WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

59 năm Hiệp định chia đôi đất nước và cuộc di cư từ Bắc vào Nam

 

 

Hiệp Định Genève chia đôi đất nước được ký ngày 20-7-1954 và liền sau đó là cuộc di cư chưa từng có của gần một triệu người từ Bắc vào Nam. Tính tới tháng 7 năm nay, 58 năm trời đã trôi qua. Trẻ thơ ngày ấy nay đã thành người già. Cả dân tộc vẫn trông ngóng an bình và hạnh phúc trên nửa thế kỷ. Nửa thế kỷ của chết chóc, tàn phá, chia ly. Nhân dịp này, chúng tôi xin kể hầu độc giả về Hiệp Định Genève và ký ức về cuộc hành trình tìm tự do của dân miền Bắc, trong đó có chúng tôi, để gọi là “ôn cố tri tân”.

HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20-7-1954

Cuộc chiến tranh giữa Pháp (với quân đội Quốc Gia VN tiếp tay) và Việt Minh đã bước sang năm thứ 9 vào năm 1954. Lực lượng Việt Minh càng ngày càng lớn mạnh từ khi Mao Trạch Đông chiếm trọn Hoa Lục năm 1949. Mao đã giúp Hồ Chí Minh tổ chức và trang bị các đơn vị lớn đến cấp sư đoàn và đại đoàn. Trong khi đó tướng Henri Navarre, tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp tại Đông Dương, lại phạm lỗi lầm lớn về chiến lược. Ông đưa quân đến đóng tại lòng chảo Điện Biên Phủ với ý định chặn đường quân Việt Minh tiến sang Lào và nhử quân Việt Minh đến để tiêu diệt. Navarre không ngờ Trung Cộng đã tiếp tế cho Việt Minh hàng ngàn đại bác và cao xạ phòng không, đồng thời gửi nhiều tướng lãnh của Hồng Quân sang giúp việc tham mưu và chỉ huy. Đường tiếp tế cho Điện Biên Phủ bị cắt, chỉ còn trông vào không vận, trong khi không vận bị hạn chế khả năng hoạt động vì thời tiết và hệ thống phòng không của địch. Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954 là chuyện đương nhiên phải xảy ra.

Trước áp lực quân sự của Việt Minh, Pháp muốn điều đình để tìm lối thoát. Việt Minh cũng sẵn sàng nói chuyện vì qúa mệt mỏi, bị tổn thất nặng về nhân sự và hy vọng có thể chiếm được nhiều lợi thế trên bàn điều đình. Các nước lớn cũng muốn giải quyết vấn đề Đông Dương cho xong sau khi đã dàn xếp chấm dứt chiến tranh Cao Ly. Vì thế, một hội nghị quốc tế về Đông Dương, trong đó vấn đề Việt Nam là chính, được triệu tập tại Genève, Thụy Sĩ, ngày 8-5-1954. Đồng Chủ tịch hội nghị là Anh và Liên Xô. Chu Ân Lai đại diện Trung Cộng. Phạm Văn Đồng đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam. Sau ngày 7-7-1954, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, tân Ngoại Trưởng, được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cử sang thay. Lào và Cao Miên cũng có đại diện tham dự.

Về phiá chính phủ Pháp, vài ngày sau khi hội nghị khai diễn, Thủ Tướng Laniel bị lật đổ. Tân Thủ Tướng Mendès France thuộc đảng Xã Hội lên cầm quyền. Khi nhận chức, ông hứa với dân Pháp là ông sẽ đạt giải pháp cho vấn đề VN trong 100 ngày. Nếu không, ông sẽ từ chức. Đích thân Thủ Tướng Mendès France đi phó hội vì ông kiêm luôn chức bộ trưởng ngoại giao. Điều này chứng tỏ quyết tâm tìm hòa bình của ông, nhưng cũng cho thấy thế yếu của ông khiến đối phương gia tăng đòi hỏi, gây thiệt hại cho quyền lợi của Pháp và của phe Quốc Gia VN.

Ngày 20-7-1954, Hiệp Ước Ngưng Chiến Tại Việt Nam được ký kết giữa Thiếu Tướng Delteil, đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương và Thứ Trưởng Quốc Phòng Tạ Quang Bửu, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hiệp Ước Ngưng Chiến có 47 điều với nội dung chính như sau:

- Giới tuyến quân sự được ấn định từ cửa sông Bến Hải theo lòng sông đến biên giới Lào-Việt (gần vỹ tuyến 17). Thiết lập khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên. Phiá Bắc giới tuyến do VNDCCH kiểm soát. Phiá Nam do Pháp và chính phủ Quốc Gia VN.
- Việc rút quân, chuyển quân, vật liệu và dụng cụ quân sự của hai bên phải làm xong trong thời hạn 300 ngày.
- Trong thời hạn này, dân chúng được tự do chọn và chuyển đến vùng kiểm soát của bên này hay bên kia theo ý muốn.
- Trao trả tù binh và thường nhân bị giam giữ.
- Không được đem quân đội, nhân viên quân sự, võ khí vào VN. Có thể đổi hay thay thế không qúa 50 người mỗi tháng. Không cho ngoại quốc lập căn cứ quân sự.
- Thành lập Ủy Ban Liên Hợp hai bên để thi hành Hiệp Ước và Ủy Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế gồm đại diện 3 nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan.

Kèm theo Hiệp Ước Ngưng Chiến còn có Bản Tuyên Cáo Chung Kết không có chữ ký của phái đoàn nào, nhưng được coi như tất cả các phái đoàn đều thỏa thuận, trừ hai phái đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ. Hai phái đoàn này công bố tuyên ngôn riêng.
Bản Tuyên Cáo Chung Kết có 14 điều. Quan trọng nhất là Điều 7 dự trù tổng tuyển cử tự do tại VN vào tháng 7-1956, tức 2 năm sau ngày ký Hiệp Định.

Điều 9 của Tuyên Cáo nói tới việc không chấp nhận những sự phục thù cá nhân hay đoàn thể đã tham gia tranh đấu ở bên này hay bên kia.

Hiệp Ước ấn định như thế nhưng chẳng bên nào áp dụng nghiêm chỉnh, ngoài các điều khoản liên quan tới ngưng bắn và phân vùng.

Hiệp Định Genève 1954 là kết qủa của một sự dàn xếp giữa các đại cường Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng. Mỹ giữ thái độ không chống không ủng hộ. Việt Minh và phe Quốc Gia đã ngậm đắng nuốt cay, bất lực nhìn những kẻ khác quyết định số phận của mình. Không một phe VN nào muốn đất nước bị chia đôi. Việt Minh nghĩ rằng họ đang kiểm soát được đa số lãnh thổ, trừ các thành phố lớn. Nếu có một cuộc ngưng bắn tại chỗ, họ sẽ có nhiều lợi thế. Phe Quốc Gia đề nghị quân hai bên rút về những vùng tập trung tạm thời, dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp quốc, trong khi chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử tự do. Phe Quốc Gia có lợi thế riêng trong việc đang kiểm soát những thành phố lớn, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn, tất cả các thành phố khác ở miền Trung và miền Nam, trừ Quy Nhơn nằm trong Liên Khu 5 của Việt Minh. Ngoài ra, phe Quốc Gia cũng rất quan tâm tới sự an toàn của giáo khu Phát Diệm. Khu này được Giám Mục Lê Hữu Từ thành lập từ những năm 1946, 1947, được bảo vệ bằng một lực lượng quân sự riêng, không cho Việt Minh đến quấy phá, cũng không cộng tác với Pháp. Nhiều lãnh tụ Quốc Gia, trong đó có Ngô Đình Nhu, Lê Quang Luật… bị Việt Minh truy bức và không muốn sống trong vùng Pháp kiểm soát, đã đến nương náu tại khu tự trị Phát Diệm. Đến năm 1949, khu tự trị mới cộng tác với chính quyền Quốc Gia vừa được thành lập.

