trước khi tịnh thất phát hỏa, Hòa Thượng đã lén ra chánh điện, để viết bài kệ ?
Mặt khác, bài kệ đó là một bài thơ tiếng Việt. Không biết vào thời đó (1823), Hoà Thượng viết bài kệ bằng chữ Quốc Ngữ (mẫu tự Latinh), hay bằng chữ Nôm (viết dựa theo chữ Hán) ? Những Thiền Sư vào thời của Hòa Thượng Liên-Hoa hay là những đệ tử của các vị, đều viết bài kệ theo chữ Hán. Điều nầy làm cho ta nghi ngờ bài kệ trên là của Hòa Thượng Liên-Hoa. Rất có thể bài kệ trên là do người đời sau viết.
d) Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó cũng trên 60 tuổi (xem hàng gạch dưới ở (4) phần trên).
Trên 60 tuổi là bao nhiêu tuổi ? 61, 62 ? Cho đi 62 tuổi, và nếu Hòa Thượng Liên-Hoa mất vào năm 1823, thì Hòa Thượng sinh năm 1761 (hay 1762, tính theo tuổi ta). Theo BAVH 1915, tập 3 (juillet-Septembre), Linh Mục Léopold Cadière cho ở trang 309 : « Sau khi chồng (Lê Phúc Điển) mất (1783), Công Chúa Long-Thành thường hay đi lễ (fréquenter) ở chùa Từ Ân và được Trú Trì (Supérieur) Liên-Hoa, còn được gọi là Thiệt-Thành, hay Liễu-Đạt khuyên nhủ thọ Ngũ Giới. ».
Vậy Hòa Thượng Liên-Hoa làm Tọa Chủ hay Trú Trì chùa Từ Ân lúc chỉ mới 22 hay 21 tuổi (1783 – 1761 = 22). Một nhà sư còn quá trẻ như thế, mà được chỉ định làm Tọa Chủ, hay Trú Trì một ngôi chùa lớn như chùa Từ Ân (trong LSPGĐT, Tập II, trang 268, Nguyễn Hiền Đức lại ghi là làm Thủ Tọa, lo điều khiển tăng chúng cho cả hai chùa Từ Ân và Khải Tường), là một chuyện khó có thật, lúc bấy giờ. Nói Hòa Thượng Liên-Hoa lúc đó (1823) có khoảng 70 hay trên 70 tuổi, thì có thể đúng hơn.
e) An táng Hoàng Cô (xem hàng gạch dưới ở (5), phần trên).
Nếu chư tăng an táng Hoàng Cô tại Biên Hòa, thì cớ sao trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên ĐNTLCB, Đệ nhị Kỷ – Quyển XXIV, Thực lục về Thánh-Tổ Nhân Hoàng Đế, tháng 11, ghi « Quý mùi, năm Minh Mệnh thứ 4 [1823], mùa đông, tháng 11… Thái Trưởng Công Chúa là Ngọc-Tú chết … bèn sai Kiến An Công Đài cùng Diên Khánh Công Tấn hội đồng với bộ Lễ mà trị tang. Nghỉ chầu 5 ngày. Tứ tế một đàn… Tặng Long-Thành Thái Trưởng Công Chúa, thụy Trinh-Tĩnh… Ngày táng, vua nghỉ chầu, mặc áo trắng đi đưa…».
Còn nếu lấy giả thuyết là đưa Linh-Cữu của Hoàng Cô từ Biên Hòa về táng ở Thuận Hóa thì, đi đường bộ hay đường thủy, lúc bấy giờ, cũng phải mất hơn một tháng, như thế làm sao an táng Hoàng Cô tại Đình Môn, cho kịp trong tháng 11 năm Quý Mùi như ĐNTLCB đã cho ?
Ở đây cũng xin mở ngoặc. Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất kỷ, quyển XXV (Gia Long năm thứ 3 [1804]) cho : « Mùa thu, tháng 7… Định hạn ngày đệ trạm. Phàm phái người chuyển đệ công văn theo trạm, từ Gia Định đến Kinh là 13 ngày, từ Bắc Thành đến Kinh là 5 ngày, đúng hạn thì được thưởng tiền theo thứ bực khác nhau. (Gia Định thưởng 5 quan, Bắc Thành thưởng 3 quan). Chậm 1, 2 ngày không thưởng, chậm 3, 4 ngày phạt 30 roi. ». Thời bấy giờ, đi ngựa chạy công văn đã như thế, huống hồ là đưa linh cữu của một công chúa !
f) Chuyện tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy.
