Trận Điện Biên Phủ [2]
Nguyên tác của Henri Navarre
Trọng Đạt dịch
Tổ Chức Phòng Thủ
Tổ chức phòng thủ Điện Biên Phủ được khởi đầu bằng thực hiện một trung tâm kháng cự với từ 5 cho tới 6 tiểu đoàn có đội pháo binh yểm trợ và phụ lực quân tăng cường. Quan niệm này là do ta có tin tình báo nhận được tháng 11 (1953) cho thấy địch có một sư đoàn (Sư đoàn 316), được tăng cường một hoặc hai trung đoàn độc lập hay trích từ các sư đoàn khác. Những nét thành lập đồn lũy mới đầu do tướng Gilles thực hiện trên căn bản những chỉ thị của tướng Cogny.
Đầu tháng 12, từ từ áp lực địch càng nặng hơn, quan niệm đầu phải xét lại. Thật vậy, trước việc các Sư đoàn 308, 312, và một phần Sư đoàn 304 và Sư đoàn nặng (tức sđ vũ khí nặng) 351 tiến lên Tây Bắc, ngay như cả một phần lực lượng này hướng về đường đi Sầm Nứa – Cánh đồng Chum thì ĐBP vẫn có thể bị tấn công bởi những lực lượng quan trọng hơn những cái mà ta dự tính ban đầu. Như vậy cần mở rộng đồn lũy pháo đài hơn lên.
Sơ đồ mới do đại tá de Castries thiết lập theo chỉ thị của tướng Cogny và do tôi chấp thuận với vài sửa đổi.
Từ ngày 3-12 chủ lực quân trong đồn có 9 tiểu đoàn và hai đội pháo binh. Rồi do yêu cầu nhiều lần của tướng Cogny, đã tăng lên 10, 11 và cuối cùng 12 tiểu đoàn , một đội thiết giáp 10 xe tăng M 24, hai pháo đội 105 ly, một đội pháo 155 ly (nhất là để phản pháo) và 4 tiểu đoàn súng cối 120 ly.
Sáu máy bay chiến đấu và các máy bay quan sát đóng tại phi trường.
Ngày 13-3 doanh trại đã được dự trữ 9 ngày lương thực, 8 ngày nhiên liệu săng, 6 đơn vị hỏa lực cho từng tiểu đoàn bộ binh (1), 6 đơn vị rưỡi hỏa lực cho súng 105, 7 đơn vị cho 155, 8 cho súng cối 120 ly, 9 cho súng 75 ly (súng chiến xa M 24).
Ngoài ra 3,000 tấn kẽm gai đã được chở tới (có nghĩa gấp 3 cấp số một tiểu đoàn) cũng như một số lớn vũ khí đặc biệt: súng phun lửa, thuốc nổ, mìn, bánh bom lửa, mặt nạ che đạn khói, máy hồng ngoại tuyến …
Bảo trì trong trường hợp bị tấn công đã được tướng Cogny ước lượng 70 tấn một ngày mức chiến đâu trung bình, và 96 tấn một ngày khi chiến đấu ở mức độ cao. Việc chuyên chở những khối lượng trên do nỗ lực bình thường của không quân. Những phương tiện tiếp tế của không quân do bộ tham mưu tại Hà nội phân phối.
Sau khi tin tình báo cho biết số lượng và sức mạnh của hỏa lực địch, ta đã có nghiên cứu để định những điều kiện phòng thủ chống pháo binh và cao xạ địch. Kết quả lạc quan những ý kiến rõ ràng của các pháo thủ (cấp chỉ huy ngành pháo binh) (2) cho rằng pháo binh và phòng không địch không thể, vì địa hình, đặt súng và nhất là bắn được mà không bị ta phản pháo trúng và bị không quân oanh ta phản kích.
Kết luận của bản tường trình liên quan pháo binh là: “Có thể địch chỉ bắn vào lúc ban ngày và thời tiết sáng. Ngay sau đó họ sẽ bị pháo binh và không quân ta phản công ngay”.
Kết luận liên quan phòng không là “Địch rất khó mang đại bác 37 ly (tức cao xạ) vào tầm của vòng máy bay lên xuống và thả hàng …Dù rằng nhận xét này sai, phản pháo và vài phòng thủ thụ động (chọn vùng thả dù, thu nhỏ vòng bay) có thể khiến cho cuộc tiếp tế ít thất lạc…Ít nhất tiếp tế ban đêm vẫn có thể thực hiện được. Bởi vậy rất có thể công cuộc tiếp tế hàng không vẫn được bảo đảm mãi”
Những biện luận này rất lý thuyết, thực ra sai là do địch vô cùng khéo léo phân tán, ngụy trang, che dấu pháo cũng như súng phòng không và nhất là ta không ngờ họ có nhiều cao xạ đến thế, nó đã ngăn cản phi cơ thám thính và oanh tạc của ta.
* * *
Đồn lũy Điện Biên Phủ được tổ chức thành những công sự như sau:
Vị trí trung ương bao quanh một đường bay và họp thành 5 trung tâm kháng cự (Claudine, Huguette, Anne-Marie, Dominique, Éliane)
Cách đó khoảng 2 hoặc 3 km, phía Bắc và Đông Bắc có hai trung tâm kháng cự (Gabrielle và Béatrice) mà nhiệm vụ là che chở vị trí trung ương ở hướng nguy hiểm nhất và tăng rộng khoảng không gian an toàn bên trên phi trường.
Cách 7 km về phía Nam , một trung tâm kháng cự (Isabelle) có mục đích giữ pháo binh cần thiết để bảo vệ khu trung ương
Lực lượng trừ bị gồm gồm 3 tiểu đoàn (bộ binh) và một thiết đội đóng trải dài từ vị trí trung ương và Isabelle.
Những màng lưới dây kẽm gai rộng từ 50 tới 70 thước tây quấn chặt các trung tâm kháng cự và bên trong nó, quấn quanh các địa điểm phòng thủ. Những màng kẽm gai khác chắn những hành lang mà địch có thể xâm nhập. Những bãi mìn, chất nổ, bánh bom lửa tăng cường cho những chướng ngại vật này.
Trước ngày tấn công, đồn lũy Điện Biên Phủ tạo thành một pháo đài kiên cố mạnh nhất chưa từng có tại Đông Dương. Không một giới chức cao cấp dân sự, quân sự nào (Bộ trưởng Pháp hay ngoại quốc (3), Tổng TM trưởng Pháp (4) Tướng Mỹ(5) ) đã thăm viếng đồn lũy mà không trầm trồ thán phục sức mạnh kiên cường của nó với tôi.
Theo tôi biết, trước ngày địch tấn công, không có ai tỏ sự nghi ngờ về khả năng kháng cự của nó, và cũng không có bản tường trình bất lợi nào được gửi cho tôi.
Những nhận xét xác đáng kể trên rất cần thiết, đã có những người nói viết sai và phóng túng về vấn đề này. Trong bất cứ trường hợp nào, nó chứng tỏ ĐBP không thể là một vị trí không phòng thủ được như nhiều người đã quả quyết sau trận đánh (6)
————–
Chú thích
(1) Một đơn vị hỏa lực tương ứng về lý thuyết với nhu cầu một ngày chiến đấu cường độ trung bình (chú thích của tác giả)
(2) Chỉ huy trưởng pháo binh tại ĐBP, Tư lệnh pháo binh Bắc kỳ, Tư lệnh pháo binh Đông Dương và tướng Cogny cũng chính là pháo thủ. (chú thích của tác giả)
(3) Ông Pleven, de Chevigné và Marc Jacque. (chú thích của tác giả)
(4) Các ướng Ély TTMT, Blanc TMT lục quân, Fay TMT không quân (chú thích của tác giả)
(5) Tướng O’Daniel, trưởng đoàn Mỹ sau khi thăm ĐBP đến thăm đặc biệt tôi bầy tỏ phấn khởi về tổ chức của đồn lũy. (chú thích của tác giả)
(6) Tháng 4, 5 năm 1956 tướng Giáp trả lời phỏng vấn báo Paris-Match và Paris-Presse đã nói tình trạng chiến thuật của ĐBP là hợp lý. (chú thích của tác giả)
——————————
Địch
Vào ngày 13-3 (1954), ngày khởi đầu cuộc tấn công, tình trạng địch như sau.
Quân đoàn bao vây với 33 tiểu đoàn chính qui mà 27 tiểu đoàn trực diện với đồn lũy, trong khi 6 tiểu đoàn kia có địa phương quân yểm trợ bố trí để ngăn chận những hướng mà Pháp có thể tấn công từ bên ngoài và nhất là từ Thượng Lào.
Pháo binh gồm một tiểu đoàn 75 ly (20 khẩu) và một tiểu đoàn 105 ly (cũng 20 khẩu) (1). Thêm vào đó có một số lượng lớn súng cối hạng nặng.
Phòng không gồm 4 tiểu đoàn nhẹ (100 đại liên 12 ly 7) và một tiểu đoàn phòng không loại trung (16 khẩu 37 ly). Chúng tôi được biết 4 tiểu đoàn được đưa tới gấp rút trang bị súng cao xạ 37 ly tối tân của Nga (64 khẩu).
Chúng tôi được tin chính xác về tiếp tế đạn dược rất dồi dào của địch so với số lượng mà VM đã mang tới vào lúc đó (15,000 viên đạn đại bác 105 ly, 5,000 viên đại bác 75 ly, 25,000 viên đạn súng cối, 45,000 viên đạn phòng không 37 ly) tuy nhiên nó không đủ cho họ kéo dài cuộc chiến.
Ngày 9-3 bộ TTM tại Hà Nội đã ước tính toàn bộ khả năng pháo binh VM tác xạ vào đồn lũy từ 5 tới 7 giờ (một ngày) để “làm tê liệt toàn bộ”, nó chỉ cho phép họ kéo dài mặt trận tối đa từ năm tới sáu ngày bao gồm các cuộc tấn công hai hay ba trung tâm kháng cự. Nhưng chúng tôi cũng được biết là những số lượng tiếp tế rất quan trọng từ bên Tấu chở qua có thể làm thay đổi tình hình này.
Xung quanh vị trí chúng tôi, địch dùng những đường ngụy trang để chở đạn dược bằng xe bò, đôi khi xe hơi ngay gần những chỗ đặt pháo. Chúng tôi cũng biết rất nhiều vị trí để bắn pháo mặt đất và pháo phòng không đã được sửa soạn nhưng họ ngụy trang tuyệt khéo đến độ chỉ có một số ít được xác định vị trí trước khi họ mở cuộc tấn công.
Việc bảo vệ những khẩu pháo của họ cũng mạnh khiến phản pháo của ta hay oanh kích của không quân rất khó khăn.
Dưới sự chỉ đạo các cố vấn Trung Cộng, cấp chỉ huy VM đã dùng lối xử dụng hoàn toàn khác biệt với lối cổ điển. Pháo binh được đặt từng khẩu riêng rẽ. Những khẩu đại bác được tháo rời (2) và mang lên bằng sức người tới những vị trí mà họ nhắm thẳng vào mục tiêu. Súng được đặt trong những nơi ẩn nấp, từ đó bắn trực xạ hoặc qua lỗ hổng của nơi ẩn náu hoặc được kéo ngoài (3) mỗi khi bị Pháp phản pháo. Mỗi khẩu hoặc một nhóm đại bác được bảo vệ bằng súng cao xạ phòng không được đặt và cung cấp đạn y như thế. Sự xử dụng pháo và phòng không có được là nhờ “đàn kiến người” mà VM đã bố trí, khiến cho tiên đoán của giới pháo binh Pháp lỗi thời. Đó chính là yếu tố bất ngờ của trận đánh.
Nói về lực lượng tăng cường để bổ sung những tổn thất, địch bố trí tại chỗ từ 6,000 tới 8,000 người để thay thế, nhưng chúng tôi được biết những đoàn quân đông đảo được lấy từ các trại đồn và những đơn vị địa phương quân tại Châu thổ BV, họ đang trên đường tới.
Từ đó ta có thể kết luận, tới giữa tháng 2 (1954) VM chỉ đủ sức đánh một trận ngắn và với hỏa lực giới hạn bởi tiếp tế đạn dược mà họ có, cũng như số thiệt hại nhân mạng tối đa mà họ chấp nhận, từ khi có Hội Nghị Bá Linh (4), trước viễn tượng một trận tấn công quan trọng hơn nhiều và cần thiết, lâu dài hơn nhiều, muốn thực hiện nó họ chấp nhận trước tổn thất, hy sinh rất nhiều nhân mạng, bố trí những phương tiện chiến tranh rất lớn lao, nhưng đã bắt đầu.
Thật vậy những phương tiện mới xuất hiện từ từ trong trận đánh. Số súng cao xạ phòng không được chở tới từ Trung Cộng thành lập tiểu đoàn mới mà chúng tôi đã được báo tin. Sự tham dự những tiểu đoàn tối tân, được huấn luyện kỹ (gồm nhiều trợ pháo thủ Tầu) là yếu tố quyết định (5). Trong những ngày cuối của trận đánh, có dấu hiệu họ xử dụng hỏa tiễn địa không.
Hỏa lực pháo binh tăng mạnh khi có thêm hai đội pháo 105 và sau cùng bởi dàn phóng hỏa tiễn theo kiểu “đàn orgue Staline”.
