Vai trò của nhà nước trong khủng hoảng kinh tế
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2007 kéo dài đến nay cho thấy nhà nước nắm vai trò chủ động giúp nền kinh tế phục hồi sớm hay chậm. Tuy nhiên áp dụng các biện pháp nào, cho những mục tiêu gì, và mức độ can thiệp sâu hay cạn vẫn là những đề tài tranh luận sôi nổi của giới hoạch định chính sách và chuyên viên kinh tế.
Trọng tâm vẫn là làm thế nào để vai trò của nhà nước không cản trở sinh hoạt lành mạnh của nền kinh tế trong đó luật đào thải các doanh nghiệp yếu kém là một trong các nền tảng căn bản nhất của thị trường tự do.
Gần đây có hai cụm từ rất chính xác và dễ hiểu được áp dụng vào kinh tế là “ỷ thế làm liều” (chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa) và “con dại cái mang” (tác giả Nguyễn Văn Thạnh), mỗi cách nói nhắm vào một góc cạnh trong việc tìm hiểu đâu là vai trò và giới hạn của nhà nước trong thị trường tự do.
Trước hết chúng ta cần minh định rỏ sư khác biệt giữa nhà nước và doanh nghiệp tư nhân: mục tiêu của doanh nghiệp là gây lợi nhuận, trong lúc chức năng chính của nhà nước nhằm bảo đảm an sinh của mọi tầng lớp dân chúng.
Một thí dụ dễ hiểu là doanh nghiệp có quyền sa thải các nhân viên kém cỏi để tăng tính cạnh tranh. Còn trong một quốc gia có người già, người khuyết tật là những thành phần phi sản xuất nhưng không vì vậy mà chính quyền có thể lơ là không chăm sóc.
Khi nền kinh tế sinh hoạt bình thường thì nhà nước làm trọng tài thực thi các quy định bảo vệ người lao động, môi trường và tính cạnh tranh (không gian lận, hợp đồng phải tôn trọng, v.v…). Trong hầu hết quốc gia chính quyền còn đóng thêm vai trò tích cực khi đặt ra mục tiêu chiến lược để phát triển nền kinh tế, bằng những cách như kiểm soát giá hối đoái, khuyến khích đầu tư nước ngoài, nâng đỡ phát triển các công nghiệp mũi nhọn v.v…Chức năng của nhà nước trong hoàn cảnh này được đồng ý rộng rãi mà không có nhiều tranh luận (cho dù vẫn có ngoại lệ như trường hợp không ít các chuyên gia phân tách về vai trò của nhà nước tại Hoa Lục)
Nhưng khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng như trong những năm 2007-12 khiến nhà nước trực tiếp nhảy vào can thiệp – khi đó không còn là trọng tài hay người điều khiển cuộc chơi nhưng đã trở thành một tác nhân chủ động trong nền kinh tế, thì các tranh cải lại rất sôi nổi về mục tiêu, biện pháp và giới hạn của nhà nước.
Trước hết là ngành ngân hàng, nếu cho vay cẩu thả để thua lổ thì nhà nước có nên cứu giúp hay không, do bởi được nâng đỡ lần này lại sẽ “ỷ thế làm liều” tái phạm trong tương lai?
Bài học thực tế khi chính phủ Mỹ để mặt cho Lehman Brothers phá sản vào tháng 9/2008 nhằm cảnh cáo giới ngân hàng đầu tư, nhưng sau đó lại khiến thị trường tài chánh sụp đổ dây chuyền là ít có nhà nước nào còn dám không can thiệp. Tiền tệ là huyết quản của thị trường, khi hệ thống ngân hàng bị bế tắc cũng giống như nghẽn mạch máu thì cần ngay luồn điện bên ngoài giúp bắp thịt tim co giãn mạnh nếu không sẽ chết ngay tức khắc.