Vì vậy, việc chia đôi đất nước khiến phe VN nào cũng bị thiệt hại. Hai bên đều cố tranh đấu nhưng không thể thay đổi ý định của các đại cường. Khi biết việc chia đôi đất nước là điều không thể tránh, đại diện Việt Minh Tạ Quang Bửu đưa đề nghị lập giới tuyến ở vỹ tuyến 13 với ý định đặt Huế và Đà Nẵng vào nửa phía Bắc. Dĩ nhiên Pháp và Anh không chịu. Phạm Văn Đồng đề nghị nhích lên vỹ tuyến 16. Chu Ân Lai thỏa thuận với Mendès France và Molotov phân vùng ở vỹ tuyến 17 để khai thông hội nghị và áp lực Việt Minh phải chấp thuận. Dù phải nhận một giải pháp bất như ý, trái với tham vọng của họ, Việt Minh phải làm bộ hân hoan ca ngợi chiến thắng và hòa bình, trong khi bắt đầu sửa soạn đường lối hành động cho tương lai: chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử được dự trù 2 năm sau, và khi cần, sẽ phát động một cuộc đấu tranh võ trang mới để chiếm miền Nam.

Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước là đòi hỏi và hy vọng của phe cộng sản. Họ tính toán rằng tại miền Bắc họ có thể kiểm soát dân chúng hầu như 100%. Ở miền Nam cũng vẫn có người ủng hộ họ, chưa kể những cán bộ nằm vùng do họ gài lại sẽ thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, phá rối và cả tổ chức gian lận cục bộ trong cuộc bầu cử. Như vậy chắc chắn họ sẽ có đa số phiếu và họ sẽ thống nhất đất nước dưới sự thống trị của họ. Họ đã sốt sắng liên lạc với chính quyền miền Nam từ 1955 để hối thúc thi hành tổng tuyển cử, kêu gọi các chính phủ đã tham dự hội nghị Genève làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (danh xưng chính thức của miền Nam từ 26-10-1955) để chính phủ này phải tôn trọng hiệp định, nhất là điều khoản tổng tuyển cử. Khi VNCH quyết liệt từ chối, cộng sản mở chiến dịch trên khắp thế giới tố cáo VNCH và Mỹ vi phạm hiệp định, có tình kéo dài tình trạng chia đôi đất nước.

VNCH công bố chỉ chấp nhận tổng tuyển cử khi nào dân chúng cả hai miền có tự do như nhau, có sự thông thương và tự do bỏ phiếu không sợ một áp lực nào, dưới sự kiểm soát hữu hiệu của Liên Hiệp Quốc. Xét về thực tế, lời biện minh này có cơ sở. Nhưng cũng cần xét thêm về mặt pháp lý để xem việc từ chối tổng tuyển cử có vi phạm Hiệp Định Genève hay không.

Trước hết, Hiệp Định Ngưng Bắn chỉ do đại diện của Pháp và Việt Minh ký, đại diện chính phủ Quốc Gia VN không ký. Phe Quốc Gia chỉ bị ràng buộc về những gì liên quan tới quân sự, vì Quân Đội Quốc Gia được Quốc Trưởng Bảo Đại tạm thời cho đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương (các thỏa ước quân sự 30-12-1949 và 30-12-1950). Pháp không có quyền quyết định nhân danh Quốc Gia VN về các vấn đề có tính cách chính trị. Hành động trái nguyên tắc này phải được coi là lạm dụng lòng tin (abuse de confiance).

Thứ đến, việc tổng tuyển cử được nói trong Điều 7 của Bản Tuyên Cáo Chung Kết. Bản Tuyên Cáo này coi như được đương nhiên chấp thuận (tacitement consentie) nhưng không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào. Riêng hai phái đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ đã ra tuyên ngôn bầy tỏ sự không đồng ý. Tuyên Ngôn do Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ công bố nói rõ: “Việt Nam long trọng phản đối việc ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng Chính Phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc lập và Tự Do cho xứ sở” (1). Khi một chính phủ không ký văn kiện chung và công khai tuyên bố chống lại nội dung của văn kiện đó, tại sao lại có thể bị kết án vi phạm hiệp định, không tôn trọng cam kết?

CUỘC DI CƯ TỪ BẮC VÀO NAM

Chiếu điều 14, khoản d của Hiệp Ước Ngưng Chiến, dân chúng có quyền tự do chọn vùng sinh sống trong thời hạn 300 ngày, dân miền Bắc đã lũ lượt tìm cách vào Nam ngay sau khi Hiệp Định được ký kết. Dân các thành phố Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng may mắn nhất, vì nếu muốn đi Nam, họ có thể đi ngay từ thành phố của họ, không gặp trở ngại gì, lại có thể bán đồ đạc, xe cộ, nhà cửa trước khi đi, dĩ nhiên với giá vừa bán vừa cho. Trong khi đó dân ở các thành phố cộng sản đã tiếp thu, nhất là ở các miền quê xa xôi, việc đi Hà Nội hay Hải Phòng để từ đó vào Nam không phải là chuyện dễ dàng. Trước hết, họ phải bỏ lại tài sản, nhà cửa, ruộng vườn. Kế đó, phải thoát được những ngăn chặn trá hình hay công khai của Việt Minh. Dù vậy, khắp nơi, đặc biệt vùng đồng bằng Bắc Việt, dân chúng vẫn kéo nhau đi Nam từng đoàn từng lũ, bất kể những khó khăn và nguy hiểm.