Nói về đạn dược, số lượng ban đầu đã được tăng gần như gấp hai vào tháng 3. Tháng 4 số lượng được đem đến rất lớn, chúng tôi không có có dữ kiện chính xác. Chúng tôi chỉ biết số đạn pháo binh và súng cối nặng mà địch đã bắn trong suốt trận đánh hơn 200,000 quả.
Sau cùng số quân tăng viện để bổ sung tổn thất lên dần tới hơn 25,000 người. Chính nhờ những phương tiện ngày càng quan trọng hơn mà VM có thể tiếp tục cung cấp, nuôi dưỡng trận chiến kéo dài với cường độ gia tăng, mà tuyệt đối ta không thể đương đầu như với số lượng ban đầu.
———————————————————-
Chú thích
(1) Theo tài liệu trong nước (Lê Kim- “Điện Biên Phủ Nhìn Từ Hai Phía”, trang 39, in tại Sài Gòn 2004) VM có 24 khẩu pháo lớn (chú thích của người dịch)
(2) Đây chỉ là suy đoán của tác giả Navarre không có dẫn chứng, sự thực những khẩu pháo lớn này đã được kéo lên núi đồi bằng sức người (2 trung đoàn thuộc Sư đoàn 308 và hàng nghìn người thuộc Sđ 312). Các tài liệu phía CS cũng như phía QG đều nói vậy, trong cuốn Lê Kim “ĐBP Nhìn Từ Hai Phía” kể trên, một cuốn sách tương đối đứng đắn ít tuyên truyền có nói rõ việc kéo pháo trầy da tróc vẩy tại các trang 39, 40, 41. Phía Quốc gia trong “Quân Sử 4, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trong Giai Đoạn Thành Hình 1946-1955” Bộ TTM VNCH in 1972, trang 162, 163 cũng có hình ảnh và đề cập tới việc kéo pháo này.
Một khẩu đại bác nặng từ 2 tấn rưỡi trở lên không thể tháo rời (démonter) khiêng lên những ngọn đồi núi cao từ 600 cho tới 1000 mét được như Navarre nói (chú thích của người dịch)
(3) VM đặt sung trong hang có thể kéo ra, kéo vào được y như trong phim Les Canons de Navarone quay 1961, do Gregory Peck, David Niven, Anthony Quinn đóng vai chính (chú thích của người dịch)
(4) Conférence de Berlin, có lẽ tướng Navarre nhầm, chắc là Conférence de Genève, Hội nghị Genève vì Hội nghị Bá Linh không liên quan gì tới chiến tranh Đông Dương (chú thích của người dịch)
(5) Chi tiết này trùng hợp với tiết lộ Trung cộng. Khoảng 1978, 79 sau khi Việt Cộng và Trung Cộng ẩu đả nhau, đàn anh tiết lộ nhờ họ viện trợ vũ khí nhất là phòng không đã đem lại thắng lợi cho VM tại trận ĐBP (chú thích của người dịch)
——————————
Trận Đánh
Đây chỉ là một bản tường thuật khách quan và vô tư về trận Điện Biên Phủ. Mô tả trận đánh này bằng cảm tưởng chính xác, chứng tỏ sự anh dũng trong chiến đấu, những nỗi gian khổ cam chịu và những hy sinh đã cống hiến chỉ có thể là tàc phẩm của những chính những người lính chiến, của những người đã sống, dưới đất hoặc trên không. Với sự cố ý (của tác giả), sẽ không có ai được nêu tên: kể tên vài người sẽ phạm bất công với những người khác mà hầu như tất cả đều xứng đáng.
Người ta cũng sẽ không thấy sự biện minh cho những quyết định liên quan đến việc chỉ đạo trận chiến. Để cho sự diễn tả được sáng sủa, những lời biện minh này sẽ được đặt ở cuối chương thì hay hơn.
* * *
Trước trận đánh một ngày (12 tháng ba), chúng tôi có tin tình báo khá đầy đủ về ý định của địch.
Chúng tôi được biết từ ngày 13, các trung tâm kháng cự đơn độc (Béatrice, Gabrielle, Isabelle) sẽ được lần lượt thanh toán và cuộc tấn công vị trí trung ương sẽ tiếp theo sau đó. Có vài dấu hiệu cho ta suy đoán địch trù tính chiếm toàn bộ đồn lũy từ năm tới bẩy ngày.
Trận đánh kéo dài từ 13 tháng ba cho tới 7 tháng năm, có thể chia sơ lược thành một số giai đoạn như dưới đây.
Trong giai đoạn đầu (từ 13 tới 15-3) địch tấn công và phá hủy các trung tâm kháng cự Bắc và Đông Bắc.
Trong đêm 13 và 14, địch tấn công Béatrice và có ý định xuống Gabrielle.
Gabrielle còn đứng vững nhưng Béatrice sụp đổ sau vài giờ giao tranh. Sự sụp đổ nhanh chóng một trung tâm kháng cự rất kiên cố và được một tiểu đoàn lê dương rất thiện chiến bảo vệ (tiểu đoàn III/13 D.B.L.E) trước hết là do tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó và ông chỉ huy trung tâm thiệt mạng ngay trong khi đang sửa soạn khai hỏa đại bác, cả ba chết vì mảnh đạn pháo của địch xuyên qua lỗ châu mai quan sát. Do đó trong bộ chỉ huy y như rắn mất đầu. Không còn ai lãnh đạo cuộc phòng thủ, đạn pháo bắn theo yêu cầu không chính xác như đòi hỏi và không phản pháo được.
Đêm hôm sau (14 tới 15), Gabrielle (do tiểu đoàn V/ 7e R.T.A) đến lượt bị tấn công bắt đầu lúc 20 giờ (8giờ tối). Lúc 22 giờ (10 giờ tối) bị chận đứng hoàn toàn bới pháo yểm trợ và hỏa lực kết hợp của phòng thủ. Tiểu đoàn trưởng phải bố trí lại và xử dụng phần lớn quân trừ bị. Địch tấn công tiếp vào lúc 2 giờ 30 khuya bằng những đơn vị mới và đặt chân được lên mặt Đông Bắc. Vào lúc 4 giờ 30, tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó bị thương nặng. Cũng như Béatrice hôm qua, không còn ai chỉ huy chiến đấu nên căn cứ bị địch tràn ngập. Còn lại một lực lượng khoảng một đại đội rưỡi còn bám trụ ở phía nam trung tâm kháng cự. Cuộc phản công có chiến xa yểm trợ được tung ra lúc 5 giờ 30 từ vị trí trung ương, tới 7 giờ thì tới sườn đồi phía nam của Gabrielle nhưng trước sự phản công dữ đội của địch không thể tới trung tâm kháng cự được và đành phải tiếp cứu đám tàn quân của doanh trại này.
Sự sụp đổ của hai trung tâm kháng cự phía ngoài đưa tới những hậu quả nặng nề cho chúng tôi. Bố trí phòng ngự vòng ngoài phía Bắc, Đông Bắc của ta bị biến mất, đối phương sẽ mang pháo binh, cao xạ phòng không lại gần hơn.
Chúng tôi bị thiệt hại nặng và đã xử dụng một số lượng đạn dược rất lớn, kho đạn của ta giảm nhiều, cần thời gian để làm cho đầy lại. Địch cũng tổn thất như vậy và cũng xử dụng nhiều đạn dược không thể tiếp tục tấn công ngay lúc này
Trong một giai đoạn hai (từ 16 tới 30 tháng ba) địch tăng viện để bổ sung tổn thất và tăng cường thêm kho dự trữ đạn dược. Phía chúng tôi tổ chức lại và tăng cường quân để bố trí.
Từ ngày 13 tướng Cogny xin tôi cấp thêm ba tiểu đoàn nhẩy dù (trong số 5 tiểu đoàn trừ bị) để mở cuộc phản công chiếm lại những trung tâm kháng cự đã bị mất. Yêu cầu được chấp thuận ngay và ngày 14, 16 tháng ba hai tiểu đoàn (6e B.P.C và 5e B.P.V.N) đã được nhẩy xuống đồn lũy ngay. Đáng tiếc là đại tá de Castrie đã xử dụng gần hết quân trừ bị để bố trí và nay chủ lực quân không đủ khả năng thực hiện cuộc phản công mạnh. Kho đạn cũng hao hụt nhiều còn ít thôi. Vả lại, thời tiết rất xấu không thể xử dụng nhiều máy bay yểm trợ trong ba ngày. Sau khi hội ý với đại tá de Castrie, tướng Cogny hủy bỏ cuộc phản công.
Vì có sự giao động trong các tiểu đoàn người Thái (1), một tiểu đoàn trong số đó đã bỏ đi (3e B.T), ngày 18, trong số hai điểm tựa phía Bắc của trung tâm kháng cự Anne-Marie, mặt Tây Bắc của vị trí trung ương bị thu nhỏ lại: rút bỏ Anne-Marie, và hai điểm tựa phía Nam của nó được đưa vào Huguette. Sự bố trí của vị trí trung ương do đó được chỉnh lại để tạo một phòng tuyến gần như liên tục ở tất cả phía ngoại vi để chống lại mọi sự xâm nhập mà địch nay đang định tiến về phía phi trường. Sự liên lạc giữa vị trí trung ương và Isabelle được thực hiện hàng ngày nhưng trong những điều kiện ngày càng tạm bợ, địch đang tìm chen vào giữa hai phần này của chiến lũy.
Một chiến dịch thực hiện tại các làng cách phía Tây ĐBP 2km, ở đó địch có đặt những khẩu phòng không loại nhẹ, đã gây nhiều thiệt hại trầm trọng cho VM và chúng tôi đã chiếm được nhiều đại liên 12 ly 7. Trong giai đoạn này việc tiếp tế bằng thả dù vẫn trong điều kiện bình thường mặc dù có phòng không địch.
Việc di tản (thương binh) trái lại rất khó khăn chỉ thực hiện được bất ngờ và rất vội vã bằng những máy bay và trực thăng trong vài phút tại địa điểm đã được dọn sạch bằng hỏa lực. Chẳng bao lâu, ban ngày không đáp được phải đáp ban đêm tại một đường bay không cắm mốc mà phi cơ phải đáp. Sau mấy ngày, mặc dù sự anh dũng của phi hành đoàn, phải từ bỏ tải thương. Trực thăng cuối cùng bị bắn hạ ngày 23-3 khi bay lên. Phi cơ cuối cùng chở đi 18 thương binh vào ngày 26-3.
Về phía địch ráo riết bao vây xiết chặt gần chiến lũy, những hầm hố xuất hiện xung quanh và nhất là ở mặt Đông, phạm vi không phận dần dần bị đại bác và phòng không địch bao vây mà phản pháo và oanh tạc của phi cơ Pháp không bịt mõm chúng được.
Trong một giai đoạn thứ ba (từ 30 tháng ba tới 5 tháng tư) địch mở cuộc tấn công chiếm bớt mặt Đông của khu trung ương và chiếm một vị trí phòng thủ quan trọng ở mặt Tây bắc. Đó là giai đoạn chính của trận đánh.
Chiều tối 31 tháng ba, Việt Minh mở cuộc tấn công dữ dội ở mặt Đông. Vị trí này bị sứt mẻ. Những trận đánh ác liệt diễn ra từ 31 tháng ba tới 4 tháng tư . Quân đội của chúng tôi –có vài đơn vị phải đương đầu với lực lượng đông gấp 7 lần – đã chiếm lại một phần những vị trí đã mất nhờ yểm trợ của pháo binh và không quân. Đáng tiêc hai điểm tựa cao, bao quát đã lọt vào tay địch, họ có thể đặt pháo binh và cao xạ cách phi trường và các vị trí pháo binh của chúng tôi chưa tới 1,500 mét , như thế nó đánh dấu bước đầu sự sụp đổ của chiến lũy.
Vả lại, một phần của tiếu đoàn Thái bỏ trốn (2e B.T.) đưa tới sự rút ngắn, co cụm của mặt Tây Bắc và khiến cho địch tại đó kéo pháo đến gần hơn. Thả dù ngày càng khó và kho đạn được xử dụng rất hạn chế. Ngày 3 và 4 tháng tư, một tiểu đoàn nhẩy dù thứ ba (II/1er R.C.P) được thả xuống để bù lại những tổn thất và khai triển bố trí.
Giai đoạn thứ tư (từ 5 tháng tư tới 1 tháng năm) áp lực địch đè nặng mặt Tây Bắc và đồn lũy chết lịm dần bởi súng phòng không.
Địch bị tổn thất ngoài mọi tiên đoán, chính họ cũng bị thiếu thốn đạn dược phải ngưng tấn công ồ ạt nhưng mỗi dêm vẫn ra sức đào giao thông hào tới gần hơn. Ngày 1 tháng năm toàn bộ hệ thống giao thông hào địch đạt tới vào khoảng 440 km.
Sự xâm nhập của VM trên mặt Tây Bắc khiến cho việc tiếp tế cho các vị trí phòng thủ bảo vệ nơi đây dần dần không thực hiện được. Chúng tôi tiếp tục cuộc chiến dai dẳng bằng không quân nhưng địch gặm dần hệ thống phòng thủ và buộc chúng tôi phải bố trí co cụm dần.