Bộ Tài Chánh sau đó tung hàng ngàn tỷ USD để mua lại nợ xấu và trái phiếu của các ngân hàng cùng hai cơ quan đầu tư địa ốc Fannie Mae và Freddie Mac (các cơ quan này trước đây mua lại nợ địa ốc của ngân hàng). Nhưng sau đó thị trường tín dụng vẫn bị siết chặt bởi các ngân hàng giống như chim sợ ná không dám cho vay khi sổ sách vẫn chưa rõ rệt là nợ xấu bao nhiêu. Điều này khiến các doanh nghiệp nhỏ không vay được tiền nên không thể phát triễn làm ăn, dẫn đến thất nghiệp cao, tiêu thụ giảm. Cho nên Quỹ Dự Trữ Trung Ương mỗi tháng phải bơm vào kinh tế hàng chục tỷ USD, nhờ đó mà thị trường dần dần khôi phục.
Câu hỏi đặt ra là tiền đổ ra ào ạt như vậy nhưng sau nước Mỹ vẫn vay mượn được với giá cực rẽ (tiền lời khoảng 1%) và không bị lạm phát? Lý do nhờ Hoa Kỳ có hai lợi thế độc đáo: (1) họ vay bằng đô-la, thì họ có thể in đô-la trả nợ (2) tình hình thêm bắp bênh thì các nước càng gởi tiền cho Mỹ vì đây vẫn là nơi an toàn nhất. Nhưng do Hoa Kỳ đang lạm dụng hai ưu thế này nên cũng sẽ có ngày trả giá rất đắt.
Trở lại việc “ỷ thế làm liều”, để tránh việc cho vay cẩu thả trong tương lai nên Quốc Hội chuẩn bị nhiều dự luật giám sát khắc khe nhằm giới hạn môi trường đầu tư của ngân hàng để giảm bớt rủi rọ. Cuộc tranh luận trở nên vô cùng phức tạp và chuyên môn vì đụng chạm đến quyền lợi của các đại gia tư bản; đồng thời kiểm soát quá chặc chẻ sẽ triệt tiêu năng lực sáng tạo của thị trường tài chánh khi đi đầu tư gieo mầm trong các sinh hoạt kinh tế nhiều triển vọng nhưng cũng lắm bất trắc.
Một nhận xét ngắn về lịch sử: nền kinh tế giống như quả lúc lắc giữa hai chu kỳ mỗi 30-40 năm: sau một cuộc khủng hoảng thị trường bị giám sát chặc chẻ, ổn định rồi thành trì trệ; để thúc đẩy phát triễn nhà nước phải nới lỏng quy định, kinh tế tăng trưởng dần dần dần đến khủng hoảng. Trạng thái cân bằng không thể có ngày nào mà còn các sáng tạo về khoa học, kỷ thuật hay trong môi trường buôn bán (chẳng hạn như toàn cầu hoá) là những tác động kích thích con lắc phải lung chạy.
Sang đến thị trường địa ốc, trong nhiều năm chính quyền Hoa Kỳ cũng có các biện pháp giúp đỡ mua nhà nhưng không mấy hiệu quả. Nhưng giá nhà hiện tăng vọt kể từ năm 2012, có lẽ vì nền kinh tế dần ổn định nên đây là cơ hội để mua khi tiền lời còn cực thấp.
Nhưng nước Mỹ đã bỏ rất nhiều tiền cứu vớt đại công ty bảo hiểm AIG, cùng những hảng xe hơi Ford và GM, vốn bị liên lụi trực tiếp hay gián tiếp bởi ngành ngân hàng. Lý do là các doanh nghiệp này sụp đổ sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu hoặc hàng chục triệu dân chúng trong hoàn cảnh nền kinh tế đang suy sụp càng khiến tình hình thêm phần nghiêm trọng. Điều may mắn là những công ty này đều phục hồi vào trả lại gần hết số nợ của nhà nước. Đây là thí dụ điển hình về “con dại cái mạng”
***
Những biện pháp nói trên áp dụng ở Mỹ và các nền kinh tế thị trường. Những vấn đề tại một nền kinh tế phi thị trường lại khác rất nhiều, cho dù bề ngoài có nhiều biện pháp giống nhau nhưng mục tiêu nhằm cứu vãn thị trường hay để duy trì lợi ích và quyền lực bè phái.