Bỏ phiếu bằng tầu (bay) tại phi trường Gia Lâm

Bỏ phiếu bằng tầu (bay) tại phi trường Gia Lâm

Tôi đã được chứng kiến cảnh dân quê, đặc biệt từ Bùi Chu, Phát Diệm, Ninh Bình, lũ lượt kéo nhau đến thành phố Nam Định, trên đường đi Hà Nội để xuống Hải Phòng vào Nam. Theo Hiệp Định, Hải Phòng được chính quyền Quốc Gia và Pháp cai trị thêm 300 ngày trước khi trao lại cho Việt Minh. Mỗi ngày có hàng ngàn người đến tạm trú trong nhà chơi có mái của trường Lê Bảo Tịnh, chung quanh nhà thờ, nhà xứ và nhà người quen. Họ không tạo ra những vấn đề ăn ở, vệ sinh, trật tự. Họ ngừng ở Nam Định như chỗ nghỉ chân hoặc đợi người nhà. Mỗi đợt chỉ tạm trú một hai đêm rồi kéo nhau đi, nhường chỗ cho đợt khác. Họ tự lo việc ăn uống và dọn dẹp. Chính quyền gửi đến nhiều cán bộ nam nữ gọi là giúp dân, nhưng thật ra là để thuyết phục những người này quay về, đừng đi Nam nữa. Cán bộ tỉ tê là tại sao lại bỏ cửa bỏ nhà, bỏ mồ mả ông bà tổ tiên để đi đến nơi xa lạ, không biết tương lai sẽ ra sao. Họ còn dọa rằng chính quyền tay sai của Pháp Mỹ trong đó rất hung ác, chuyên môn hứa láo và bóc lột dân lành, rằng nay nước nhà đã độc lập rồi, chỉ hai năm nữa là tổng tuyển cử thống nhất Nam Bắc, chẳng lẽ lúc đó lại bồng bế nhau về có phải là phí phạm thời giờ, của cải và khó ăn khó nói với bà con ở lại. Nhưng những người đã quyết đi không nao núng vì những lời tuyên truyền, dụ dỗ. Có vài trường hợp dành giật, níu kéo giữa cán bộ và dân ra đi, khiến Ủy Hội Quốc Tế có văn phòng ở Nam Định phải đến can thiệp. Nói chung, những người đi sớm đều đi được vì cộng sản không dám làm mạnh lúc đó để tỏ ra tôn trọng Hiệp Định. Ngoài ra, họ cũng chưa có kế hoạch ngăn cản vì việc dân ùn ùn bỏ đi xảy ra qúa bất ngờ, ngoài sự ước tính của họ. Thời gian sau, việc ngăn cản người đi Nam được thực hiện có bài bản. Ai đi trễ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và cũng khó đi lọt.
Sau ngày việt Minh tiếp thu Hà Nội, 9-10-1954, Hải Phòng trở thành nơi duy nhất phải đến trên đường đi Nam. Vào thời gian cao điểm, tháng 4-1955, mỗi ngày Hải Phòng đón nhận khoảng 2,000 người đến từ các nơi. Trong khi đó có trên 70,000 người đang đợi các chuyến tàu và máy bay. Tàu của hải quân Pháp và Hoa Kỳ mỗi ngày chở hàng chục ngàn người vào bến Sài Gòn. Khoảng 70 phi cơ quân sự Pháp, không kể máy bay của Air Vietnam, được trưng dụng, lập cầu không vận chở dân di cư vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày 26-5-1955, tàu Gascogne của Pháp là chuyến tàu cuối cùng chở 888 người di cư tới Sài Gòn. Dân di cư từ Bắc vào Nam có 533,868 người đi đường biển, 243,657 người đi bằng máy bay. Nếu tính luôn công chức, quân nhân và gia đình, thêm những người vượt tuyến bằng phương tiện riêng, tổng số dân di cư lên tới trên 800,000 người.

Cuộc ra đi bằng tầu hỏa tại Hải Phòng

Cuộc ra đi bằng tầu hỏa tại Hải Phòng

Cuộc di cư 1954-1955 là cuộc bỏ phiếu bằng chân của trên 800,000 người dân miền Bắc cương quyết rời bỏ chế độ cộng sản để đi đến vùng do chính phủ Quốc Gia kiểm soát. Nếu dân được đi tự do, con số này sẽ cao hơn nhiều. Nên nhớ rằng dân số miền Bắc lúc đó, tính từ vỹ tuyến 17 trở ra, chỉ có khoảng 13 triệu người. Khi gần một triệu người bỏ đi, cộng sản VN mới thấy dân không yêu họ như họ tưởng. Miền Bắc mất đi một tiềm lực nhân sự lớn. Đa số dân có học và có khả năng cao về doanh thương và công nghệ ở các thành phố lớn đều đi vào Nam. Ngoài ra, cộng sản còn bị mất mặt về phương diện tuyên truyền. Vì thế họ phải ngụy biện rêu rao rằng đa số người di cư là giáo dân Công Giáo, bị các cha cố tuyên truyền, dụ dỗ đi Nam, số khác là những kẻ có quyền lợi gắn bó với Pháp và những kẻ phản quốc theo gót thực dân đế quốc Pháp Mỹ. Lý do tôn giáo đúng một phần nhưng vì đức tin, không phải vì dụ dỗ mê hoặc. Ngoài ra, giáo dân dù chiếm phần đông cũng không phải là tất cả. Sự thực, dân miền Bắc đã thấy tận mắt cách cai trị độc tài, tàn bạo, dối trá của Việt Minh, đã nếm mùi tiền cải cách ruộng đất qua những cuộc đấu tố, dù mới chỉ là những bước dạo đầu nhẹ nhàng nhưng đã đủ làm dân khiếp sợ. Họ đã thấy chủ nghiã cộng sản vô thần đang được từ từ áp dụng, giết dần giết mòn truyền thống văn hóa của dân tộc. Đó là lý do khiến người ta bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Bỏ hết để đi vào một miền đất chỉ hứa có tự do, không hứa thiên đàng hạ giới. Số người di cư đã vượt qúa mọi dự đoán. Người Pháp dự trù có 60,000 người. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chỉ hy vọng 100,000. Thực tế đã có 860,000 người chạy cộng sản vào Nam (2).
Ngày 11-5-1955, Việt Minh tiếp thu thành phố Hải Phòng. Luật Sư Lê Quang Luật, Đại Biểu Chính Phủ Quốc Gia tại Bắc Việt, rước một hộp đất miền Bắc vào trong Nam, chấm dứt sự hiện diện của chính quyền Quốc Gia Việt Nam tại miền Bắc.

Cuộc di cư 1954-1955 của gần một triệu người từ Bắc vào Nam vừa là một gánh nặng vừa là một chiến thắng đầu tiên cho miền Nam. Số người đông đảo này, tuy mới chỉ là một tảng băng nổi, đã chứng tỏ sự oán ghét của nhân dân đối với chế độ cộng sản. Nó cung cấp nhiều bộ óc, nhiều bàn tay để cùng đồng bào miền Nam xây dựng một xã hội tiến bộ vượt xa xã hội miền Bắc. Nó đóng góp xương máu để bảo vệ miền Nam. Nó tạo sự thông cảm, hòa đồng Bắc Nam qua tiếng nói, tập tục, hôn nhân, thức ăn thức uống. Nói tóm lại, con người và văn hóa đồng bằng sông Hồng đã được đem vào đồng bằng Cửu Long để hòa hợp thành một văn hóa mới: văn hóa Việt Nam thống nhất. Không cần sự áp đặt bằng súng đạn như năm 1975.

CUỘC TRỐN CHẠY CỦA GIA ĐÌNH TÔI

Là dân thành phố ở lại sau khi Việt Minh đã tiếp quản Nam Định từ tháng 6-1954, gia đình tôi chưa có quyết định dứt khoát đi hay ở. Chúng tôi nhiều lần sững sờ vì những vụ ra đi bất ngờ của những người thân quen. Việc đi Nam được giữ bí mật, không ai nói với ai, đôi khi được giữ kín với cả anh chị em ruột. Buổi sáng khi thức dậy, nếu thấy nhà hàng xóm đóng kín cửa, không một tiếng động, không một bóng người, là biết nhà đó đã đi rồi, đi rất sớm, bằng xe hàng hay bằng phương tiện nào khác lúc trời chưa sáng hẳn. Lúc đó người ở lại vừa buồn vừa phân vân. Đi hay ở? Đi thì phải bỏ lại hết và làm cách nào để có thể sống nơi xa lạ? Lịch sử tái diễn với những cuộc vượt biên 20 năm sau.

Đến tháng 11-1954, bố mẹ tôi mới mới sửa soạn đưa gia đình di cư vào Nam. Yếu tố quyết định là việc cán bộ kinh tế đòi xát nhâp xưởng tiểu công nghệ của bố mẹ tôi vào công ty hợp doanh với nhà nước. Bố tôi biết đây là thủ đoạn nhà nước kiểm soát trước rồi chiếm hữu sau. Sưu cao thuế nặng đã bắt đầu đè trên tư nhân. Tôi có chiếc xe đạp “demi course” rất nhẹ bằng duras do Đức sản xuất, chiếc xe tôi dùng đi học và đã đạp tới tận Thái Bình để thu tiền hàng. Khi sửa soạn di cư, tôi đem chiếc xe thân yêu ra bán ở chợ trời. Khi vừa ngã giá 800,000 tiền cụ Hồ với người mua thì một cán bộ mặc sơ-mi nâu, đeo sắc cốt, xuất hiện ngay sau lưng và đòi tôi đóng thuế 400,000. Tôi không bán nữa, đưa xe về để lại cho một người bà con với giá thấp hơn, nhưng không bị mất tiền thuế cao đến vô lý như vậy. Ngay lúc đó, tuy mới chỉ là một đứa con nít 14 tuổi, tôi đã nhận ra thật khó sống với mấy ông Việt Minh này.