Phòng không địch ngày càng lại gần khiến cho việc thả dù ngày càng nguy hiểm hơn. Họ bắn trực xạ với khoảng cách gần hơn. Địch quấy phá liên tục khiến cho mọi việc cất cánh của các phi cơ, liên lạc, tiếp tế và lấy đồ thả dù phải trả giá cao. Tiểu đoàn dù thứ tư (2e.B.E.P) được nhẩy xuống ngày 11 và 12 tháng 4 giúp Pháp chiếm lại vị trí phòng thủ mặt Đông nhờ một cuộc phản công mãnh liệt không ngờ.
Mặc dù màng lưới phòng không địch và diện tích chiến lũy thu nhỏ lại, trung bình một ngày thả xuống 100 tấn hàng cũng như tăng viện quân ngoài lính dù (gồm các chuyên viên, pháo thủ).
Trong giai đoạn này tình trạng cứu thương y tế ngày càng rất trầm trọng vì số thương binh nhập viện vượt quá xa khả năng của bệnh xá mặc dù đã được ước tính thật rộng lớn lúc ban đầu (2) và về sau mở rộng tối đa. Chúng tôi chịu một trở ngại lớn từ việc này.
Trong những ngày cuối tháng tư, trời mưa khiến hầm trở thành bùn lầy khiến vài nơi hầm trú ẩn bị sụp đã làm tê liệt hoạt động của chúng tôi.
Giai đoạn thứ năm là cuộc tổng tấn công trên khắp các mặt bố trí và sự thất thủ của đồn lũy.
Những đợt khởi đầu của địch cùng lúc diễn ra, họ tái lập các đơn vị tăng viện mạnh để bù vào những tổn thất, bổ sung các kho đạn dược.
Trước mặt họ chỉ là những đơn vị thiếu hụt, kiệt lực (3), pháo binh của chúng tôi bị hủy một phần, việc tiếp tế đạn yếu kém.
Ngày 1 tháng năm bộ chỉ huy Việt Minh mở cuộc tổng tấn công. Sau những trận đánh kéo dài suốt ngày, vòng ngoại vi của vị trí trung ương bị sứt mẻ hết. Những trận phản công chỉ khôi phục cục bộ sự bố trí.
Đứng trước sự lựa chọn, hoặc phải ngưng chiến đấu vì thiếu chủ lực quân, hoặc tiếp tục thêm vài ngày bằng tăng viện, tôi quyết định theo yêu cầu của tướng Cogny, cho nhẩy dù thêm một tiểu đoàn thứ năm (1e B.P.C) từ ngày 2 tháng năm nhưng trước những khó khăn ngày càng nhiều vì diện tích để đổ quân ngày càng hẹp, chỉ có một nửa tiều đoàn là được thả xuống.
Giữa ngày 3 và 6 tháng 5 tương đối lắng dịu rồi từ tối tháng 6 cho tới tháng 7 đồn lũy bị tấn công dữ dội tại toàn bộ vùng ngoại vi nhất là mặt Đông. Đồng thời địch pháo tới tấp xuống Isabelle khiến cho pháo binh tại đây bị phá hủy gần như hoàn toàn.
Tới rạng đông, tình thế tuyệt vọng, địch tấn công liên tục không lúc nào ngớt cho tới khi kết thúc.
Vị trí trung ương ĐBP sụp đổ vào ngày 7 tháng 5 trong khoảng 17 và 19 giờ. Không có đầu hàng, nhưng trận đánh tàn lụi dần khi các vị trí kháng cự bị tràn ngập.
Đồn Isabelle dự định khi chập tối trốn đi nhưng thất bại. Ngày 8 tháng 5, lúc 2 giờ sáng mất liên lạc máy vô tuyến điện.
* * *
Thiệt hại của chúng tôi lên tới khoảng 16,000 người, trong đó có 1,500 bị giết và 4,000 bị thương (4). Nó bao gồm 16 tiểu đoàn (trong đó có 7 tiểu đoàn nhẩy dù), 2 pháo đội 105 ly và một pháo đội 155 ly , một thiết đội và những đội thuộc những binh chủng và cơ sở khác (5).
Tổn thất địch khó ước lượng chính xác. Một cuộc nghiên cứu chặt chẽ ngay sau trận đánh cho ta xác định tối thiểu 20,000 người bị loại khỏi vòng chiến, trong đó từ 10,000 cho tới 12,000 bị giết gần sự thật hơn và có lẽ còn thấp hơn nhiều.
Về mặt số lượng tổn thất của Việt Minh trong mọi trường hợp cao hơn Pháp rất nhiều. Vế mặt phẩm nó cũng thiệt hại không kém, vì nếu chúng tôi mất những đơn vị tinh nhuệ (Lê dương- Bắc Phi- Nhẩy dù) thì địch cũng bị hủy hoại một phần lớn các sư đoàn xung kích (308 và 312) và mất những cấp chỉ huy ưu tú.
———————
Chú thich.
(1) Các tiểu đoàn Thái mặc dầu chiến đấu xoàng nhưng cũng được đưa vào ĐBP để tham gia vào các hoạt động ngoại vi của chiến lũy (dò thám, tuần tiễu, liên lạc), họ rành về địa thế tại đây nên rất thích hợp với nhiệm vụ. Vào lúc trận tấn công coi như chắc chắn sẽ diễn ra, đại tá de Castrie đã nhiều lần hỏi tướng Cogny cho thay họ bằng những tiểu đoàn thiện chiến hơn trích ra từ Châu thổ BV. Việc thay thế này tôi đã đồng ý nhưng vẫn chưa được thực hiện khi địch tấn công (chú thích của tác giả)
(2) Khả năng chứa của bệnh xá đã được tính dựa trên căn bản của căn cứ Nasan (có cùng 12,000 chủ lực quân) rồi nhân lên 3 lần rưỡi .Từ 13 tháng ba cho tới 7 tháng năm , 3,000 thương binh đã được chữa trị trong các trạm giải phẫu. Có tất cả 1,000 ca mổ. Tỷ lệ thương binh chết trong các bệnh xá của đồn lũy là 12 trên 100. Số người chết cho tới 7 tháng 5 khoảng 1,500 người
Nhưng nhiều thương binh chết sau khi bị bắt giam (chú thích của tác giả).
(3) Những đơn vị Pháp (chú thích của người dịch)
(4) Theo Bernard B. Fall trong Hell in a Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu trang 448 nói VM có khoảng 8,000 chết, Pháp khoảng 2,000 người chết. Tính tới ngày 8 tháng 5 phía người Pháp có tổng cộng 2,242 người chết
6,463 người bị thương 3,711 người mất tích, 6,500 người bị bắt làm tù binh vào ngày 7 và 8 tháng 5 (trang 484). Theo tác giả Cao Thế Dung trong cuốn Viêt Nam 30 năm Máu Lửa, phần nói về trận ĐBP cho biết phía VM không có cứu thương y tế nên số tử vong rất cao, Trung Cộng chỉ viện trợ hai bác sĩ cho cả chiến trường
Theo yahoo.fr , La Bataille de Dien Bien Phu , phía người Pháp có 2,293 người chết, 5,195 bị thương, 11, 721 bị bắt làm tù binh, chỉ có 3,290 sống sót trở về Pháp. Phía Việt Minh chết trong khoảng 23 và 25,000 người, khoảng 15,000 bị thương (theo ước lượng của Pháp). Phía VM nói họ chết 4,020 ngừoi, 9,118 bị thương (chú thích của người dịch)
(5) Tính theo tỷ lệ chủ lực quân toàn Đông Dương, tổn thất của chúng tôi dưới 5 phần 100 (chú thích của tác giả).
Hoạt Động Của Không Quân
Từ dầu tháng mười một 1953 không quân đã tham gia phục vụ trận Điện Biên Phủ. Nó tăng cường hoạt động hàng ngày, nó kéo dài cho tới khi đồn lũy thất thủ. Nó kéo dài thậm chí tới đầu tháng sáu, bởi vì chính không quân đã chu toàn nhiệm vụ hãm bớt đà quay trở về Châu thổ BV của Quân đoàn VM.
Đồng thời với mặt trận ĐBP, không quân cũng tham gia những mặt trận khác: Châu thổ BV, Thượng, Trung và Hạ Lào, Cao nguyên và vùng Atlanta (chiến dịch), Nam VN, Miên. Tuy nhiên từ tháng mưới một (1953) cho tới tháng năm (1954), ĐBP so với toàn bộ Đông dương vẫn được ưu tiên về không quân nhiều nhất trừ thời gian ngắn khi Thượng Lào bị Sư đoàn 308 đe dọa.
Không quân tại Đông Dương gồm:
-Vận tải có 75 chiếc C47 (Dakota) từ khởi đầu cuộc chiến lên tới 100 từ ngày 1 tháng hai. Cùng với những phi cơ quân sự này, còn có 16 máy bay dân sự Mỹ C119 (Packet) do đoàn Cọp Bay của tướng Chenault lái cũng như nhiều máy bay dân sự đủ loại do đường bay quốc nội Đông dương cung cấp.
-Oanh tạc được thành lập từ đầu bằng 48 oanh tạc cơ B26, 8 oanh tạc cơ Privateer và 112 oanh tạc cơ chiến đấu Hellcat, Beercat và Corsair . Tất cả là 156 cái (1). Số phi cơ tăng lên trong cuộc chiến, cuối cùng lên tới 227 chiếc.
Từ những con số này ta phải khấu trừ tổn thất tất cả các loại trong trận so với toàn bộ không quân Đông Dương (11 vận tải, 54 oanh tạc cơ) đến độ ta không bao giờ có hơn 90 máy bay vận tải quân sự và 175 oanh tạc cơ để sử dụng.
Gần như tất cả những máy bay vận tải quân sự và Packet Mỹ được xử dụng tại Điện Biên Phủ. Việc vận tải cho những mặt trận khác hầu như chỉ do máy bay dân sự.
Riêng về oanh tạc cơ, có hơn hai phần ba (2/3) đặt dưới sự điều động thường trực của tướng Dechaux phụ trách việc yểm trợ cho ĐBP. Một phần ba còn lại phụ trách toàn bộ những mặt trận khác gồm đa số những máy bay mà tính chất và tình trạng máy móc không xử dụng được tại ĐBP. Tuy nhiên so với tỷ lệ các máy bay được duyệt xét, số máy bay hằng ngày sẵn sàng dành cho trận ĐBP không khi nào vượt quá từ 75 tới 80 oanh tạc cơ. Ngoài ra những máy bay này không thể cung cấp hiệu quả tôi đa vì lý do không đủ nhân số phi hành đoàn và đội ngũ những người bảo trì.
Nhiều sự lệ thuộc đã làm giảm hiệu lực của không quân.
Đó là vì chỉ có tại Châu thổ BV những địa thế được trang bị đầy đủ. Chỉ có tại Châu thổ BV những địa thế có thể thiết lập cơ sở không quân, trừ một vài máy bay được lấy từ những đường bay xấu tại Vạn Tượng và Cánh đồng Chum. Thế mà Châu thổ BV chỉ được đánh giá thường trong việc yểm trợ khẩn trương bằng không quân cho ĐBP mà chúng tôi phải khai triển.
Thế đất bay từ Châu thổ tới ĐBP là một thế đất gồ ghế hỗn tạp khiến phi cơ phải bay cao. Dự báo thời tiết luôn luôn xấu. Mưa phùn tại Châu thổ BV trong vài thời điểm khiến cho việc đi về khó khăn. Những đám mây nguy hiểm thường xuất hiện trên lộ trình. Sương mù khô (2) đôi khi bao phủ trên lòng chảo ĐBP. Hạ tầng hệ thống máy vô tuyến truyền thanh yếu kém của chúng tôi cũng gây thêm khó khăn.
Tuy nhiên sự bất tiện chính là khoảng cách. Khoảng cách này là 350 km. Nó có thể chấp nhận được nếu cuộc chiễn diễn ra trong thời gian ngắn mà ta nghĩ giao chiến với một kẻ địch không có súng phòng không tối tân. . Nhưng nó sẽ trở ngại lớn đối với trận chiến kéo dài và những mục tiệu có phòng không hữu hiệu bảo vệ.
Cùng với khó khăn kỹ thuật thêm vào đó còn khó khăn chiến thuật do diễn tiến mặt trận dưới đất.
Sự hiện diện của một hệ thống phòng không ngày càng hữu hiệu tại lòng chảo ĐBP và bờ xung quanh đã buộc phi hành đoàn của chúng tôi phải vượt qua màng lưới dầy đặc y như màng lưới bảo vệ một số địa điểm trọng yếu tại chiến trường châu Âu những ngày cuối của cuộc chiến 1939-1945.
Sự thu hẹp ngoại vi của đồn lũy khiến cho các vị trí phòng thủ ngày càng khó khăn.
Sau cùng cách ngụy trang khéo léo và phân tán của Việt Minh, khả năng thích hợp, tài sửa đường nhanh chóng khi bị phá hủy khiến cho nhiệm vụ không quân càng phức tạp hơn. Như thế, thiếu phương tiện và sự lệ thuộc vào việc xử dụng, không quân đã không đóng vai trò quyết định trong bất cứ giai đoạn nào của cuộc chiến.
* * *
Tấn công các đường giao thông đã đem lại từ đầu chí cuối những kết quả thất vọng nguyên do VM đã vượt trở ngại việc cắt đường, họ sửa rất nhanh trong mọi trường hợp khiến ta không thực hiện được. Chúng ta đã không ngăn chặn hay –ít nhất làm chậm lại – sự bố trí của Quân đoàn địch quanh ĐBP, ta đã không làm chậm lại việc tiếp tế đều đặn của địch. Sự yếu kém về phương tiện của ta là nguyên nhân chính của sự thất bại này.