Chuyện tịnh thất của Hòa Thượng Liên-Hoa phát cháy và thân xác bị thiêu, hay chuyện Hòa Thượng được hỏa thiêu đi nữa, cùng năm mất của Hòa Thượng (1823) cũng không chắc chắn gì cả. Không có một chứng cứ lịch sử nào ở trong cuốn LSPGĐT, để chứng minh điều đó.
g) Xào xáo trong chùa… trở lại bình thường (xem gạch dưới (6) ở phần trên)
Đây là một chuyện dị đoan, mà chắc độc giả cũng đồng ý với tôi, là khó mà tin như thế được.
h) Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành (xem phần gạch dưới (1) ở phần trên).
LSPGĐT không cho biết những chữ được viết trên Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa (thật đáng tiếc !), mà chỉ cho biết những chữ được viết trên Thần Vị của Công Chúa Long-Thành như sau : « Thích môn hộ giáo, Hoàng Cô thọ bồ tác giới, pháp danh Tế-Minh, tự Thiên-Nhựt, chi vị ». Có lẽ ngày mất của Công Chúa mà LSPGĐT cho đã lấy ở trên Thần Vị nầy.
Chính vì Long Vị của Hòa Thượng và Thần Vị của Công Chúa được đặt kề nhau trên bàn thờ Tổ là một chuyện « lạ », nên đã sinh ra chuyện « tình » mà Nguyễn Hiền Đức đã kể trên.
Theo tôi, khi đi nghiên cứu ở chùa Từ Ân, Nguyễn Hiền Đức phát hiện Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa kề bên Thần Vị của Hoàng Cô ở bàn thờ Tổ, nên mới lấy làm « lạ » và đã hỏi các sư hiện đang tu học ở chùa hay các bổn đạo của chùa hay bà con đang ở xung quanh chùa về chuyện « lạ », để tìm hiểu nguồn gốc. Nhưng các nhà sư, các bổn đạo, các bà con mình, không những ngày nay, mà có thể là từ sau năm 1945 (tôi chỉ ước đoán) cũng cho là « lạ », nên đã có người muốn giải thích cho hợp tình, hợp lý, như chuyện « Trầu Cau » hay chuyện « Vọng Phu », mà sinh ra chuyện « tình » ở trên. (Xin xem giải thích của tôi, ở phần IV, Chánh Sử, ở dưới).
Vì ăn trầu, cau với vôi, nước miếng hóa ra đỏ là một chuyện « lạ » (thật ra, đây chỉ là một phản ứng hóa học), rồi bà con mình cố gắng giải thích, từ đó ta đã có những chuyện « Trầu Cau » (có nhiều bản khác nhau), và rồi có những câu ca dao rất thơ mộng như :
« Có trầu mà chẳng có cau,
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.».
Có nhiều tảng đá có hình giống như một thiếu phụ bồng con. Bà con mình cũng lấy làm « lạ », rồi đặt ra những chuyện « Vọng Phu » (có nhiều bản khác nhau), và rồi cũng có những câu thơ trữ tình như :
« Thương ai tấc dạ vàng son,
Bế con lên đứng đầu non đợi chồng.
Trăm năm vẹn chữ tâm đồng,
Ngàn năm hóa đá tạc lòng trung trinh ». (Vũ Thanh).
i) Tạm kết luận.
Vì thấy Long Vị của Hòa Thượng Liên-Hoa và Thần Vị của Công Chúa Long-Thành được đặt kề nhau ở bàn thờ Tổ, tại chùa Từ Ân, mà không tìm rõ nguyên nhân, nên chuyện của Hòa Thượng Liên-Hoa và của Công Chúa Long-Thành, được kể trong cuốn LSPGĐT, chỉ là một giai thoại. (Xin xem giải thích của tôi, ở phần IV, Chánh Sử, ở dưới). Ngay cho chuyện tịnh thất bị cháy, nhục thể của Hòa Thượng Liên-Hoa bị thiêu cũng chỉ là những nghi vấn.
Cũng vì có chuyện nầy ở cuốn LSPGĐT mà hai nhân vật lịch sử đã được dân chúng, giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cùng cả một dòng họ tôn kính, bị phạm đến thanh danh, đạo đức. Thật là một điều đáng tiếc ! (Xin xem trên Internet, có rất nhiều sách, bài viết dựa theo cuốn LSPGĐT, để phạm đến thanh danh của hai vị, tuy lời lẽ có phần ôn tồn và tỏ ra thông cảm).
4) Cuốn Thiền Sư Việt Nam của Thích Thanh Từ.
Trong cuốn nầy, tác giả tự nhận là về phần Thiền Sư Thiệt-Thành – Liễu-Đạt – Liên-Hoa, tác giả đã trích trọn ở cuốn LSPGĐT của Nguyễn Hiền Đức. Thật thế, ở phần nầy, trong sách Thiền Sư Việt Nam, mỗi chữ, mỗi câu đều giống hệt trong cuốn LSPGĐT.