Gia đình tôi phải đi Hải Phòng làm hai đợt. Đợt đầu bố tôi dẫn tôi và hai em trai đi theo. Mẹ tôi, chị họ tôi và hai em nhỏ phải đợi đi đợt sau. Chúng tôi đi xe hàng lên Hà Nội rồi từ đó đi xe hỏa xuống Hải Phòng. Hà Nội đã được Việt Minh tiếp thu từ tháng 10. Muốn đi Hải Phòng phải có giấy phép vì là đi vào vùng địch còn kiểm soát. Rất may bố tôi đã dự liệu và có giấy phép đi mua hàng. Địa điểm ranh giới giữa hai vùng kiểm soát là ga Đỗ Xá thuộc tỉnh Hải Dương trên quốc lộ số 5. Tại ga này, trước khi sang vùng địch kiểm soát, mọi hành khách đều bị lục xét tỉ mỉ. Nhiều phụ nữ và trẻ em bị lột quần áo để khám xem có dấu vàng và tiền Đông Dương Ngân Hàng trong người hay không. Vàng và tiền Đông Dương bị tịch thu hết. Nhiều người khi bị lột hết vàng và tiền đã khóc lóc quay về, không dám đi Nam khi chỉ có hai bàn tay trắng.

Bố tôi biết trước chuyện này nên đã nghĩ ra cách dấu vàng rất hiệu qủa. Ông cho ba anh em chúng tôi đi guốc mộc. Mỗi chiếc guốc được dùi hai lỗ xuyên chỗ đóng quai. Mỗi lỗ có một lượng vàng lá Kim Thành được cuộn lại và luồn vào. Sau đó quai guốc được đóng lại bằng đinh và che lỗ. Bố tôi còn lấy nước muối xoa trên đinh để làm cho đinh dỉ xét trông như đinh cũ. Thế là ba anh em tôi với ba đôi guốc có thể mang theo 12 lượng vàng. Chỉ khổ cho tôi phải canh chừng các em, một đứa 10 tuổi, một đứ 7 tuổi, để chúng đừng tiết lộ bí mật và đừng đánh rơi guốc từ trên xe lửa. Riêng bố tôi, ông còn đánh lừa cán bộ bằng một mánh khác. Ông cuốn giấy bạc 100 đồng Đông Dương trong những điếu thuốc lá được rút ruột, rồi ấn lại chút thuốc ở hai đầu. Ông bỏ 15 điếu thuốc có tiền vào vào phiá trong bao thuốc thơm Du Kích hay Điện Biên, 5 điếu phiá ngoài là thuốc thật. Ông tỉnh bơ rút thuốc hút trước mặt cán bộ, đôi khi còn mời cán bộ hút một điếu cho vui. Nhờ có chút vốn liếng nhỏ mang theo, gia đình tôi mới dễ xoay sở trong những ngày đầu đặt chân đế Sài Gòn.

Đến Hải Phòng, bố tôi giao chúng tôi cho một người anh họ của ông đang ở trại tạm trú để nhờ bác trông coi chúng tôi trong khi bố tôi trở lại Nam Định đón mẹ, chị và hai em tôi. Chúng tôi ở với bác và anh Thanh con bác tại căng (camp) Hạ Lý nằm giáp ranh thành phố Hải Phòng. Đây là một khu trại được dựng với hàng trăm lều vải lớn của quân đội, có thể cung cấp nơi tạm trú cho hàng ngàn dân di cư trong thời gian làm giấy tờ và chờ tàu hay máy bay chở vào Nam. Trong thời gian ở trại, chúng tôi được phát gạo nhưng phải tự túc mua thức ăn. Bên cạnh trại, mỗi buổi sáng có những người buôn thúng bán bưng đến bán rau, thịt cá và gia vị. Việc ăn ở kể như tạm ổn. Đối với tôi chỉ có hai nỗi khổ. Một là lều vải nhà binh tỏa hơi nóng, mùi vải bố rất ngột ngạt khi trời nắng và nền đất lầy lội sũng nước khi trời mưa. Hai là sự mong ngóng từng giờ từng phút bố mẹ tôi từ Nam Định đến đoàn tụ với chúng tôi. Tôi đã nghĩ nếu có chuyện gì xảy ra khiến bố mẹ tôi không đi được, tôi sẽ dẫn các em trở về, không thể đi Nam khi không có bố mẹ.

May mắn thay, chỉ một tuần sau, bố mẹ, chị và các em tôi đã đi lọt và có mặt ở Hải Phòng. Bố tôi hú hồn vì thoát được bàn tay công an. Tối hôm trước ngày bố tôi về lại Nam Định để đưa nốt gia đình đi đợt hai, loa phát thanh của khu phố đã gọi rõ tên bố tôi và tố cáo bố tôi đi vào vùng địch để nhận công tác gián điệp cho địch. Nghe tin này, bố tôi cùng gia đình rời khỏi nhà ngay trong đêm. Sáng sớm hôm sau lấy xe đi Hà Nội ngay. Công an không trở tay kịp nên bố tôi đã thoát và gia đình tôi mới được đoàn tụ.

Ở Hải Phòng, bố tôi đưa mẹ con tôi đến ở nhờ nhà một người quen tại phố Dinh. Trong thời gian lo giấy tờ và chờ đi Sài Gòn, chúng tôi có dịp thăm viếng Hải Phòng, thành phố lớn thứ nhì của miền Bắc. Chúng tôi đi thăm chợ Sắt, phố Khách, nhà hát lớn, đi lễ nhà thờ phố Dinh…, nhìn cảnh thành phố đìu hiu chờ ngày đổi chủ.

Ngày 8-12-1954, chúng tôi được xe nhà binh chở từ điểm hẹn tại nhà hát lớn Hải Phòng tới phi trường Cát Bi. Từ đó chúng tôi được máy bay cánh quạt của Air Vietnam chở vào Sài Gòn. Lần đầu tiên tôi được đi máy bay, được một cô chiêu đãi viên mời nước ngọt miễn phí. Nhưng vì ly nước có “gaz”, tôi đã ói ra mật xanh mật vàng, quên cả nhìn xuống quê hương miền Bắc để nói lời giã biệt.

59 năm đã trôi qua. Tôi vẫn chưa về thăm lại quê hương miền Bắc. Nếu Trời cho có ngày tôi về được, thì chắc cây đa bến cũ con đò đã khác xưa! Và người cũ sẽ còn lại ai?

Mặc Giao

———————————————————

Ghi chú:
(1) Tài liệu trích từ “Hiệp Định Genève 1954” của Nguyễn Anh Tuấn. Loại sách Tìm Hiểu Chính Trị. Sài Gòn 1964.
(2) Những con số ghi theo Huỳnh Văn Lang trong bài nói chuyện tại Westminster, Hoa Kỳ, 8/11/2008

91 Phản hồi cho “59 năm Hiệp định chia đôi đất nước và cuộc di cư từ Bắc vào Nam”

  1. nvtncs says:

    @người khách quan,
    ông không phải là người có lễ nghĩa khi ông viết “con chien”, và như vậy, ông không xứng đáng được người bình thường đọc và trả lời những ý kiến của ông.
    Ông không đủ trí khôn sơ khai để hiểu rằng đọc giả nghĩ là cha mẹ ông dậy ông không kỹ lưỡng và nền gia giáo của ông còn nhiều thiếu xót.
    Ông gọi người ta là con chó nhưng nếu không chứng minh tại sao người ta là con chó, thì rất hại đến sĩ diên của cha mẹ ông.