Chỗ dựa trực tiếp của bộ binh nó cũng chỉ cho kết quả thật tầm thường.
Nguyên do chính ở sự nguỵ trang hoàn hảo và sự bảo vệ các tổ chức địch. Nhất là những khẩu pháo, mục tiêu chính, được bảo vệ tối đa, chỉ phát hiện được trong thời gian chúng bắn, dù bom cỡ lớn cũng không diệt được,chúng không bị phá hay vô hiệu hóa (3)
Hơn nữa, tiếp tế bằng thả dù, nhiệm vụ chính cần ưu tiên cần hỏa lực bảo vệ máy bay vận tải chống màng lưới phòng không dầy đặc vô cùng nguy hiểm.
Trinh sát và quan sát bị giảm hiệu lực nhiều vì vì địa thế, cây cối dầy đặc, khí hậu, ngụy trang và nhất là cường độ phòng không.
Tuy nhiên nó cũng cho nhiều tin tình báo về sự di chuyển quân của địch cũng như xâm nhập bố trí quanh đồn lũy nó đã cung cấp những tài liệu bằng hình rất quan trọng (đặt pháo, hầm hố…) vô cùng lợi hại.
Đáng tiếc là nó không đóng vai chính một cách hiệu lực đó là điều khiển pháo binh tác xạ và máy bay ném bom.
Vận tải đóng vai chính bằng cung cấp cho đồn lũy những tăng viện và tiếp tế cần thiết, trọng tải hàng ngày mà nó đã bảo đảm cho thấy gần hai gấp hai số lượng đã được ấn định lúc ban đầu. Vận tải đã hoàn thành nhiệm vụ trong những điều kiện vô cùng cam go. Một nhiệm vụ cho thả dù xuống ĐBP, đó là sau một hành trình luôn khó khăn (địa thế gồ ghề, thời tiết, mây mù): “bay một vòng đợi, đi vào phía đã được lệnh, bay trên đường đã định, hướng mũi tầu cố định, quẹo khi bắt buộc, ở độ cao đã cho” (4)
Như thế là “đi vào trước mũi súng phòng không địch bốn lần” (4), thế mà phi hành đoàn phải thực hiện ba nhiệm vụ một ngày. “Người ta đã thấy nhiều cầu không vận, nhất là cầu không vận Miến Điện và Bá Linh nhưng người ta chưa hề thấy như ở đây (tức ĐBP), dẫn tới tầm đạn cao xạ của địch” (4)
Khu vực thả dù ngày càng thu hẹp, và sau cùng đồn lũy không thể thu nhặt đều đặn đồ tiếp tế nữa, nó đã làm giảm kết quả những nỗ lực anh dũng này. Tuy nhiên trọng tải hàng hóa thả dù bị thất lạc không bao giờ quá 30% trong suốt những ngày cuối cùng của cuộc chiến, và số trung bình chưa tới 20%, trong đó chỉ có một số ít hàng bị lọt vào tay địch trong trận đánh.
Chính nhờ không vận mà Điện Biên Phủ đã có thể cầm cự được năm mươi sáu ngày, thật đáng tôn kính.
Thiệt hại của chúng tôi tại mặt trận ĐBP gồm 36 máy bay bị bắn hạ khi đang bay hoặc bị phá hủy ở dưới đất; 150 máy bay bị trúng đạn phòng không. Thiệt hại về nhân sự gồm 79 người bị giết và mất tích (Bộ Không quân và thủy phi cơ)
—————-
Chú thích
(1) Thực ra là 168 chiếc, có lẽ tác giả tính nhầm (chú thích của người dịch)
(2) Hiện tượng gây lên bởi sức nóng thường thấy ở miền Thượng du (chú thích của tác giả)
(3) Chúng tôi đã xử dụng bom lửa tối đa trong khả năng, nhưng kết quả yếu kém vì rừng cây quá rậm rạp (chú thích của tác giả)
(4) Trích trong bài của tướng Lauzin, Tư lệnh Không quân Đông dương, trong Tạp chí Les Ailes (chú thích của tác giả)
(Dịch từ trang 212 tới 235 trong Agonie de L’Indochine, các đoạn L’Organisation de la Défense, L’Ennemi, La Bataille, l’Action Aérienne)
(còn tiếp bài 3, cuối cùng)
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
có phải
nguyển tường tâm
ở san jose
*
và là gia tướng
của
mê đi sơn *
“…đừng bàn lạc đề,…”
Xin qdnb chiếu sáng cho sự liên hệ của câu hỏi của qdnb về NTTâm, với trận ĐBP?
xin lổi
gởi lộn chổ
*
tôi nghỉ
thằng tàu cộng nó đang đánh trận điện bỉên phủ ngoài biển Đông
trận
điện biên phủ này sẻ làm mất nước
*
bọn việt cộng
to mồm dài lưởi
có giỏi thì ra biển Đông
mà
bắt sống tập cận bình
*
cái trận điện biên phủ ở Lai Châu
đả
thiu thối rồi
còn bàn chi nửa *
Cái gì mình không thích thì đừng đọc, đi chỗ khác chơi
Bài post lên ai thích thì ghé, ai không thích thì đừng ghé đó là quyền của mình nhưng xin đừng phá thối những người khác muốn theo dõi như tôi đây chẳng hạn. Nếu góp ý thì xin góp ý đứng đắn, đừng bàn lạc đề, vô duyên ….quấy phá tác giả và các đọc giả khác, vì đây toàn là các vị hiểu biết cả .Mong lắm thay.
qdnb
“Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật ” một lần cho xong câu chuyện dài…
Số là, ngay sau khi Trung Hoa thống nhứt, năm 1949, thì Mỹ dư hiểu chiên
tranh VN xoay chiều thuận lợi cho Việt Minh, sẽ được TC cứu giúp tận
tình. Và Mỹ có hành động thích ứng, là lập phái bộ TRIM vào năm 1950,
sang giúp đỡ đoàn quân viễn chinh Pháp cho…mày chết ! để “tao” xử lý
riêng với TC!
Khoảng 1953, quân Pháp lung lay dữ, nên Pháp bắt đầu có…tà ý, là bàn
tay đôi với Trung cộng về một giải pháp TRUNG LẬP Đông Dương, thà mất
đi một nửa, vẫn còn một nửa kia… Vì thế, là lúc Mỹ…nhảy vào!
Trận Điện Biện Phủ do ” gợi ý” của Mỹ, là dịp cho Pháp tỉnh thức, và
Hoa Kỳ chính thức can thiệp vô Đông Dương từ ngay sau đó, và đạt được
cái kết quả to đùng Lion’s shares ngày hôm nay. ( Xin góp ý với ông bại
tướng Navarre, nhá !)– ( Trung sĩ DâM TiêN, Cử nhân Binh bị Đại học sĩ)
Cù Nhầy là ai?
Nội cái nickname Cù nhầy nghe đã thấy tởm muốn ói mửa, nó đã chứng tỏ tư cách và trình độ vô học của Cù nhầy
Càng nói càng lòi cái tính chất vô học của CN, người ta càng cười CN thúi đầu ra
Xin đổi cái nickname thúi hoắc cho bà con nhờ
NHN
Ơ hay, cái anh ” Cù nhầy là ai?” rỗi hơn, nhẩy ?
Xin đọc lại cái còm của CN, có chỗ nào sai, hử ?
CN phán rang, ĐBP chuãn bị cho một giải pháp
chính trị tiên liệu , đúng hay sai, nào?
Hà hà…CN cùng anh em hạ những 37 cái tanks
cùa QĐ IV đồi phương tại XL, được chưa nào ?
Ấy a, CN là…trung sĩ, học nơi quân trường, mà
bạn ơi, bạn khó bén mảng tới.( Sư phụ Cù Nhầy)
Connais-toi toi-même! mon petit chou…
“Xin đổi cái nickname thúi hoắc cho bà con nhờ”
Ơ hay, tên người ta thơm hay không thơm, dính dáng gì đến ông/bà?
Hãy tôn trọng quyền tự do chọn tên của người khác, vì nó không có hại gì đến đời sống của NHN cả.
Nếu “Cù nhầy” làm NHN tởm, ói, thì xin đừng nhìn, đừng đọc lời bàn, tên, của cù nhầy.
Có lẽ nên bớt cố chấp, phê phán.
Cảm ơn nvtncs.
Ấy là cái anh ” có tật giật mình,” tự ái cá nhân abc còn
bự hơn tình yêu nước đó..
Cái ‘” ai ấy,’ chính là… bạn văn cũa lão Henry Navarre đấy,
N ‘est-ce pas vrai, ” monseignoire” Trọng Đạt ? Bà nó,
cu này mà làm tới Xã Xệ là dân làng mệt nghỉ với hắn ta.
Cù Nhầy là người mang khẩu Carbin M2 còn khói nóng
vào lúc Big Minh đọc Lời đầu hàng đấy, nhá.
Hỏi tì, ấy a, có phải cái nick ” Cù nhầy là Ai ”
Là kẻ ”traduire, c’est trahir” của bài Sử thiu này chăng?
Trăm voi không được bát xáo ( nước lèo !)
Chẳng có gì để mà học hõi về chiến thuật nơi cái trận ĐBP ngu ngơ
vế phía Pháp này.
Cũng chẳng có gì mà học hỏi nơi tinh than …hy sinh của bộ đội cụ Hồ,
hy sinh hàng núi xương, cuối cùng phục vụ cho đảng Cs và quyền lội
của Tàu Phù.
Cái ý nghĩa về chánh Trị mới là cần yếu,thì dịch giả không nói ra.
Nói chung, câu chuyện ĐBP nhắc lại chỉ là nhàm, làm vui cho những
\ai rảnh hơi, tò mò và dở hơi. Vô bổ !
ĐIÊN BIÊN PHỦ
Cái tên còn lại muôn đời
Đây là trận chiến của người Việt Nam
Cuối cùng quân Pháp phải thua
Coi như bại trận tập đoàn Viễn chinh
Việt Nam lực lượng Việt Minh
Hi sinh trên dưới 25 nghìn người
Dĩ nhiên phía Pháp không ngoài
Cộng đều hai phía 50 ngàn hi sinh
Mạng người thời buổi chiến chinh
Còn thua chiếc lá linh đinh giữa dòng
Mỗi lần hô tiếng xung phong
Thây người ngã xuống máu loan lạnh lùng
Âm u tử khí núi rừng
Bao nhiêu ngày tháng hãi hùng bấy nhiêu
Cây rừng dẫu khóc than nhiều
Còn xa mới kịp con người khóc than
Hiên ngang trộn với lầm than
Máu xương trộn với nỗi oan phận người
Xương khô tưởng chất thành gò
Máu khô tưởng ngập cả lòng suối sâu
Công thành nhất tướng về sau
Phải ngang lắm vạn xương khô lấp vùi
Điện Biên lòng chảo hiểm nghèo
Thử tài tướng Pháp cùng người Việt Nam
Thật là chiến trận vô song
Lệ này chưa có giữa nơi núi rừng
Thông minh, ngu dại chưa từng
Ai người chiến thắng, ai người bại vong
Giữa nơi núi thẳm bạt ngàn
Đem quân đồn trú giữa vùng trũng sâu
Một là dụ địch khinh thù
Hai là non dại tỏ nhiều hớ hênh
Cũng là hạ thấp lòng dân
Tinh thần yêu nước còn hơn sóng trào
Không nhìn ra được tầm cao
Tinh thần dân tộc lẽ nào mà hơn
Nên chi bại trận đầu hàng
Thấy ra quả chỉ muộn màng về sau
Biến thành uẩn khúc cuộc đời
Giữa lòng thế giới bời bời tiếp theo
Hậu thân Thế chiến thứ hai
Tiền thân Quốc Cộng tranh tài về sau
Hư trương thanh thế muôn màu
Đỏ vàng thảy chảy láng lai máu đào
Quốc gia Quốc tế đều nhào
Cuối cùng mới đến thế tình nhân văn
Quả là cuộc sống oan khiên
Mầm cây nẻ hạt triền miên vậy mà
Cuối cùng giữa cõi người ta
Phải qua bỉ cực mới hồi thái lai
Điện Biên ghi dấu chẳng phai
Chiến tranh thực chất vẫn là chiến tranh
Dầu ai vỗ ngực công thành
Chẳng qua cũng chuyện đỏ xanh vậy mà
Cuối cùng lịch sử dân ta
Lồng thêm sự cố đó là Điện Biên
Dẫu ai nói ngã nói nghiêng
Ngàn năm rồi vẫn chút riêng dòng đời !
ĐẠI NGÀN
(05/7/13)
Anh có tổ chúc trận liệt (Ordre de batailles) chi tiết đến đâu; anh có phương tiện
phòng thủ dồi dào tới đâu…
Mà anh mang từng 15,000 quân ra cách vùng thủ đô và dân cư xa những hơn
300 kms theo đường chim bay,
và anh dốn cả 15,000 quân đó vào một cái thung lũng , bốn bề có đồi núi bao
quanh,
thì anh chưa qua khỏi kiến thức quân sự cấp chef de section, trung đỗi trưởng,
trừ khi anh quá tin, nông nổi mà tin vô một sự hứa hẹn hão huyền, sẽ giết anh.