Sở dĩ tôi đưa cuốn TSVN vào đây vì ông Như Điển có đề cập tới trong cuốn tiểu thuyết của ông ta.
(còn tiếp)
© Nguyễn Vĩnh Tráng
© Đàn Chim Việt
Cho dù chuyện tình của Liên Hoa Hòa Thượng có thật hay không, khi đọc xong tôi cũng cảm động cho mối tình của công chúa qua lời diễn tả của người viết lại câu chuyện :
“Hoàng Cô vội ôm lấy bàn tay hôn nhẹ một cách trìu mến, rồi sụp xuống lạy ba lạy và khóc sướt mướt…”
Xin có bài thơ cảm tác truyện tình “Liên Hoa Hòa Thượng”.
Hoàng Cô Tình Sử
Dưới đáy mộ sâu……
Ta gọi hồn người yêu dấu.
Ngài Liên Hoa, người ẩn tích nơi nào?
Ta nhớ người, hồn vẫn cứ lao xao.
Ta đau khổ dưới chín tầng địa ngục
Nơi cõi này thân ta giờ rữa mục,
Người mất đi, linh hồn được thăng hoa
Người chẳng tiếc cuộc sống cõi ta bà
Về cõi Phật, tâm linh người an lạc.
Ta tủi hờn cho hồng nhan phận bạc,
Sống nơi đây, chưa giây phút an bình,
Ta yêu người bằng cả khối tình trinh
Ta đau khổ trong tình yêu vụng dại.
Quá ngu ngơ, đưa người vào oan trái
Đường nào ra? Ta chẳng biết hướng đi?
Ta lanh quanh, mất cả tuổi xuân thì.
Người đạo hạnh.
Ta : kẻ trần phàm tục,
Bể trầm luân, ta đi tìm hạnh phúc.
Kiếm sai đường, ta lạc bước trần gian .
Mối tình câm thật quá đỗi gian nan
Ta lầm lỡ, đưa người vào biển khổ.
Ta sám hối…
Nhưng cửa trời không rộng mở
Thói trăng hoa, chẳng hiển thị bao giờ!
Linh hồn ta đang vất vưỡng bơ vơ
Tuy bài vị được gần người yêu dấu.
LXQuỳnhNhư June 13-2012
Kính thưa Quý Vị Độc Giả,
Tôi rất lấy làm hân hạnh, được Quý Vị chiếu cố dến bài viết của tôi. Nhưng nếu tôi không lầm, thì tôi có cảm tưởng là Quý Vị chưa đọc bài viết của tôi mà chỉ liếc qua cái Tựa, và đã cho bài viết của tôi với các bài viết tên mạng Internet, có cùng chung một chiều hướng là chuyện “Tình”.
Bài viết của tôi không cùng chiều hướng với các bài viết khác, tuy có Tựa gần gần giống Tựa của bài viết khác.
Bài của tôi không có chủ đích « Bút Chiến », mà « Thông tin đa chiều ». Bài của tôi không phải là chuyện “Tình”. Bài nầy có ý lấy lại sự thật lịch sử, và lấy lại Thanh Danh cho Hòa Thượng Liên-Hoa và Công Chúa Long-Thành, trong khi các bài khác trên mạng Internet thì đưa ra một chuyện “Tình” không có thật trong lịch sử.
Kính mong Độc Giả chiếu cố đến bài của tôi, và sau khi đã kiên nhẫn đọc xong, nếu có thể, kính xin cho tôi quý ý kiến, phê bình, đề tôi được học hỏi thêm, thì tôi lấy làm hân hạnh lắm.
Kính xin đa tạ.
Kính,
Nguyễn Vĩnh-Tráng.
Thưa ông tác giả Nguyễn Vĩnh-Tráng
Bài viết của Ông cũng là một đóng góp như thêm một ngọn nến soi rọi thêm về “chuyện tình” tuyệt đẹp của Hoàng Cô yêu thầm. Nhưng dù sao thì đây cũng là câu chuyện cả hàng năm trước được ghi lại, có thể đã tam sao thất bổn, thực hư hư thực khó tường, đọc cho biết thì còn được, chứ “bút chiến” thì xin hai chữ bằng an!
Chuyện ngay trước mắt với hình ảnh còn ghi rõ lồ lộ “Bồ Tát bịThiêu” chỉ cách nay 50 năm mà người ta còn cố tình đánh lận con đen (tự thiêu), và chửi rủa những ai không đòng tình với mình thì nói chi những chuyện chỉ nghe mà không có được hình ảnh minh chứng?