    Vậy xin ông vui lòng chiếu sáng cho tôi tại sao người theo Thiên Chúa là con chó.

  2. noileo says:

    Xin phép đuọc gửi đến quý bác, quý ACE một tài liệu liên quan đến cuộc cộng sản chia cắt VN năm 1954, ban “Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 26 Tháng 4 năm 1958 về thắc mắc trong vấn đề tái thống nhất đất nước”
    Quý bác, quý ACE có thể xem thêm chi tiết tại nguồn:

    http://www.vietthuc.org

    http://www.vietthuc.org/2011/10/20/tuyen-b%E1%BB%91-c%E1%BB%A7a-chinh-ph%E1%BB%A7-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%99ng-hoa-ngay-26-thang-4-nam-1958-v%E1%BB%81-th%E1%BA%AFc-m%E1%BA%AFc-trong-v%E1%BA%A5n-d%E1%BB%81-tai-th%E1%BB%91ng-nh%E1%BA%A5/

  3. Khách Quan says:

    Mỗi khi thấy loài cẩu trệ xúm vào cấu xé ai thì bạn đọc đều biết rằng người đó đang làm chúng run sợ, trường hợp nick Lại Mạnh Cường trên d/đ này cũng vậy, ông ta hơi viết ra sự thật thì các con chien cũng nhào vào tấn công, hầu mong bịt miệng người dám trình bầy sự thật bằng những lời lẽ tri trét, mạ lỵ, với kỳ vọng làm đối phương e ngại mà rút lui khỏi d/đ. Con chien làm gì có trình độ và tài liệu sự thật trong tay để tranh cãi một cách đường hoàng?
    Đừng sợ hãi ông Lại Mạnh Cường ạ, mỗi bài viết của ông tôi đều đọc kỹ, tuy tôi không đồng ý tất cả những điều ông viết, nhưng tôi thấy ông viết rất hay, chuyên chở nhiều sự thật, có dẫn chứng, lý luận mạch lạc, khác xa những con chien tầm thường, chỉ biết cắm mặt vào dĩ vãng lầm lỡ của cha, anh mà sủa bậy, hãy can đảm như ông đã làm, diễn đàn ý kiến nhờ vậy mà một ngày kia sẽ sáng sủa hơn chăng?

    • Builan says:

      Thưa anh
      Đã chọn cho mình cái nick KHÁCH QUAN thì là vì tư cách , danh dư, cuả một con người lương thiện.anh phaỉ thể hiện caí tư cách đúng nghiã vời nick cuả anh ! Còn như anh xữ sự không lương thiện thi, bạn dọc ( quan giám khảo) có tinh thần tích cực sẽ đánh giá từng câu chữ cuả anh ! người tiêu cực sẽ thầm khinh !

      Bênh bên nầy bỏ bên kia ( chưỉ tiếp sức) thì khách quan chỗ nào ?Tôi không là CON CHIÊN thì , anh miệt thị bôi nhọ bao nhiêu cũng chẵng ke ! Điễn hình như CS gọi “CON CHIÊN BuìLan” tôi chỉ CƯỜI KHÌ – đâu có thèm trả lời – Văn phong hàng tôm hàng cá, hơn cả mấy mụ rỗi cá TQT- Cầu Muối Cầu ông Lãnh mà gân cỗ chống chế- nguỵ biện…đó trườc rào sau, khoe mẽ như là nhà đạo đức – nhà chân tu _liếu mạng – bạt mạng – chẵng xem ai ra gì “Diếc không sợ súng ! Nam Mô A di đà Phật ! ( anh KQ tìm đọc coms cuả CS thì rõ !)

      Tôi xin phép giả dụ thối
      - Già nhu: Không may gặp phaỉ người cùng hàng tôm hàng cá du thủ du thực như CS, họ phan biện kiểu “ăn miếng trả miếng” tương tự : .Goị quý anh là TẶC TỬ, CẪU TƯ, Dâm tử -tục tử, Trọc TỬ….”cái gió tanh mưa máu” đó, Đụng chạm , xúc phạm đến bao nhiêu người ???

      Rút ruột một lời khuyên (Có sừng có mõ quý anh cứ gõ nhau) Đâm nhau cho thoả thích theo thú tình các anh!
      Xin làm ơn TÔN TRỌNG số đông ngoài cuộc! Tôn giáo nào cũng dạy con người sống lương thiện TỨ BI đâu ( MÔ PHẬT) BÁC AÍ đâu( AMEN )???

      Những dòng tâm huyết chân thành nầy không chỉ dành riêng cho nhị vị mà con VAN XIN những người cùng phe nầy hay phe kia nên hết lòng thân trọng!

      Tôi không hề gây thù gây oán gì với quý anh đâu. Xin quý anh có lúc bình tình xem lạí COMs !! Có phaỉ quá nặng về CẢM TÍNH mà lu mờ, mụ mị phần LÝ TINH đến mất cả lý tri !!!
      KÍNH

    • Yêu Nước says:

      dân 54 thì đã làm sao nào, người ta có chúa soi sáng người ta mới hieu thế nào là tự do, tự do tôn giáo; người ta ko đánh Pháp vì Ph cho người ta nhiều ân huệ, Pháp- bồ đem đến nhiều đồ ăn và chúa che chở cho người ta; ai mà ngu theo VC ngu dốt làm gì sống trong rừng thiéu thốn khổ sở trăm đường rồi chiến đâu đến chết; ah uh, năm 75 sang Mỹ thì sao nào, ở Mỹ sướng gấp vạn ở VN làm ít mà đc hưởng nhiều, ở đó có tự do tôn giáo; các ông giải phóng đc đất nước thì cứ ôm lấy nước mà sống; chúng tôi sống là phải có chúa, chết sẽ đc lên thiêng đàng; còn sống ở đất nào thì đấy là quê hương; Nếu VC ko đánh Phap/Mỹ toàn dân ko khổ như bây giờ!!!

    • Thích Nói Thật says:

      Khách Quan nói đúng, loài cậu trệ đang dùng ống đu đủ thổi đít nick Lại Mạnh Cường theo chiêu thức của chủ tịt Nguyễn Minh Triết, ta khen nick LMC nhưng thực chất là ta “phân hoá” nội bộ, đâm bị thóc thọc bị gạo để chúng xào xáo tố khổ lẫn nhau.

      Rất tiếc chiêu này đã lỗi thời, Đốc tờ Cường không phải là con nít để cho Khách Quan dụ khị! Khách Quan suy nghĩ tìm chiêu khác xem thế nào?

    • Builan says:

      “Đừng sợ hãi ông Lại Mạnh Cường ạ, mỗi bài viết của ông tôi đều đọc kỹ, tuy tôi không đồng ý tất cả những điều ông viết, nhưng tôi thấy ông viết rất hay, chuyên chở nhiều sự thật, có dẫn chứng, lý luận mạch lạc, khác xa những con chien tầm thường, chỉ biết cắm mặt vào dĩ vãng lầm lỡ của cha, anh mà sủa bậy, hãy can đảm như ông đã làm, diễn đàn ý kiến nhờ vậy mà một ngày kia sẽ sáng sủa hơn chăng?