Anh là nhá quân sự không có cái đầu, mà lính hay nghêu ngao ” Fou la tête! . ”
Quân sự mà không có chính trị, là quân sự Mù ! Navarre..fou la tête! Un vaurien…
Có vài điều muốn thưa với ông anh :
(1) – Không như những sĩ-quan Việt Minh, từ thấp đến cao, kể cả Võ Nguyên Giáp, – đã không được đào-tạo một cách chính-qui, bài-bản của một quân-trường nổi danh trên trường quốc-tế, những sĩ-quan Pháp như Navarre, De Castries, v.v…toàn-bộ được đào-tạo không kém – nếu không bảo là hơn – trường VBQG Dalat của VNCH, và cũng có thể được so-sánh với West-Point của Mỹ. Pháp cũng có những trường Chỉ-Huy và Tham-Mưu, Cao-Đẳng Quốc-Phòng cho những cấp Tá, Tướng, dĩ-nhiên không kém hơn của VNCH. Chúng ta nên tìm những lý-do khác cho sự thất-trận ĐBP của Pháp, đặc-biệt về mặt chính-trị và ngoại-giao của Pháp hơn là chỉ lòng-vòng về mặt quân-sự.
(2) – Từ điểm trên, tôi ao-ước có những tài-liệu nào đề-cập đến đường-lối ngoại-giao của Pháp đối với quốc-tế nói chung, và đặc-biệt với Mỹ, Trung-Cộng và Nga nói riêng trong thập-niên 1950-1960. Đối với Mỹ thì hầu như đã rõ-ràng Mỹ từ-chối giúp về không-lực (oanh-tạc và chuyển-vận) cho trận ĐBP, còn đối với Trung-Cộng thì với sự giúp-đở tích-cực – có tính-cách quyết-định – của nước này cho VM, thì mặc-nhiên nói lên sự thất-bại của Pháp về ngoại-giao với TC (ngoài ra cũng có thể cho biết có thể có sự không thực-hiện – nếu không nói là sự phản-phé – của TC trong những cam-kết Pháp-TC nào đó hẳn có, làm cơ-sở cho Pháp mở trận ĐBP).
(3) – Mong-mõi bạn nào truy-cập được những tài-liệu nói về vai-trò Pháp đối với quốc-tế trong thập-niên 1950-1960, đặc-biệt đối với TC, và nhất là ngay sau khi TC chiếm cả lục-địa Trung-Hoa năm 1949.
Hay cho cái câu…”Fou la tête” !
KHÁ !Très bien !
Quả thật tình nhìn cái thế Điện Biên Phủ là thấy ngay “Fou la tête” !
Đưa hết quân dồn vào thung lũng tự vây, ở các cao độ thì gần như không … kiểm soát “patrol” chặt chẽ !
Cộng Sản Á Châu với súng thần công của Hán Cộng bì bõm liên tục, chưa tấn công đã banh !
Banh A1….
Banh A2….
Tình cho không biếu không… quá rõ !
NHƯNG MÀ CHẲNG LẼ CÁC TƯỚNG LÃNH CỦA PHÚ LANG SA… “Fou la tête”
Hay là … là,…
Tây ghét cay ghét đắng Thằng Con Nít Mẽo vì ghen tuôn, bóp còi qua mặt …mà cứ phải bồ hòn làm ngọt …
Giã bộ mất 7500 lính để thua … cho Mẽo háu thắng nhẫy vô tốn kém 21 nam sau này…!
Rút cho Mỹ thê thảm với Cộng sản !
Rồi bọn Tây già ngồi đó thỏa mãn sĩ diện hão…khoái chí nhìn cái Thằng Con Nít Mẽo háu thắng bị te tua…cho đỡ quê cái nhục của Pháp Quốc ngày nào..hồi đệ nhị Petain
Bọn Annamien thì thay thế thể chế Thuộc Địa bằng thể chế Cộng Nô khổ thê thảm tram bề cho bỏ ghét!
Việc gì phải chống Cộng sản dùm cho… Mẽo !
Trước khi bỏ chạy , trả độc lập còn gài lựu đạn CS…với “pờ lay mo” HOA kY
TỔ MẸ MẤY THẰNG TÂY !
Au revoir .
Tôi yêu cầu ĐCV đăng bày sau đây của phái đoàn sử gia Pháp gặp sử gia VN năm 2004 ở Hà Nội, dùng tài liệu của Trung Quốc, của VN và theo lời tường thuật của tướng tá Việt Minh tham gia trong trận ĐBP.
Bài này do sử gia Pháp kể lại và phân tích lịch sử trận ĐBP theo tài liệu TQ và VN, dưới con mắt của hai nước này.
Tôi tạm dùng Google dịch vì bài dài, và chỉ dịch một đoạn, bàn đầy đủ về trận ĐBP.
Bản dịch có thiếu xót và có thể có chữ sai, nhưng đọc giả có thể thấy sai ở chỗ nào và theo ý của bài thì sẽ chữa và hiểu đúng ý của câu trong bài.
Muốn biết bản chính bằng Pháp văn, xin quý đọc giả vào trang mạng sau đây:
http://www.univ-paris1.fr/fr/autres-structures-de-recherche/ipr/les-revues/bulletin/tous-les-bulletins/bulletin-n-19/paris-hanoi-et-pekin/
Xin cảm tạ ĐCV trước.
————————————
Tựa đề bài là:
Paris, Hà Nội et Pékin.
Université Paris 1
Sorbonne.
————————————-
…Việt Nam và Trung Quốc, về phần mình, đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của viện trợ nước ngoài trong trận chiến: Liên Xô và Trung Quốc đặc biệt là Cộng hòa Dân chủ Việt Nam [[Ngoài các nghiên cứu chuyên đề François Tam Bảo của Trung Quốc - Trung Quốc và giải quyết đầu tiên của cuộc xung đột ở Đông Dương (Geneva, 1954), Paris, ấn phẩm de la Sorbonne, năm 1979 - Công việc của tài liệu tham khảo về chủ đề này đã được công bố gần đây: Qiang Zhai, Trung Quốc và các cuộc chiến tranh Việt Nam (1950-1975 ), Chapel Hill, Đại học Carolina Press, 2000, Chen Jian, Mao Trạch Đông của Trung Quốc và Chiến tranh Lạnh, Chapel Hill, Đại học Carolina Press, 2001 Christopher Goscha, bối cảnh châu Á của cuộc chiến tranh trong quan hệ Đông Dương, không gian, mạng , Tiến sĩ, EHESS, năm 2000, Đức Thánh Cha Benedict Tréglodé, anh hùng và cuộc cách mạng tại Việt Nam, Paris, L'Harmattan, 2001 Ilya Gaiduk, Đối mặt với Việt Nam. Chính sách của Liên Xô hướng tới Đông Dương xung đột 1954-1963, Washington DC, Trung tâm Woodrow Wilson, 2003 Bertrand Hartingh, giữa nhân dân và dân tộc. Cộng hòa Dân chủ Việt Nam 1953-1957, Paris, EFEO, 2004]] và Mỹ -. Trong tỷ lệ rất nhỏ – Úc [[Trịnh Thị Định cho thấy, trên thực tế, làm thế nào nhận thức về mối đe dọa Cộng sản trong các bối cảnh chiến tranh lạnh khiến chính phủ Úc sau khi lần lượt của năm 1950, chính phủ Pháp cấp viện trợ kinh tế giới hạn Đông Dương.]] cho Pháp. Bằng cách đó, họ đã không ngần ngại vượt qua giảm phát biểu dài trên chỉ nhân vật chống thực dân của cuộc đấu tranh của họ để làm nổi bật vai trò và trọng lượng của hệ tư tưởng khác – chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân tộc cơ bản – không chỉ trong chiến tranh ở Đông Dương nhưng trong Chiến tranh Lạnh nói chung. Họ cũng đầu tư vào buộc một chủ đề thân các nhà sử học: quá trình ra quyết định. Các cổ phần cao: nó cuối cùng đã được chứng minh rằng, Việt Nam và Trung Quốc, có thể khẳng định quyền tác giả của các quyết định quan trọng dẫn Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến thắng quyết định tại Điện Biên Phủ. Kết luận của các diễn giả Việt Nam và Trung Quốc đã khẳng định, phát triển hay bác bỏ, khi thích hợp, công việc tương đối gần đây đã được thực hiện về đề tài này.
Đây là hai vấn đề cuối cùng – trợ giúp quá trình ra quyết định nước ngoài – chúng tôi đã lựa chọn để phát triển ở đây.
Tham chiến và các đồng minh của họ
Trong khi trình bày vai trò của Hoa Kỳ ở Đông Dương như một yếu tố quan trọng trong việc mở rộng và mở rộng của các cuộc xung đột hoặc kích hoạt của nó [[Theo đề nghị Liang Zhiming hối hận rằng người Mỹ, sau khi lần thứ hai Chiến tranh thế giới, đã đồng ý trở lại của Pháp ở Đông Dương và sau đó từ chối trả lời trưng cầu bức xúc của Hồ Chí Minh.] sử], Việt Nam và Trung Quốc có xu hướng đánh giá quá cao ảnh hưởng và áp lực của Mỹ về Pháp, như còn lại để nghe biểu thức của họ về “kế hoạch chiến tranh Pháp-Mỹ” (chưa từng có, ngay cả khi “Kế hoạch Navarre” đã bằng cách nào đó đưa ra các khuyến nghị Hoa Kỳ) hoặc “âm mưu của Mỹ nhằm quốc tế chiến tranh “(nếu có âm mưu, với Pháp là kẻ xúi giục đầu tiên, chứ không phải Hoa Kỳ) hoặc để” thay thế Pháp ở Đông Dương “(Eisenhower được trái ngược với nó). Bất cứ điều gì “ép buộc phương Tây” – trong trường hợp này, Mỹ – đã đè nặng lên sự phát triển của chính sách của Pháp ở Đông Dương [[Như Jenny Raflik. ]], Chính trị gia và quân đội Pháp phản đối bất kỳ nỗ lực để chấm dứt can thiệp của Mỹ trong việc tiến hành chiến tranh và quản lý chính trị của các quốc gia liên quan. Nhưng với tỷ lệ lớn mà sự tham gia của Mỹ ở Đông Dương mất trong những năm 1960, và tác động sâu sắc của nó đối với nền kinh tế và xã hội Việt Nam, nó rất dễ dàng để hiểu rằng câu hỏi về nguồn gốc của cam kết này có thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu Việt Nam và bị cám dỗ bởi những tiếng còi báo động của mục đích luận, những thường phóng đại vai trò của Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên.
Cuộc khủng hoảng của Điện Biên Phủ đánh dấu sự thất bại của cuộc đàm phán xung quanh Kền kền bản đồ – “[. [Lưu Văn Lợi]] biểu tượng của Dương bất hòa” các – cho thấy động cơ của Mỹ cam kết ngoài bảo tồn các lợi ích kinh tế (dự trữ gạo, thiếc, cao su, …) chủ yếu chiến lược [[Vũ Dương Ninh].] qua Đông Dương, nó đã được phổ biến rõ ràng là Trung Quốc được sự chấp thuận của Hoa Kỳ, và nói chung là chủ nghĩa cộng sản trên thế giới, trong đó Trung Quốc được coi là tác nhân chính trong khu vực Đông Nam Á.
Tương tự như vậy, sự hỗ trợ của Trung Quốc và Cộng hòa Dân chủ Việt Nam phần lớn là do mong muốn kiểm soát các “mối đe dọa Mỹ [[Đại Kelai. Liang Zhiming xác nhận rằng nếu can thiệp trực tiếp của lực lượng Mỹ tại Đông Dương, Trung Quốc sẽ lần lượt thuê quân đội của mình.]] “. Các song song là nổi bật, về niên đại, giữa viện trợ cho Pháp [[Chúng tôi sẽ không dừng lại ở khía cạnh này tại các sự kiện nổi tiếng, thông tin liên lạc phát triển trong một số Việt Nam, Trung Quốc và Pháp. Chỉ giữ lại các nghiên cứu chính Pháp (họ có rất nhiều tại Mỹ) bao gồm, ví dụ, luận án Laurent Cesari và bài báo gần đây của ông "Một sự hiểu lầm Dương: Hoa Kỳ và trận Điện Biên Phủ" , Thế giới Chiến tranh và xung đột hiện đại, số 211/2003, p. 77-91, luận án Hugues Tertrais, xuất bản dưới tên: Đồng đô la và súng. Chi phí của Đông Dương 1945-1954, Paris, Cheff, năm 2002, và gần đây nhất, đó là Peter Grosser chiến tranh Pháp và Đông Dương (1953-1956). Một "thẻ" để "nhỏ giọt", luận án tiến sĩ, IEP Paris, 2002]] và của Cộng hòa Dân chủ nhân dân về việc Việt Nam Trung Quốc. Là năm 1950 và tất cả mọi thứ đang tăng tốc với chuẩn bị cho trận chiến Điện Biên Phủ.