Hai yếu tố chính để kiểm soát sự can thiệp của nhà nước, là tự do báo chí và tự do bầu cử. Phải có báo chí và những chuyên gia phân tích từ cả cánh tả lẫn cánh hữu mới thấy điều hơn lẽ thiệt của mỗi chính sách. Nhưng cho dù khuyên can thế nào mà một chính quyền không sợ bị thay đổi thì họ vẫn có thể bỏ mặt ngoài tai.
© Đoàn Hưng Quốc
© Đàn Chim Việt
Rất mong báo Danchimviet giúp kết nối với bác Đoàn Hưng Quốc.
Trân trọng
Nguyễn Văn Thạnh
thanhipi@gmail.com
NÓI VỀ CƠ CHẾ XÃ HỘI VÀ CƠ CHẾ NHÀ NƯỚC TRONG KINH TẾ
Mọi thực thể hay sự vật trong tự nhiên đều có cấu trúc và nguyên lý vận hành khách quan của nó. Đó là nguyên tắc khoa học lẫn cả nguyên tắc triết học. Nói sự vật phi cấu trúc, loại bỏ mọi sự vận hành khách quan là ngu ngốc hay không thực tế. Quan điểm của Mác về một xã hội cộng sản tương lai mà Mác gọi là xã hội cộng sản khoa học không có giai cấp, không có nhà nước, không có pháp luật, không có tiền tệ, không có đơn vị kinh tế, không có thực thể kinh tế chỉ là sự điên loạn, sự càn dở. Đó là vì Mác đã hiểu sai ý nghĩa của giai cấp, của nhà nước, kể cả của pháp luật, thậm chí hiểu không đạt cả ý nghĩa của xã hội, của lịch sử và của kinh tế.
Thật ra, chính cá nhân là đơn vị hay thực thể của kinh tế, của xã hội, mà không phải giai cấp như Mác quan niệm. Bởi chính phạm trù cá nhân tạo nên các phạm trù giai cấp mà không là gì khác. Người ta có thể giản lược các giai cấp thành những cá nhân nhưng không thể làm điều ngược lại.
Nói như thế các cá nhân và những thực thể kinh tế xã hội đều là các nhân tố hoạt động theo cách khách quan. Có nghĩa nó tồn tại và phát triển theo đúng với bản chất các quy luật riêng của nó. Trong khi ấy, hoạt động nhà nước hay chính phủ là hoạt động theo cách chủ quan. Có nghĩa nó phải chủ động điều tiết chung các ý nghĩa kinh tế xã hội trong toàn dân mà không thể tự đánh đồng hay đồng hóa vào đó. Bởi nếu làm như thế, nó lại trở nên ý nghĩa khách quan, là điều nó không thể có được. Bởi mọi nhà nước, mọi chính phủ không thể tự sinh ra cho mình, mà nó chỉ là cộng cụ, kết quả chọn lựa của toàn dân để nắm vai trò điều hành, điều tiết chung, tức vượt lên trên hết mọi cái riêng tư, đơn diện.
Ý nghĩa và chức năng của nhà nước như vậy chủ yếu chỉ là chức năng điều hợp, trọng tài, trong một xã hội tự do, dân chủ, không thể là một chủ thể chuyên đoán bao trùm như trong các xã hội phong kiến, quân chủ. Bởi vậy quan điểm cho rằng nhà nước, luật pháp là nhà nước, luật pháp của giai cấp chỉ là sự cương đại tối tăm, gàn dỡ của Mác. Đây đích thị là quan điểm cực kỳ phản động, phản xã hội, phản tiến hóa, phản con người và nhân loại của Mác. Bởi vậy chỉ có những kẻ nói theo kém ý thức, phi trách nhiệm xã hội mới đồng ý theo kiểu nô lệ như vậy.
Bởi thế cơ chế của xã hội là cơ chế tự phát, khách quan, có nghĩa nó không có một nguyên tắc chủ quan nào đi trước. Trong khi đó cơ chế của nhà nước là cơ chế chủ động, có ý thức, có mục đích, có tiêu chí rõ ràng, đó là tính chất trọng tài, tính chất điều hòa, tính chất kết hợp mọi khía cạnh hoạt động khác nhau trong mọi lãnh vực xã hội mà không thể nảo khác được.