      Bác LMC được KQ bơm cạch cạch như vậy ! Xin bác cho ý kiến _ bác nghĩ sao-??? bay bỗ lên mây hay xấu hổ ????

      Về phần tôi, tôi tin là bác LMC ít ra cũng có lần để mắt đến tôi – Tấm lòng cuả tôi tương kính thật thà …. đối với bác !

      _Anh KQ cũng rất nên lương thiên , bình tỉnh- chiêm nghiệm rồi PHỤC THIỆN !
      Tôi thận trọng, hồi họp, bất an, sợ com cuả mình không chính xác !!
      May thay lại có thêm nvtncs(ở trên) & Yêu Nước ( reply) cùng noí lời công đạo ! A DI DÀ PHẬT

  4. Bút Thép VN says:

    Thầy Lại Mạnh Cường viết rằng “Tôi chống độc tài gia đình trị của triều đại nhà Ngô Đình thời Đệ Nhất Cộng hoà, đồng thời bọn quân phiệt thời Đệ Nhị Cộng hòa, cũng như trước đó chống đám tay sai cho thực dân Tây và hiện nay là Việt Cộng“.

    Nhưng sau khi “độc tài gia đình trị” nhà họ Ngô bị sụp đổ, “bọn quân phiệt” Cộng Hoà không còn nữa, chế độ CSVN tàn bạo hơn gấp trăm lần, Thầy Cường bị nó nhốt cả bày đâm phát run, câm họng, hết dám chống, cúp đuôi chạy. Thoát được VC rồi bây giờ tha hồ ba hoa chích choè, ăn cháo đái bát?

    • Trọc Phú Thời Gian says:

      @Thoát được VC rồi bây giờ tha hồ ba hoa chích choè, ăn cháo đái bát?

      Viết một câu thành ngữ Việt nam cũng còn sai (ăn cháo đá bát -Bite the hand that feeds you/ Eaten bread is soon forgotten, chứ không phải “ăn cháo đái bát”), vậy Bút Thep chỉ là loại Bút Gỉ, không đủ trình độ “phản loạn với LMC” đâu.

      • nvtncs says:

        Thời buổi loạn ly có khác, đã dốt nát, mà không biết mình dốt, lại còn dậy đời sai bét.

        Xưa kia, trước thời loạn ly CSVN, các cụ dùng động từ “ĐÁI”, để nhấn mạnh về kẻ đã không biết ơn, không đền ơn, mà còn quay trở lại làm hại và nhục mạ người đã làm ơn cho mình.
        Hồ Chí Minh, chẳng hạn, khi giết bà Năm, là kẻ ăn cháo ĐÁI bát.
        Không chỉ ĐÁ cái bát, mà còn ĐÁI VÀO cái bát.

        “Tiin.vn – Câu thành ngữ này chỉ sự phụ bạc đối với người đã có công giúp đỡ mình trong lúc hoạn nạn.

        Trong dân gian vẫn có hai phiên bản của câu nói này đó là “Ăn cháo đái bát”, và “Ăn cháo đá bát”. Mặc dù khác nhau về từ ngữ nhưng ý nghĩa của hai câu nói này cũng không có gì là khác lạ cả.

        Thành ngữ gồm hai vế “ăn cháo” – nghĩa là lòng tốt của một hay nhiều người khác ban cho ai đó gặp lúc hoạn nạn khó khăn, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc.

        Có bao nhiêu thứ khác, quý hiếm và đáng giá hơn, tại sao “cháo” – thức ăn bậc thấp nhất, lại được chọn để chỉ cái ân cái nghĩa do người khác mang lại?

        Thông thường cháo là món ăn nhẹ, dễ tiêu thích hợp với người bệnh đuối sức, không ăn được cơm.

        Ngoài ra, trong dân gian các cụ bà thường dùng cháo để cúng lễ ở các miếu dưới gốc đa, sau đó ban phát cho trẻ để lấy phước. Khi gặp nạn đói kém, những người có lòng nhân đức thường nấu cháo để phát chẩn, giúp cho người bị nạn bát cháo cầm hơi.
        Như vậy, sở dĩ sao dân gian ta lại lấy bát cháo để hàm sự giúp đỡ, ban phát bởi đơn giản khi ốm đau chính bát cháo mới là liều thuốc tốt nhất cho họ. Đặc biệt sự quan tâm của người khác trong lúc ốm đau, hoạn nạn mới quý giá hơn gấp bội lần khi khỏe mạnh. Chính thế mà tấm lòng của người giúp đỡ những lúc ta hoạn nạn cần phải biết trân trọng.

        Nhưng trên đời không thiếu những con người đã không nhớ đến công ơn người giúp đỡ mình trong lúc khó khăn, lại còn trả nghĩa bằng những việc làm xấu xa. Hành động “đái bát”, hay “đá bát” đều thể hiện những việc làm phụ bạc như thế.

        Tuy nhiên về đái bát hay đá bát thì động từ “đái” không chỉ là hành vi xấu mà còn là sự phỉ báng, xúc phạm đến người đã giúp đỡ mình. Câu nói ăn cháo đái bát chỉ phê phán gay gắt những kẻ sống không biết điều, không có trước có sau, vô ơn, bội nghĩa. Và chắc chắn những kẻ như thế sẽ phải gặp quả báo.

        http://tiin.vn/chuyen-muc/hoc/hoc-tu-dien-tich-an-chao-dai-bat-hay-an-chao-da-bat.html

      • Bút Thép VN says:

        Thành ngữ, thành ngữ, thế nào là thành ngữ? Có phải thành ngữ cũng chỉ là do con người định đặt ra?

        Ông Trọc Phú Thời Gian và Lại Mạnh Cường nghĩ sao về câu chuyện dưới đây:

        Một kẻ đang đói rã họng, được cho một bát cháo, để cầm hơi, thoát chết . Ăn xong rồi, mắc đái quá, và tiện thể, y đái luôn vào cái bát mà mình vừa đựng cháo mà y vừa ăn xong . Hỏi còn sự vô ơn, phản bội nào bằng!

        Trên đây là câu chuyện “bất đắc dĩ” của một kẻ thiếu suy nghĩ, vì phải giải quyết nhu cầu cá nhân lúc cấp bách nên quẩn trí để trở thành vô ơn bạc nghĩa!

        Nhưng nó không phải là trường hợp của ông Lại Mạnh Cường, một người mang danh trí thức với học vị bác sĩ, nay chửi lại chế độ đã bảo bọc, đào tạo mình?

        Chúng ta lại xem sang tình huống khác là « Ăn cháo đá bát ». Kẻ kia đứng dây, đá cái bát mà mình vừa đựng cháo. Vô ơn thật rồi. Nhưng nếu ta cho y ăn cơm, y cũng đá bát đựng cơm. Ta cho y ăn phở, y cũng đá cái tô. Ta cho y hút thuốc lào, y cũng quẳng điếu. Ta cho y ngủ nhờ, y cũng đập giường. Và mãi mãi, cái gì cũng có thể biến thành thành ngữ được. (HĐQ)

      • Giáo Già says:

        “Ăn cháo đá bát” hay “qua cầu rút ván” là câu chửi đối với kẻ vô ơn.

        “Ăn cháo đái bát” hay “qua sông đấm b. vào sóng” là câu chửi đối với những kẻ không chỉ vô ơn mà còn bội nghĩa, vong tình!

      • BUILAN says:

        Đọc bài giảng có tính LUÂN LÝ GIÁO KHOA THƯ- cuả quý Huynh đệ – nhất là cuả nvtncs tôi thầm buồn cho cả hai !!