Nhưng sự hỗ trợ của Trung Quốc cho Cộng Sản Việt Nam trở lại những năm 1920, đào tạo trong tổ chức cách mạng của Trung Quốc được thành lập bởi Hồ Chí Minh [[Phạm Xanh.]], Nào đã trở thành Đảng Lao động (Lao Động). Tại thời điểm đó, Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã chiến đấu chống lại kẻ thù chung: các chế độ phong kiến đế quốc. Trong năm 1949, theo “chia sẻ chiến lược” thế giới thông qua trong chuyến thăm của Mao Trạch Đông cho Liên Xô, các vấn đề của Đông đã bị xuống hạng bởi Stalin đến sự chú ý của Trung Quốc, đặc biệt là Đông Dương [[Khi Ngài Xicheng.]]. Stalin cũng cảnh giác với Hồ Chí Minh, người mà ông nghi ngờ để đại diện cho hơn dân tộc Việt cộng sản thế giới [[Theo ông Bùi Đình Thành. Jean-Christophe Romer, mất lòng tin của Liên Xô đối với Việt Nam và các cố vấn Trung Quốc của họ là kết quả của cả hai cách hoàn toàn khác với sự tiếp quản của những người Cộng sản Việt Nam (như những người Cộng sản Trung Quốc) không tuân thủ với dự án của Liên Xô quyền lực của Mao ở Trung Quốc, sự mất lòng tin của nhân vật quốc gia của phong trào Cộng sản Việt Nam - hoặc Trung Quốc - khi xu hướng này lên án mạnh mẽ ở Đông Âu, và cuối cùng là sự sợ hãi của các nhà lãnh đạo Liên Xô để xem Trung Quốc đi đầu của phong trào cộng sản quốc tế.]] … Mong muốn củng cố tất cả các lực lượng xã hội để đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tự nguyện từ chối các cải cách ruộng đất sau, vẽ chỉ trích mỏng che kín mặt Stalin trong chuyến thăm bí mật của mình cho Liên Xô vào đầu năm 1950. Ông thậm chí còn từ chối đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự của Đại hội lần thứ hai của Đảng Lao động (1951), và cuối cùng tham gia nó từ từ trong năm 1953, “có lẽ bị áp lực của Liên Xô [[Bùi Đình Thành. Tréglodé Benedict nói rằng "trong vòng ba năm (1950-1953), các cuộc cải cách được đề xuất bởi Moscow và bước vào lĩnh vực này bởi các cố vấn Trung Quốc đã quan tâm đến lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là các phòng ban của nước Cộng hòa Dân chủ phía bắc Việt Nam. Điều kiện tiên quyết để tham gia Cộng hòa Dân chủ Bắc Việt Nam trong cộng đồng của các nước xã hội chủ nghĩa, và sự hỗ trợ trên thực tế sức mạnh của nó, cả nước đã bắt tay vào cải cách sâu rộng chủ nghĩa quốc tế của nó "kháng chiến" trên mặt đất đã không thể thiếu. " ]]. ”
Đây cũng là khi cuộc họp ba bên bí mật (Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh) [[sử gia Việt Nam đã đề cập đến hai ngày khác nhau: Tháng Mười Hai năm 1949 và tháng 1 năm 1950].] Đó được bắt nguồn từ các phác thảo của một chương trình hỗ trợ DÂN CHỦ NGHĨA VIỆT NAM. Nếu góc độ quân sự, viện trợ của Liên Xô đã được hạn chế việc cung cấp các hỗ trợ tài chính và các tài liệu quan trọng (đặc biệt là xe tải Molotova và súng phòng không 37 mm, sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc trung hòa sức mạnh không quân Pháp trong trận Điện Biên Phủ) [[Theo Để Hồ Lương ", 76 khẩu pháo phòng không 37 mm, 12 dải tên lửa H6 nhiều súng K50, 685 xe tải và xe một số lượng lớn các quinin, từ Liên Xô ", giữa tháng 5 năm 1950 và tháng 6 năm 1954. Ông nói thêm rằng sự trợ giúp cũng rất quan trọng trong lĩnh vực ngoại giao (hội nghị ở Berlin và Geneva), các tuyên truyền quốc tế (bảo vệ vị trí của Việt Nam trên báo chí và đài phát thanh của Liên Xô), đào tạo cán bộ, văn hóa (dịch văn học, bộ phim gửi, hồ sơ, tạp chí, máy ảnh, vv.). ]], Viện trợ của Trung Quốc là, tuy nhiên, rất có ý nghĩa – “quan trọng” đối với người Việt Nam, “không thể thiếu” đối với Trung Quốc – sử dụng đa dạng (phần cứng, quân sự, tài chính, nhân lực …).
Quân đội nhân dân Việt Nam trong những nơi đầu tiên, không có thể đã đạt đến một giai đoạn như vậy của sự trưởng thành, hiệu quả, và có lẽ cũng tự chủ, mặc dù hầu hết các nhà quản lý và kỹ thuật của nó đã không ở lại trong các học viện Trung Quốc chính trị hay quân sự, nếu sáu sư đoàn đó gồm năm 1950 đã được trang bị bởi Trung Quốc, mà còn góp phần đáng kể, thông qua một sứ mệnh của 79 chuyên gia do Vi Quốc Thanh [[Vi Quốc Thanh là tên tiếng Việt của Tổng Wei Guoqing, người đứng đầu của cố vấn quân sự Trung Quốc. Phạm Xan nói rằng các cố vấn quân sự Trung Quốc không chỉ là "cố vấn tư vấn" mà còn "tấn công". ]], Sự thành công quân sự lớn và quyết định đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam [[Đây là Đại tá Hoàng Minh Phương mình, cựu sĩ quan liên lạc với các nhiệm vụ quân sự của tướng Giáp Trung Quốc, đã công nhận anh ta.] ]: chiến thắng của trận chiến biên giới năm 1950 (Cao Bằng), đã mở các cánh cửa của Trung Quốc cung cấp. Nhưng trong những năm 1951 và 1592, với Trung Quốc sẽ được giới hạn bởi vì chiến tranh Triều Tiên mà hấp thu hầu hết lực lượng của mình [[Phạm Xanh.]].
Sau trận chiến biên giới, người Việt Nam đã quyết định chỉ đạo hoạt động của họ để đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, trong năm 1951 và 1952, Quân đội nhân dân Việt Nam đã gặp phải khó khăn đáng kể và bị tổn thất nặng. Sự thành công của một số các cuộc tấn công chống lại người Pháp đã chứng minh rằng Quân đội nhân dân Việt Nam là không có hiệu quả trong việc chống lại hoạt động chủ yếu đồng bằng hoặc đủ mạnh để tiến hành. Vào tháng Tư năm 1952, một cuộc họp quan trọng của Ủy ban Trung ương của Đảng Lao Động trong sự hiện diện của các cố vấn Trung Quốc, đã đưa ra một đánh giá khắc nghiệt của trận đấu vừa qua, ghi nhận những khó khăn của Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu trên địa hình bằng phẳng và tồi tàn, và chỉ trích “lạc quan mù quáng” xuất hiện trong Đảng như Quân đội nhân dân Việt Nam [[Ông Tân Thành.]]. Là tốt, đặc biệt là sau sự thất bại của Na San trong Tháng 10 năm 1952, Trung Quốc và Việt Nam, họ đã ý kiến rằng tìm cách đầu tiên giải quyết vấn đề cố hữu trước khi giải quyết các trại vùng đồng bằng, và trong khi chờ đợi, n để tấn công các điểm yếu của đối thủ. Do đó các cuộc tấn công đồng thời trong chiến dịch thu đông 1953-1954 trên Tây Nguyên, Thượng và Hạ Lào, và Campuchia [[Rà soát trận Điện Biên Phủ, chúng ta thường quên rằng cuộc tấn công của Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển đồng thời trên nhiều mặt trận. Đó là một cách đúng đắn chung Navarre, để đáp ứng một loạt các bài báo Catroux (Chủ tịch Ủy ban điều tra về Điện Biên Phủ) được đưa vào câu hỏi, cho biết "mà phổ biến rộng rãi đã đấu tranh ở Đông Dương vào mùa xuân năm 1954, "thêm:" Chúng tôi đã chiến đấu rất khó khăn trong tất cả Đông Dương, không chỉ ở Điện Biên Phủ tại Bắc Kỳ, nhưng Trung Đông và Bắc Lào, An Nam, trên đỉnh núi và vào Nam Kỳ và Campuchia "(Le Figaro, ngày 25 tháng năm 1959, p. 7). Chung Henri Eyraud xác nhận lời khai của ông (ông là người đứng đầu của một phần của Ma rốc trong 1953-1954) rằng lực lượng viễn chinh đã tiến hành một cuộc chiến tranh du kích ở Lào Trung khó khăn, trên mặt sau của trung đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam. Những giá trị quân đội có nhiều điện thoại di động hơn so với Quân đoàn, buộc cấp trên của mình để vẫn luôn luôn ở pháo binh (kết quả của hội chứng Cao Bằng.)]].
Các nguyên tắc của một cuộc tấn công của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ
Theo diễn giả Việt Nam vào cuối tháng 9 1953 (hoặc tháng Mười, tùy thuộc vào phiên bản), Bộ Chính trị của Cộng hòa Dân chủ Việt Nam (Bắc Việt) đã gặp nhau tại làng Tín Keo (tỉnh Thái Nguyên) để phát triển hướng dẫn rộng [[Tướng Hoàng Minh Thảo, Đại tá Trần Văn Thức và Lê Thanh Bạch đội trưởng. Tuy nhiên, Phan Huy cho biết, Bộ tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã quyết định phá vỡ sự tập trung của quân đội yêu cầu của kế hoạch Navarre sau khi việc loại bỏ các Nà trong tháng 8 năm 1953 trong thiết lập một kế hoạch với điểm 4 là chính xác để đẩy nhanh sự di chuyển của quân đội phương Tây và Thượng Lào.]]. Ở đây, Hồ Chí Minh trả lời tuyên bố của tướng Giáp về Kế hoạch Navarre, mà Trung Quốc đã cung cấp một bản sao cho người Việt Nam, đề xuất để giải tán lực lượng đối phương, cho đến nay vẫn tập trung ở đồng bằng sông Bắc Bộ, bởi một phối hợp các lực lượng tấn công thường xuyên và lực lượng địa phương, đưa ra đồng thời trên vùng Tây Bắc (Phòng 316), Trung và Nam Lào (với các lực lượng Pathet Lào), và phía Bắc tỉnh Thái Nguyên . Phần còn lại của lực lượng thường xuyên sẽ được sẵn sàng để tham gia một trong những hướng dẫn.
Và hướng đến một sự lựa chọn không thể tránh khỏi giữa tập trung và phân tán lực lượng của mình, các đối thủ sẽ được dễ dàng hơn dẫn đến sự cố. Tây Bắc, Trung ương Đảng đã nhận ra tầm quan trọng chiến lược từ những năm đầu của cuộc đấu tranh, nên được hướng chính của cuộc tấn công. Từ năm 1951, trụ sở của Tướng Giáp hiểu rằng Quân đội nhân dân Việt Nam không có đủ khả năng để tấn công các lực lượng viễn chinh Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ. Thay vào đó, chỉ đạo một phần của battlegroup của ông ở phía tây bắc, với ý định chiếm đoạt Lai Châu và Thượng và Hạ Lào [[Theo Đại tá Hoàng Minh Phương, người mà Đông Dương được coi là một chiến trường duy nhất.]], Cộng hòa Dân chủ Việt Nam tập trung nỗ lực của mình trên một trong những điểm yếu của đối thủ và buộc chung Navarre đưa quân tinh nhuệ đến Điện Biên Phủ (mà nó đã không được ở tất cả các thảo luận trong kế hoạch) để xây dựng một trại cố thủ mạnh mẽ mà không cứu trợ cũng không phải trời đã tạo thuận lợi cho anh ta, để tham gia cuộc chiến, cuối cùng, một năm trước đó hơn dự kiến [[Tướng Trần Văn Quang, sau đó người đứng đầu Văn phòng Điều hành Nhân viên của Bộ Tư lệnh.]]. Các nhà lãnh đạo Cộng hòa Dân chủ Việt Nam đã có thể không được coi là đối thủ xây dựng tại Điện Biên Phủ một cơ sở mạnh mẽ trong một khu vực miền núi ngoài (65% của huyện bao gồm cứu trợ, độ cao trung bình 1000 mét) và khó tiếp cận (500 km từ Hà Nội bởi các sườn núi và 150 km từ Trung Quốc), nhưng rõ ràng hy vọng rằng người Pháp phản ứng với sự gia tăng của các bộ phận 316 Lai Châu, mà trên đó các dịch vụ tình báo Pháp đã được thông báo đầy đủ [[Jean-Marc Le Page.]].
Tại ngày 19 tháng 11 2004 – vào đêm trước của Castor hoạt động! – Các chỉ huy tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập giám đốc điều hành của nó tiết lộ họ (thu đông) hoạt động lập kế hoạch Đông Xuân 1953-1954.