Kính mời tác giả bấm vào xem rồi xin chấp bút, nói lên lời công đạo (trung thực) ” Thích Quảng Đức bị tưới xăng và châm lửa thiêu
Kính chào bac TNT
Đọc coms cuả bác tôi rất đồng tình !
Thấy cái tiêu đề là tôi muốn tránh xa Đọc làm chi mấy cái chuyện bá dơ ấy ! Không khéo lại va vao caí cảnh “gió tanh mưa máu” !!
_Tôi đi tìm vài minh chứng bổ túc cho sư đồng tình : bằng 2 cái LINK nhức nhôí
http://old.danchimviet.info/archives/77157/tuong-niem-50-nam-ngay-mat-cua-nhat-linh/2013/07
http://old.danchimviet.info/archives/77136/can-canh-giac-truoc-nhung-buoi-le-tuong-niem/2013/07
PHật, Chúa,, nhàvăn, chínhtri…. tép riêu như tôi cũng bị “‘dính chấu” với đám: cẫu tử, tặc tử, dâm tử,gian tử, Sư tử.. lẫn dám : con chiên, con cừu,…thêm những. con hồ, con chồn, con cáo, con điếm , ccCS !
Bất ngờ tôi khám phá ra : Bài đã POST từ thời ông Bành Tổ (02:00:am 08/06/12)
Vậy xin thỉnh ý : Bac Thích Noí Thật lôi ra để làm gì , vô ý hay cố tình ???
Kính
Kính cáo bác Builan
Không vô tình mà cũng chẳng cố ý. Nhà cháu lang thang bỗng dưng bắt gặp bài này, thấy rằng thì là chuyện đã cả hàng trăm năm trước kẻ viết đi người viết lại, anh nào cũng vỗ ngực cho mình là đúng, trong khi những chuyện trước mắt với những hình ảnh được ghi lại còn sờ sờ ra đó mà họ vẫn cứ cãi lấy được thì đúng là bọn lưỡi gỗ.
Đã gian xảo, ngạo ngôn vọng ngữ như vậy mà lại cứ “mệnh danh” hoà thượng, thượng toạ, cư sĩ thì có khốn kiếp quá không? Những kẻ “yêu đạo cuồng tín” đến u mê cắm đầu tin lời nói của bọn này là thật, thì có ngu xuẩn quá không?
Nói giăng, nói cuội, toàn viểnvông!
Đúng sai, phải trái, cũng đều không!
Chuá cha hằng có, hay chẳng có!?
Gió đùa sóng vỗ… dã tràng công !!!
“…Hoàng Cô vội ôm lấy bàn tay hôn nhẹ một cách trìu mến, rồi sụp xuống lạy ba lạy và khóc sướt mướt…”
Đó không phải là tình yêu trai gái mà là tình yêu của đệ tử dành cho thầy! Theo tôi đoán thì Hoàng Cô xem HT Liên Hoa như Cha mẹ nên mới sụp xuống lạy ngài.
Theo trong lsPgĐt thì Hoàng Cô thọ 5 giới từ HT Liên Thành nên là đệ tử của người. Học trò quyến luyến bám theo sự phụ cũng không lạ đâu. Tôi không cho đó là tình yêu giữa trai gái với nhau.
CHUYỆN TÌNH HÒA THƯỢNG
Dẫu sao công chúa cũng người
Dẫu sao hòa thượng cũng người nhân gian
Người nhân gian như hoa đồng nội
Cùng gió ngàn ong bướm đua chen
Nàng là thiếu nữ đang xuân
Chàng là hòa thượng mảnh y sắc vàng
Yêu thương ấy lòng người chính đáng
Nhưng làm sao bất chấp tình đời
Rõ ràng đâu thể bông thùa
Rõ ràng đâu thể một ngày ném y
Tâm bồ tát thường khi khó nói
Tình tiểu thư khó thốt nên lời
Thế gian thường vẫn cuộc chơi
Chơi tràn thật khó trên đời nhiêu khê
Thôi đành vậy giữ gìn tâm đức
Nàng tìm về nơi cõi phôi pha
Tâm tình hòa thượng bao la
Tình yêu đâu thể xóa nhòa Phật kinh
Nên đêm vắng tụng kinh gõ mõ
Quên đời hoa hướng cõi chân như
Đời hoa rồi cũng đành tàn
Hoa tàn nhụy vẫn giữ hồn tinh anh
Nơi cửu tuyền đôi lòng thanh khiết
Bụi trần ai lưu thủy theo dòng
Chân như giữa chốn hồng trần
Tình trần khép lại giữa vòng chân như
NON NGÀN
(08/6/12)