        - Đã là Trọc Phú Thời Gian sao bác không dành một chút thời gian suy nghĩ cho THẤU trước khi chê ?? để ra nông nỗi !!!
        - Anh nvtncs thì hơi cạn tàu ráo máng ! Sao anh không kheó, nhẹ một chút như quý vị Bút Thép VN + Giáo Già … ???

        Tôi cũng xin ăn theo một chút
        _’ Ông Trọc Phú Thời Gian và Lại Mạnh Cường nghĩ gi về câu dưới đây;’

        ” Nhờ cây nên dây mới leo, nhờ cột nhờ kèo mới thả đòn tay ??

        Tôi nghĩ QUÝ BÁC không phaỉ là ĐÒN TAY mà là RUI MÈ … còn là NGOÍ- TẤM LỢP… nưã kia !(Trí thức mà , TOP mà ..!) _ Lâu ngày ( đúng hơn là gần đây thôi) mưa gió làm “TỐC MÁI !” !!!!

        Tôi không dám giảng giãi nhiều ! tôi còn tin ở TRÍ TUỆ cuả NHỊ VỊ
        Gió có thổi bay tấm lợp LMC xuống sình lầy nước đọng thì tôi tin
        CÒN CÓ : LN Đồng ?? hay Chu Bá Thông ?? khakhakha
        -
        Trường hơp nầy tôi có thể viết khá thêm một chút vê MTGPMN hay bon “ĂN cơm QG thờ ma CS” _ Họ đã mở mắt hết rồi !
        LẼ NÀO nhị vị lại bắt đầu NHẮM MẮT ????

        Tôi xin thưa, tôi còn NỂ lòng lắm ! viết nhiều sợ dễ dẫn đến XÚC PHẠM nhau !
        Kính

  5. Tại Sao 01 says:

    Tạo sao đồng bào công giáo VN đã đứng ngoài 2 cuộc chiến tranh trường kỳ thần thánh của dân tộc đánh Pháp, đập Mỹ mà vẫn được sống trên đất Việt này 1 cách bình thường nhỉ? Tại sao ko những họ đc hưởng những đặc ân (Ko tham gia đánh Pháp/ Mỹ cùng dân tộc và vẫn đc sống bình thường sau giải phóng) mà hình như bây giờ chính những người Công giáo này lại có xu hường muốn chống lại chính quyền nhỉ? tại sao chính quyền cộng sản này lại ứng xử bất công với dân tộc như vậy? khi đại đa số đồng lòng cùng dân tộc chịu mất mát, khổ nhục đánh đuổi Pháp/ Mỹ cũng ko sống ko hơn những người đứng ngoài cuộc sau Giải phóng, chính quỳen Cộng sản cần xem lại chính sách của mình?

    • nvtncs says:

      Người công giáo bắc di cư, không những không tham gia đánh Mỹ mà còn chống CSVN kịch liệt.

      CSVN và người bắc di cư công giáo là hai khối không bao giờ chấp nhận nhau.

      CSVN cũng muốn nuốt chửng người công giáo VN, nhưng không xong mà cũng không dám làm:
      Lý do là sức ép chính trị, tinh thần, kinh tế của đức giáo hoàng, cuả nước Mỹ, nước Pháp, nước Brésil, của cả thế giới công giao hoàn cầu, của Human Right Watch, của người VN hải ngoại công giáo, vv…
      Đồng thời giới công giáo VN tỗ chức chặt chẽ, công an V+ khó xâm nhập vào được.
      Hơn nữa CSVN tính toán kỹ, xem chừng đàn áp không những không xong, mà còn có hại hơn là lợi cho đảng.

      Xin nhớ rằng người công giáo VN, không theo Pháp, hoặc Mỹ, yêu nước không kém ai, và chỉ theo lời răn của chúa trời là phải yêu chúa, yêu người như thể yêu ta, và xin được tha lỗi cũng như tha lỗi người ta phạm với họ. Dĩ nhiên người công giáo và người công giáo VN nói riêng, ai cũng phạm tôi và không ai hoàn hảo, nhưng mười điều răn của chúa là mục đích của họ, mà hằng ngày họ cố gắng tuân theo.
      Người công giáo thực sự cũng tôn trọng các tôn giáo khác và các hiền nhân của nhân loại, tôn trọng niềm tin của người khác đạo.

      • Tại Sao 01 says:

        Tại sao CS Việt nam ko “tiện tay” dắt dê luôn năm 1975 cho hết sạch bóng Công giáo VN đi cho nước trong nhỉ? lúc đó Mỹ đang lủi như chó bị đập/ Pháp – bồ – Vatican thì im re, nhóm con chien VN như vật vô chủ, nếu CS VN xử ngọn luôn lúc đó thì đất nước bây giờ vừa rộng đất, Dân tộc VN lại vừa thuần chủng, cả nước 1 lòng xây dựng tổ quốc bây giờ đã thành cường quốc. Nước Nhật là 1 bài học, các vua Minh trị đã quyết liệt tiêu diệt tà giáo thẳng thừng, từ khi Tây – bồ nhăm nhe truyền vào nước họ tk 16-17, kết quả là nước Nhật rất thuần chủng, Phật giáo là Quốc giáo, khong hề có 1 thế lực nào bị bên ngoài điều khiển. Toàn dân cùng 1 tư tưởng…thế mới có 1 nước nhật cường thịnh. Ko như VN bây giờ, tây ko ra tây, đông chả ra đông … dở lai/ dở người dở vật; các ông CS không ra tay dứt khoát ngay từ đầu, đến bây giờ mầm bệnh lại lây lan; các ông đừng trách ai nữa nha. Ông cha tôi đã đánh pháp/ Mỹ mệt rồi, các ông bây giờ tự xử lý đống rác các ông để lại đi, CS ơi là Cộng sản!!!

      • noileo says:

        “Tại Sao 01 says: 23/07/2013 at 03:06

        Tại sao CS Việt nam ko “tiện tay” dắt dê luôn năm 1975 cho hết sạch bóng Công giáo VN đi cho nước trong nhỉ?”

        Tại sao phải chờ đến 1975? tại sao trong suốt hơn 20 năm chiếm đóng miền bắc của Việt nam, từ 1954 đến 1975, bọn cộng sản VNDCCH vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng, với bức màn sắt che đậy tội ác, không “tiện tay” dắt dê luôn đi cho hết sạch bóng Công giáo VN nhỉa?

        Tại vì, nói gì thì nói chứ, bọn cộng sản ác quỷ, ở đâu cũng vậy, rất căm thù tôn giáo, căm thù Công gíao, nhưng cũng vẫn rất sợ, vô cùng sợ hãi tôn giáo thánh thiện, vô cùng sợ hãi Công giáo thánh thiện.

        Bọn cộng sản Hồ chí Minh gian ác & bọn cộng sản VNDCCH vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng rất mạnh, có đầy đủ công an ác quỷ, có đủ thứ vũ khí tàu cộng trong tay, nhưng vân là yếu, vì bọn chúng là ác quỷ .

        Người công giáo, tuy rất yếu vì trong tay không một tấc sắt, họ vẫn là rất mạnh, vì họ là con người, tin vào, cố gắng thục hành những điều thánh thiện trong cuộc sống .

        Vì thế không chỉ 75, không chỉ 54…, lúc nào bọn cộng sản Hồ chí Minh & VNDCCH đê tiện gian ác vong bản ngoại lai tay sai tàu cộng cũng muôn tàn sát người Công giáo, nhưng không chỉ 75, không chỉ 54…, lúc nào bọn cộng sản cũng sợ hãi trước người công giáo như ác quỷ Dracula gặp ánh sáng mặt trời, như ác quỷ Dracula sợ ánh sáng mặt trời vậy !