Để nghiên cứu các dự án Pháp Điện Biên Phủ, một phái đoàn quân sự Trung-Việt (mà là một phần Mai Gia Sinh, Phó trưởng cố vấn quân sự Trung Quốc) đã có. Đường Điện Biên Phủ, cô dừng lại vài ngày tại Nà Sản, ngày 30 tháng 11 năm 1953, mười ngày sau khi phát hành của các tiểu đoàn nhảy dù đầu tiên của Điện Biên Phủ, tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng của trại và tìm hiểu những gì bây giờ được xem sử gia Việt Nam như là một thất bại hoàn toàn [[Nhớ lại rằng giữa tháng mười và tháng 12 năm 1952, Tướng Giáp đã cố gắng trong vô vọng để nắm bắt các nốt ruồi Airland, được thành lập bởi Tổng Salan để chống lại các cuộc tấn công của Quân đội nhân dân Việt Nam bằng tiếng Thái và cuối cùng di tản của nước Pháp, bộ râu của đối thủ của họ, trong tháng 8 năm 1953.]]. Điều này “vô tư về phía trước” đạt Thám Pua 06 Tháng 12, 15 km về phía tây của huyện Tuần Giáo, các chỉ huy đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là nơi quyết định đã được đưa đến chạy để biến bộ phận ưu tú cho 308 Điện Biên Phủ, mà đã là sự phân chia 316, trong khi đơn vị kỹ thuật, được hỗ trợ bởi rất nhiều tình nguyện viên trẻ, mở rộng các tuyến đường giữa Tuang Giáo và Mường Thanh (Điện Biên Phủ). Địa hình và việc tổ chức trại tăng cường tiếng Pháp sẽ được nghiên cứu trên cơ sở báo cáo và chuẩn bị các đơn vị công nhận kỹ thuật và các đơn vị của trung đoàn trong đó có 148 máy bay tấn công lính Pháp đầu tiên vào ngày 20.
06 tháng 12, ba ngày sau khi Tổng Navarre, chiến entérinait quyết định của Bộ Chính trị tại Điện Biên Phủ. Theo quy hoạch của Ủy ban Quân sự của Đảng, chiến dịch là để bắt đầu với một cuộc tấn công trên Lai Châu và sau một tuần nghỉ ngơi, các binh sĩ tấn công Điện Biên Phủ vào đầu tháng Hai năm 1954. Thời gian dự kiến của chiến dịch là 45 ngày, ít hơn nếu có thể.
Trên 09 tháng 12, giám đốc điều hành của Quân đội nhân dân Việt Nam và các cố vấn Trung Quốc đội trước nhưng đã thông qua một kế hoạch khác nhau đáng kể. Một ý tưởng đã bị từ chối: đó đã dần dần bao vây quân cố thủ trước khi tấn công điểm tựa dần dần sau khi trại điểm tựa. Theo Mai Gia Sinh, chiến thuật này của “bóc vỏ” là nguyên nhân của sự thất bại của người Việt Nà. Đó là lý do tại sao sở thích của ông là một cuộc tấn công nhanh chóng và ồ ạt trên trại cố thủ, ngay sau khi các khẩu súng của pháo binh sẽ được chuyển ở Điện Biên Phủ và không chờ đợi sự trở lại của những người lính Việt Nam được cử sang Trung Quốc đào tạo trong việc sử dụng phần DCA. Mục đích là để đạt được trực tiếp vị trí của Đại tá de Castries bởi một tia chớp tấn công bộ binh, được hỗ trợ bởi pháo binh và được bảo vệ bởi Liên minh DCA. Lợi dụng tính chất tạm thời và điểm yếu của quốc phòng mà các đối thủ đã không khắc phục, đó là, theo Mai Gia Sinh để “xuyên qua tim” càng sớm càng tốt và sau đó quay lại tấn công các vị trí khác, mà do đó sẽ được thực hiện như một đơn vị tăng gấp đôi, đó là bên trong và bên ngoài.
Tướng Hoàng Văn Thái, chánh văn phòng của Tướng Giáp, thực hiện chiến thuật của mình một “cuộc tấn công nhanh chóng, nhanh chóng giành chiến thắng [[Truyền thông của Đại tá Hoàng Minh Phương và Phan Huy.]]”.
Quyết định hoãn cuộc tấn công vào trại kiên cố Điện Biên Phủ
Thảo luận công khai lần đầu tiên giữa Việt Nam và Trung Quốc, quyết định hoãn cuộc tấn công lớn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam trên các trại cứ điểm Điện Biên Phủ, dự kiến ban đầu 20 tháng 1 năm 1954, mở rộng đến 25 và 26 bị đình chỉ và thay thế một khẩu hiệu mới (“tấn công an toàn, một số tiến bộ”) trong các cựu (“tấn công nhanh, đánh nhanh thắng nhanh”), với tất cả những tác động hậu cần và chiến thuật rằng điều này sẽ gây ra, đã được làm rõ thêm.
Bổ nhiệm ngày 1 tháng 1 chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, Tướng Giáp, đặc biệt là dọc theo người đứng đầu các cố vấn quân sự Trung Quốc [[Liên Tướng Trần Văn Quang, người đi cùng tướng Giáp như hoạt động trụ sở chính các cán bộ của Bộ Tư lệnh, và Phan Huy Tuần Giáo đạt on January 12, nơi ông được tiếp xúc với các kế hoạch tấn công được phát triển bởi Hoàng Văn Thái và Mai Gia Sinh] The].. Kế hoạch này, tuy nhiên xa so với phác thảo mà Bộ Chính trị đã bước đầu rút ra, nhận được sự chấp thuận nhất trí của các thành viên của Ủy ban Quân sự của Đảng, tất cả các quyết định tấn công trại trước khi nó trở nên quá mạnh mẽ. Về phần mình, Tướng Giáp, cảm nhận những giới hạn của một chiến lược như vậy đã không được thuyết phục về sự liên quan của nó, nhưng đa số các thành viên Ủy ban đã chia sẻ quan điểm cho rằng Quân đội nhân dân Việt Nam gặp phải vấn đề không thể vượt qua cung cấp nếu chiến dịch là để tiếp tục. Trong khi tuyên bố không có đủ lý do để từ chối kế hoạch, Tướng Giáp được tạm thời tăng với ý kiến của đa số, không phải không có thái độ hoài nghi giao ngay sau khi người đứng đầu của cố vấn Trung Quốc, hoặc thừa nhận với Tham Mưu Trưởng Nguyễn Văn Hiếu một kế hoạch như vậy dường như để nói rằng “mạo hiểm [[Những chi tiết này đã được tiết lộ bởi Đại tá Hoàng Minh Phương.]]” nhất.
Faute de mieux, Tướng Giáp do đó truyền vào ngày 14, kế hoạch tấn công chớp để chỉ huy các đơn vị chính: Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tấn công, lần đầu tiên với tất cả pháo hạng nặng của nó, ngày 20 tháng hai ngày và ba đêm trong ưu tiên cho các sân bay và máy PC. Sự nhiệt tình và sự tự tin đã có mặt tại điểm hẹn. Nhưng sự thông minh mà người chỉ huy đã ra lệnh rà soát các căn cứ ở trại phía tây và phát hiện bất kỳ thay đổi trong tình hình, nói với ông rằng trong khi chờ đợi trại cố thủ đã thực sự tăng cường binh sĩ và vật chất, và bào chữa của mình được củng cố. Đặc biệt là trong tháng 19, hầu hết các pháo 105 mm vận chuyển từ Nha Na, được chưa đến vị trí của họ mặc dù thực tế rằng hàng trăm người đã được đưa vào làm việc để vẽ súng trong tay, với tốc độ 150 đến 200 mét mỗi giờ. Tướng Giáp khi ông quyết định hoãn cuộc tấn công vào ngày 25 tháng 1.
Mỗi ngày dành từ 19 đến 25 đã làm một chút nghi ngờ tính đúng đắn của chiến thuật. Ông đã được thông báo, đầu tiên, người Pháp đã mở một trung tâm mới của kháng chiến, củng cố công sự và hệ thống phòng thủ (bãi mìn, dây thép gai …), giới thiệu pháo binh mới. Một số quan chức của Quân đội nhân dân Việt Nam, mặt khác, bắt đầu nói cho anh ta những mối quan tâm của họ, do đó phá vỡ sự đồng thuận được rèn xung quanh chiến thuật blitzkrieg: Tướng Lê Trọng Tấn, lệnh của sư đoàn 312, ước tính rằng khoan của ba dòng của các đơn vị quốc phòng của Quân đội nhân dân Việt Nam để tiếp cận với máy tính của Pháp vẫn còn là một vấn đề, Phạm Kiệt, người đứng đầu phòng thủ đã lo ngại về việc thiếu bảo vệ pháo, một số trong đó đã cũng chưa đạt đến vị trí của họ. Cuối cùng, vào ngày 24, cơ quan tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam giảng dạy bằng cách giải mã một số điện tín rằng người Pháp đã nhận thức được ngày chính xác của các cuộc tấn công vào trại củng cố bởi những tiết lộ của một tù nhân.
Thời gian này, đó là quá nhiều. On January 24, Tướng Giáp đã quyết định trì hoãn cuộc tấn công 24 giờ. Kể từ buổi bình minh của ngày 26, ông được gọi là Vi Quốc Thanh mà ông giảng giải suy nghĩ của mình. Quân đội nhân dân Việt Nam, ông được bây giờ thuyết phục, đã không thể phá hủy đúng tiến độ mười tiểu đoàn bảo vệ tốt và hỗ trợ bởi một hàng không Pháp-Mỹ mạnh mẽ, đặc biệt là nhu cầu phối hợp đầu tiên của pháo binh và AAA. Tuy nhiên, một thất bại không được phép “bị đánh bại có nghĩa là bị hủy hoại [[Đại tá Hoàng Minh Phương.]]”. Đây là lý do tại sao Giáp sắp ra lệnh hoãn cuộc tấn công để loại bỏ các pháo binh, tập hợp quân đội và chuẩn bị một kế hoạch mới, tóm tắt bằng cụm từ “tấn công an toàn, giành chiến thắng một số” . Gửi 308 bộ phận phía bắc Lào – một dòng mà rất nhiều ngạc nhiên người Pháp – được cho là để rút ra những ngọn lửa của hàng không Pháp để bảo vệ sự tái định vị của năm bộ phận xung quanh trại kiên cố và đóng góp nhiều hơn cho sự phát tán lực lượng đối thủ [[Tướng Hoàng Minh Thảo.]]. Người đứng đầu của cố vấn quân sự Trung Quốc dao động mình một cách nhanh chóng để các đối số của tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và vội vã chuyển cho Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) một yêu cầu cho các tài liệu trên kinh nghiệm của chiến tranh của Trung Quốc Hàn Quốc, trong đó có “chiến tranh ngầm”. Ngày hôm sau, Vi Quốc Thanh đã ban cho những bài học về bao vây chiến thuật của một cơ sở, chuyển tiếp trên mặt đất bởi tất cả các cố vấn Trung Quốc để tạo điều kiện cho việc mở đường giao thông, vị trí của bộ binh , pháo binh và phòng không [[Tướng Nguyễn Đình Voc.]].
Sáu giờ trước khi cuộc tấn công theo kế hoạch, các thành viên của ủy cho trận đánh, sau một cuộc thảo luận sôi nổi cao su đóng dấu sự thay đổi chiến thuật, trong khi hàng chục ngàn máy bay chiến đấu đã được thực hiện cho các tấn công và đã sẵn sàng để bắn. Quân đội đã rút lui, với pháo binh và làm việc trong sự bao vây của tiến bộ và tổng của đối phương bằng cách xây dựng, lấy cảm hứng từ kinh nghiệm của Trung Quốc, một mạng lưới liên tục của các chiến hào và đường hầm (một trăm km trong tổng số), và hàng chục ngàn lô cốt và nơi trú ẩn. Sau đó chỉ có họ tấn công sóng liên tiếp từ ngoại vi vào trung tâm, ưu tiên cho sự kiểm soát của sân bay. Điều này quyết định quan trọng – các “khó khăn nhất” trong cuộc đời của chỉ huy của tướng Giáp – được chuyển đến trung tâm chỉ huy khẩn cấp. Hồ Chí Minh, người theo dõi chặt chẽ các quy trình làm việc, và Bộ Chính trị, khẳng định ngay sau khi họ huy động mức độ tất cả các nguồn tài nguyên phổ biến ở phía sau để đảm bảo sự thành công của cuộc tấn công, cung cấp thêm bằng chứng về sự phối hợp hoàn hảo giữa chính trị và quân đội, những người đã rất thiếu trong các trại của Liên hiệp Pháp.
Là người đứng đầu của cố vấn Trung Quốc quân sự, Tổng Vi Quốc Thanh, theo các nguồn tin Trung Quốc, đã đi của mình tương tự như của Tướng Giáp kết luận. Ngày 21 tháng giêng, ông đã gửi một bức điện cho Ủy ban Trung ương Đảng, trong đó ông đã đề nghị, đưa ra những khó khăn trong vận chuyển pháo binh, để đẩy lùi cuộc tấn công 26. Wei đã nhận được trong cùng một ngày một phản ứng tích cực từ Trung ương thúc giục ông không sử dụng các lực lượng thường xuyên trong một cuộc tấn công đồng thời lớn trên tất cả các đỉnh núi, nhưng thay vì gửi chúng đến đỉnh cao tấn công của cao điểm, sau khi có phương pháp vòng quân địch. Vị Thanh Quốc đã viết nó 24 để thông báo về những khó khăn trong vận chuyển súng, mà tất cả những người lính của bộ phận 312 đã bị ảnh hưởng một lần nữa. Nhưng các tin nhắn trả lời của ĐCSTQ, đôn đốc các chiến thuật của “bãi bỏ phòng thủ của đối phương” tiểu đoàn vào vị trí tiểu đoàn sau khi vị trí sẽ đến vào ngày 27! Trong khi đó Tổng Vi Quốc Thanh, ngày của riêng mình, đã chọn để tham gia tranh luận của Tướng Giáp [[Theo luận án chưa được công bố của Phan Huy.]] …
Trong tổng số, sự giúp đỡ và hỗ trợ của Trung Quốc là quan trọng trong trận chiến Điện Biên Phủ, như thừa nhận lần đầu tiên tất cả các nhà sử học lớn của Việt Nam và các nhân chứng, là những vật liệu và các lực lượng đạo đức Việt người đóng vai trò quyết định trong chiến thắng cuối cùng và trên hết, là “trí thông minh của người Việt Nam” và “đổ máu” của họ. Lý do tại sao, hơn nữa, không xem xét rằng Giáp chung và Wei, hai vị tướng tài năng lớn, có “ý tưởng tương tự”, mà sẽ giải thích các cuộc biểu tình nhanh chóng nếu người đứng đầu của các cố vấn Trung Quốc với tùy chọn mới bảo vệ bởi Tướng Giáp [[Theo đề nghị Phạm Xuân Hằng kết luận của hội nghị ở Bắc Kinh.]]?