Do vậy ý nghĩa của nhà nước là mục tiêu và trách nhiệm chung. Nhà nước không thể là cái gì thần bí, cái gì tự phóng, tự tác, tự mình tồn tại hay sản sinh ra mình, mà nhà nước là nhiệm vụ của xã hội, là sự lựa chọn và việc được giao trách nhiệm từ toàn dân. Bởi vậy quan điểm coi nhà nước đứng trên, đứng ngoài, có sứ mệnh thần bí nào đó đối với xã hội chỉ là sự u mê, sự phản xã hội, phản tự do dân chủ mà chính Mác là người đầu tiên đề xướng theo cách hiểu nhà nước chỉ là nhà nước của giai cấp, luật pháp là luật pháp của giai cấp.
Tính cách của quan niệm phản khoa học, phản khách quan như thế tất yếu phải thất bại vì nó không hiệu quả, không đúng đắn. Chính trong tính cách đó mà không bất kỳ nhà nước nào có thể làm kinh tế như tư nhân làm kinh tế. Bởi vì như thế là là nước đã tự xuống cấp, đã tự hạ giá mình, tự đồng hóa mình với bất kỳ những thực thể xã hội kinh tế riêng tư nào khác. Bởi thế không thể có những tập đoàn kinh tế đúng nghĩa, bởi vì không ai có thể mang được thần công chức công bộc vào trong ý nghĩa cạnh tranh hoặc vào lợi nhuận kinh tế. Đó là lý do tại sao mọi sự phá sản, mọi sự thất bại, mọi sự nghịch lý của các tập đoàn kinh tế nhà nước đều là cái chắc.
Nói khác đi, cơ chế nhà nước phải là cơ chế chủ đạo chung của toàn xã hội. Có như thế chức năng của nó mới hoàn toàn phân biệt với mọi chức năng nhằm vào lợi nhuận và sản xuất riêng biệt của các đơn vị kinh tế tư nhân hay xã hội khác. Nhà nước chỉ làm điều gì mà tư nhân và các cá thể khác không thể làm được. Nếu ngược lại thì ý nghĩa và vai trò của nhà nước trở nên dư thừa và sai trái. Đó là ý nghĩa tại sao nhà nước chỉ đảm nhận được chức năng quốc phòng, nhiệm vụ tổng thể, các yêu cầu công cộng thiết yếu mà không thể chạy theo lợi nhuận hay bất kỳ các quyền lợi nhóm hoặc phe nhóm riêng tư nào. Đó cũng là lý do tại sao cơ chế xã hội thiết yếu phải là cơ chế tự do dân chủ khách quan đúng nghĩa, còn cơ chế nhà nước nhất thiết phải là cơ chế chuyên gia, đồng thời cũng là ý nghĩa của hiệu quả trong tính năng khoa học về tổ chức và kỹ thuật của sự vận hành đối với mọi yêu cầu nhiệm vụ về công tác cũng như cả lẫn về nhân sự.
Võ Hưng Thanh
(15/4/13)
” ngân hang cho vay cẩu thả,gây thua lổ,nhà nước có nên cứu giúp không?’ ngân hang VN là “sân sau’ của bọn cầm quyền.Tiền tham nhũng,bất chính của bọn chúng chuyển sang cho con cháu,từ bọn nầy chúng mở Ngân hang,Khách sạn,Dự án nầy nọ ..để hợp thức hoá cái mà chúng nó có. Vì thế ngân hang cho vay không hề”cẩu thả”,mà quanh đi quẩn lại ,cũng chúng nó thôi.Vì tình thế, biết bao nhiêu
dự án BĐS xây ra rồi để đó,không bán được, các tập đoàn thua lổ,nên ngân hang hết tiền! Chúng nó cứu ngân-hàng có nghĩa là chúng nó cứu nó.Thế thôi!! ở đây không có chuyện tại sao phải cứu?
cứu ai?? Tác giả DHQ là một chuyên gia quốc tế. Nhưng cho dù “ông Thánh’ nửa cũng không giải quyết được những hiện tượng kinh tế VNCS.Một nền kinh-tế “ăn cươp’ cứu thằng “ăn trộm”,đều
là “phe ta cả”!!