Tuy nhiên, nhà sử học Trung Quốc đã không giấu giếm sự khác biệt của họ với các đồng nghiệp Việt Nam của họ về vấn đề này, nói thẳng thừng rằng kinh nghiệm của Trung Quốc trong chiến tranh (Trung Quốc và Hàn Quốc) và tư tưởng quân sự của Mao đã không chỉ “cho phép Tướng Giáp để trở thành một vị tướng vĩ đại”, nhưng cũng góp phần vào sự thành công của Quân đội nhân dân Việt Nam và cung cấp “cơ sở cho chiến thắng của ông ở Điện Biên Phủ.” Cụ thể hơn, sự lựa chọn của vùng Tây Bắc là hướng chính của một cuộc tấn công đã được dự định để “giải phóng” Lai Châu, Bắc và Trung Lào, sau đó tấn công miền Nam Việt Nam và đưa Sài Gòn thông qua Campuchia sẽ có kết quả từ một “đề nghị rất quan trọng của Trung Quốc” được thực hiện trong tháng của tháng 8 năm 1953 [[Theo Guo Zhigang.]]. Tuy nhiên, Ủy ban Trung ương CPC cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong các quyết định chiến thuật dẫn đến trận Điện Biên Phủ.
Các học giả Trung Quốc, đặc biệt, đã làm cho nó rõ ràng rằng sự thay đổi trong chiến thuật của tháng là một quyết định song phương, mà là để nói, giữa Trung Quốc và Việt Nam, và nói chung, Trung Quốc đã đóng vai trò của lực lượng “đề nghị”, trong khi ở Việt Nam trở lại sức mạnh để “quyết định [[Guo Zhigang.]]”. Trong ngắn hạn, chúng ta không thể phủ nhận viện trợ – vô điều kiện – Trung Quốc [[Một số sử gia Việt Nam (bao gồm cả Phạm Xan, Hiệu trưởng Phạm Xuân Hằng) đã thận trọng nhắc nhở các hỗ trợ - bất cứ thời gian hạn chế (1948-1949) và phạm vi (cung cấp thực phẩm, thức ăn và muối và thậm chí cả viện trợ quân sự cho mùa xuân 1949) - Quân đội Giải phóng Nhân dân Quân đội nhân dân Việt Nam ngay trước khi chiến thắng của ông trong Quốc gia trong năm 1949. ]] là “một phần rất quan trọng” của chiến thắng Việt Nam tại Điện Biên Phủ, mà không có Quân đội nhân dân Việt Nam không thể “phá vỡ thế bế tắc [[Ông Tân Thành.]]”.
Những tranh cãi không được giải quyết và có thể không được tiếp cận với tài liệu lưu trữ “chiến lược” sẽ bị từ chối các nhà nghiên cứu – những cơ quan chính trị của cả hai nước. Một vài nguồn tin Pháp và Mỹ về, dựa trên công việc của cơ quan tình báo, cho thấy Tổng Navarre đã nhận thức đầy đủ về sự tồn tại của một nhiệm vụ Trung Quốc Tướng Giáp và những chương trình thuyết phục từ trước khi 13 diễu hành, sự lựa chọn để mặc cuộc tấn công ở phương Tây, và sau đó thấy rằng trong chủ nghĩa cực đoan cung cấp trên Điện Biên Phủ là một phần trong quyết định của Trung Quốc [[Pierre Journoud.]].
Sự nhất trí giữa các nhà sử học Trung Quốc và các sử gia Việt Nam đã được thực hiện, tuy nhiên, để xem xét sự đóng góp rất quan trọng của người Việt Nam để chiến thắng.
Các yếu tố của chiến thắng: thiên tài chính trị và quân sự Việt Nam và / hoặc viện trợ của Trung Quốc …
Tóm lại, người Việt Nam giao tiếp thừa nhận rằng viện trợ của Trung Quốc đã thực hiện “một yếu tố quan trọng” của chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ. Trung Quốc đã cho phép quân đội lãnh đạo nhân dân Việt Nam được giáo dục và đào tạo trên lãnh thổ của mình. Cô đã có, tại Điện Biên Phủ, với Quân đội nhân dân Việt Nam của 24 khẩu súng và 3.600 vòng 105 mm (18% của tổng số vỏ), 1 700 tấn lương thực (10,8% tổng số, chủ yếu là gạo , vận chuyển qua Lai Châu) [[Phạm Xanh.]], không bao gồm thiết bị quân sự và y tế, thuốc, và vào cuối cuộc chiến, gửi hai tiểu đoàn, một pháo DKZ 75 mm, ‘khác’ 12 pin 6 Katyusha tên lửa. ” Nhân viên tư vấn đã chứng minh vô giá và họ thường ca ngợi về ưa thích để tiếp tục cuộc chiến chống lại phía Việt Nam bất chấp những khó khăn mà họ đã trải qua trong đất nước của họ hoặc tại Hàn Quốc, và cuối cùng được coi là cuộc đấu tranh này như là của riêng của họ [ [Tướng Hoàng Minh Thảo, Đại tá Hoàng Minh Phương.]].
Tuy nhiên, nhà sử học Việt Nam đã không bỏ lỡ cơ hội để ghi nhớ chiến thắng Điện Biên Phủ là chủ yếu biểu hiện của lòng yêu nước vĩ đại của Việt Nam, kết hợp với những tiến bộ trong nghệ thuật quân sự Việt Nam và thiên tài của Hồ Chí Minh và tướng Giáp.
Trong thực tế, kích thích bởi viễn cảnh của một cuộc cải cách nông nghiệp chính hãng, hơn 260 000 “công nhân tình nguyện công dân [[Ngô Đặng Trí, Tướng Nguyễn Hữu Lệ, Trương Thị Tiến và Lê Thị Quỳnh Nga. Nguyễn Quang Bài nói cụ thể hơn là việc huy động thanh niên và Thu Vũ Quý đã tập trung vào các tỉnh Thanh Hóa, trong đó cung cấp 120.000 người, trong đó có 25.000 phụ nữ.]] “, 50 000 Dịch vụ phía trước – nhiều hơn là đã tưởng tượng các dịch vụ Pháp [[Henri Navarre nhớ lại trong hồi ký của mình rằng Việt Minh đã có thể đáp ứng trong khu vực cao "một khối lượng 75.000 cu li" (Op. cit, trang 205 .. -206)]] -. đã được huy động do Ủy ban cung cấp trán, một cơ quan liên ngành thành lập năm 1952, mở rộng trong năm 1953 đến mức độ của các liên khu và tỉnh, dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Phạm Văn đồng. Từ trở lại “đường trung tuyến” hoặc tiền gửi mà xếp hàng trên các tuyến đường được thực hiện bởi quân đội, 25 000 tấn gạo và 1.450 tấn vũ khí và đạn dược được vận chuyển và ngày và thậm chí cả vào ban đêm. Không vận chuyển là xe đạp bỏ qua (hơn 20.000 thiết kế đặc biệt để vận chuyển!), Ngựa, xe bò hoặc trâu, tàu thuyền và ca nô, bè mảng, xe cút kít, và quan trọng nhất, hàng trăm xe tải được cung cấp bởi Liên Xô, duy trì và điều hành bởi một vài nghìn trình điều khiển và cơ khí thông qua đó đã được vận chuyển các khẩu súng và 85% khối lượng hàng hóa [[Khi công bố những số liệu này, Ngô Đặng Trị phần vạch trần hình ảnh của Epinal thường xuyên trở về Việt Nam trong những cuốn sách lịch sử, sách giáo khoa (và thậm chí cả trang bìa của các chương trình hội nghị Hà Nội ...) để tượng trưng cho "chiến tranh nhân dân" mà vô số nhân dân đẩy cũ Peugeot xe đạp nặng trĩu và ngụy trang cẩn thận.]].
Ngoài ra, để giảm thiểu phạm vi khả năng của lập luận của Trung Quốc, người ta thường ghi nhận của sử gia Việt Nam là Điện Biên Phủ là một phần của một truyền thống cổ xưa của “trận chiến anh hùng” được thực hiện bởi “người bất khuất” chống lại quân đội mạnh mẽ đế quốc: 938 Bạch Đằng, một chiến thắng hải quân lớn trong quân đoàn viễn chinh của nhà Hán đã kết thúc sự cai trị của Trung Quốc đầu tiên trong vương quốc của Đại Việt, Đông Bộ năm 1258, chiến thắng đầu tiên chống lại đội quân Mông Cổ Chí lang năm 1427, đã ký kết thúc giai đoạn thứ hai của sự thống trị của Trung Quốc (nhà Minh), Đống Đa trong năm 1789, một chiến thắng trên kết thúc vũ trang Trung Quốc xâm lược cuối cùng của Đế chế của miền Bắc .. . và sau đó, cuộc Tổng tấn công mùa xuân năm 1975, dẫn đầu là chỉ huy của quân đoàn ¾ đó đã ra lệnh cho một trung đoàn tại Điện Biên Phủ [[Tiêu đề của Tướng Giáp.]] …
Vượt quá chiều cao tính dân tộc này, truyền thông Việt Nam đã không quên nhắc nhở các vai trò và tầm quan trọng của ý thức hệ cộng sản trong chiến thắng [[Đặc biệt, Đại tá Phạm Huy năm cho phục hồi chức năng quân sự và tư tưởng và Trương Thị Tiên cải cách ruộng đất.]]. Như vậy, sự lây lan của các chiến dịch quy mô lớn “tư tưởng cải tạo” và “quân đội cải tạo” trong quân đội từ năm 1953 – là “phục hồi phong trào rộng lớn hơn của bất kỳ kháng chiến chống Pháp” – biết thời gian thực của mình vinh quang trong trận Điện Biên Phủ [[sử gia Việt Nam đã xác nhận các tác phẩm trước đó của Tướng Giáp, giải thích rằng trong tháng 4 năm 1954 việc thực hiện tăng tốc các hội nghị tư tưởng và tôn tạo các nhân viên có giúp khôi phục lại một đạo đức bị ảnh hưởng bởi một quá lạc quan sau những thành công đầu tiên trên sân, và đánh giá thấp khả năng phục hồi của thiếu của đối thủ kinh nghiệm trong việc đào rãnh và nơi trú ẩn, các thiếu nguồn lực, mệt mỏi, tần suất và mức độ nghiêm trọng của chấn thương, vv. ]].
Đối với người Pháp, những nguyên nhân thực sự của sự thất bại là “cần tìm kiếm trong sự thất bại của hành động bên ngoài để hỗ trợ, tăng cường và phát hành các đơn vị đồn trú bao vây trại tăng cường” và ở cấp độ chiến thuật, như trong ” chuẩn bị và tiến hành cuộc chiến [[Trung tá Michel David. Các vấn đề cụ thể hơn về hàng không được phát triển bởi chung Roland Các Bourdonnec, Trưởng phòng Lịch sử của lực lượng không quân, người nhớ lại rằng hàng không trong khu vực Đông Dương, trong đó có Điện Biên Phủ, đã bị đặc biệt lựa chọn có chủ ý của các cơ quan quân sự ưu tiên chiến lược đối với nhà hát Trung ương châu Âu.]] “. Hơn nữa, trái với lập luận rằng Tổng Navarre bảo vệ tất cả cuộc sống của mình để biện minh cho thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ [[Tổng Navarre đã viết trong hồi ký của mình rằng "nếu điều tồi tệ nhất đã xảy ra, nếu dự đoán của chúng tôi là khó chịu, đó là vì Chính phủ không có lệnh tư vấn, được tham gia vào chu trình chết người của Hội nghị Geneva. Quyết định ban tổ chức hội nghị này tại Geneva, thực hiện khi trò chơi của chúng tôi đã được thực hiện và có thể không được thay đổi, thay đổi hoàn toàn bản chất của vấn đề. [...] Đây là ngày khi có quyết định của Hội nghị Geneva rằng số phận của Điện Biên Phủ đã được niêm phong “(Henri Navarre, Agony Đông Dương (1953-1955), Paris, Plön, 1956, p. 255]], sử gia Việt Nam đã lập luận rằng việc mở Hội nghị Berlin, January 25, với bối cảnh triển vọng các cuộc đàm phán tương lai tại Geneva, đã đóng một vai trò thứ yếu. lãnh đạo Việt Nam được cam kết theo đuổi chiến thắng tại Điện Biên Phủ đầu tháng Mười Hai [[Phan Huy Le.]].