  6. duc24hpro says:

    mấy anh chống cộng cực đoan ngu dốt, hèn hạ, tiểu nhân là những kẻ đại diện tốt nhất cho bản chất của công giáo di cư vnch, chúng nó muốn việt nam bị cấm vận, bị lụi bại, thế mà chúng cứ lu loa là chỉ cấm vận cộng sản việt nam chứ không cấm vận việt nam, đúng là bọn sỏ lá 3 que…

  7. GIÓ NGÀN says:

    HẾT THUỐC CHỮA RỒI

    Quả là hết thuốc chữa rồi
    Mỗi người một phách hỡi người Việt Nam
    Kẻ ngu đến thế là cùng
    Kẻ lanh mưu đến hãi hùng vậy thôi
    Ngày nay lên mạng mà coi
    Chỉ Đàn Chim Việt cũng thôi đủ rồi
    Bao thằng đá cá lăn dưa
    Bao thằng dốt nát chỉ hùa cùng nhau
    Thật là não trạng con chi
    Biết bao nhiêu kẻ ngu si vậy mà
    Nên là đã quá lậm rồi
    Còn đâu cứu được giống nòi Việt Nam !
    Thà rằng cỡi áo đi tu
    Làm ông hòa thượng trên chùa còn hơn
    Hay là ngủ chỉ một đêm
    Sáng ra thức dậy hết còn Việt Nam !
    Nói sao có vẻ oái oăm
    Nhưng mà phải nói để lòng thảnh thơi !
    Vì chưng sự thật trên đời
    Nói cùng không nói cũng thời vậy thôi !
    Dân ta ích kỷ tuyệt vời
    Dân ta bạc nhược có trời biết đây !
    Mỗi người tự xét mình xem
    Phải sờ vào ót mới nên ngỡ ngàng !
    Tưởng mình toàn có hiên ngang
    Tưởng mình toàn có huy hoàng ngàn năm !
    Nào hay giống thứ ăn đong
    Biết gì thế giới để hòng đi lên
    Cốt mong an phận thủ thường
    Người người đều thế đúng phường ra chi !
    Thôi thì còn nói được gì
    Dễ đôi cánh én làm thành mùa xuân
    Mà hầu toàn kiểu con buôn
    Lợi mình là chính còn mong lẽ nào
    Bắc thang lên hỏi trời cao
    Chừng nào thoát được kiếp người Việt Nam !

    MÂY NGÀN
    (22/7/13)

  8. Phương nam says:

    Đọc bài của tác giả viết rất thú vị được biết thêm nhiều thủ đoạn tàn ác của cộng sản cai trị dân miền bắc
    cái thứ hai đối với việc thống nhất đất nước việt nam tiêu biểu là gần 1 triệu dân bắc kỳ sau khi vào nam họ đã có cuộc sống rất tử tế và cả cái văn hóa từ miền bắc mang vào cũng được dân miền nam tiếp nhận một các hòa họp công bằng không cần phải dùng vũ khí hoặc nhà tù như sau 1975 đây là cái khác biệt giửa dân miền nam và dân miền bắc , tác giã viết dẫn còn thiếu về vấn đề mất miền nam việt nam vào tay cộng sản bắc việt, phải nói những người miền bắc khi vào sống trong nam họ có rất nhiều kinh nghiệm đối với chế độ cộng sản ở miền bắc nhất là các ông có chức vụ cao trong bộ máy chánh quyền miền nam, nhưng họ vẫn chứng nào tật nấy khi quân dân miền nam ta đang chiến đấu thì các ông đã đào ngủ bỏ chạy trước tìm đường tẩu thoát ra ngoại quốc với gia đình trước 30-04 1975, nhìn lại lịch sử bao nhiêu tướng đã chiến đấu và tử tuyết đến phút cuối cùng để bảo vệ miền nam bao nhiêu anh là dân miền bắc ? dân miền nam đối sử đâu có tệ với các ông đâu ? hảy nhìn bắc kỳ nòi Nguyễn cao kỳ ,phạm duy ngay cả ông cũng là Đại biểu quốc hội v.v.. những người bõ nhiệm sở thời chiến phải nhận tội gì với tổ quốc và dân tộc nếu như cờ vàng VNCH vẩn còn ? vậy các ông khi ra ngoại quốc các ông nói gì với đồng bào tỵ nạn cộng sản ? các ông cố vấn hô hào tiếp tục tranh đấu cho việt nam ? bài viết nầy thay vì viết bài xin lỗi với dân miền nam thì hay hơn biết mấy.

    • nvtncs says:

      Ý kiến trên có phần đúng.
      Mấy ông bắc kỳ “lớn”, “khôn ngoan” , tính toán, chạy trước, cũng có vài ông. Nhưng phần lớn, dân đen bắc kỳ di cư chống công còn “kỹ” hơn người Nam.

      Những người có tội lớn nhất với dân miền Nam, không phải là bắc kỳ di cư, chạy ra ngoại quốc trước. Những người có tôi với dân Nam có tên: Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, vv…
      Những người đó là người xứ nào vậy, thưa ô/bà “Phương nam”?

  9. Minh Đức says:

    Về những người di cư vào Nam, chế độ Cộng Sản tung ra luận điệu là chính Mỹ đã kích động người dân, đặc biệt là dân Công Giáo bỏ đi vào Nam. Cụ thể là câu chuyện nhân viên CIA “Lên sơ đên” (Lansdall), đã tung ra chiến dịch tuyên truyền làm cho dân miền Bắc bỏ đi Nam.

    Nhưng từ năm 1949 ông Trần Trọng Kim đã viết trong cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi của mình về những gì ông nghĩ về Cộng Sản. Cuốn Một Cơn Gió Bụi xuất bản vào 1965 tại miền Nam, nhưng những gì ông Trần Trọng Kim viết thì từ năm 1949. Ông Trần Trọng Kim mất năm 1953, không chứng kiến cảnh chia đôi đất nước và dân bỏ vào Nam. Nhưng đọc lại những gì ông Trần Trọng Kim viết về Cộng Sản thì thử hỏi nếu lúc đó ông ta còn ở miền Bắc thì liệu ông có bỏ đi vào Nam hay không? Ông Trần Trọng Kim viết như sau:

    “Cộng sản đảng, theo cách tổ chức và hành động của họ, là một thứ tôn giáo mới, giống như các tôn giáo cũ cốt lấy sự mê tín mà tin, chứ không hoài nghi hay đi trệch ra ngoài. Song các tôn giáo cũ nói có cõi trời, có thiên đường là nơi cực lạc. Cộng sản giáo ngày nay thì hoàn toàn duy vật, nghĩa là ngoài vật chất ra, không có sự tin tưởng nào khác nữa, cho thiên đường không phải ở cõi trời mà chính ở cõi trần gian này. Ai tin theo đạo ấy là phải tin lý thuyết của Các Mác và Lê Nin là tuyệt đối chân chính, đem áp dụng là được sung sướng đủ mọi đường, tức thực hiện được cảnh thiên đường ở cõi đời. Còn về đường tín ngưỡng, thì đạo Cộng sản là đạo hoàn toàn duy vật, tất không ai thờ phụng thần thánh nào khác nữa, nhất thiết phải nghĩ sùng bái những người như Các Mác, Lê Nin, Sử Ta Lin để thay những bậc thần thánh cũ đã bị truất bỏ.

    Ðã tin mê cái đạo ấy và đã coi lý thuyết ấy là chân lý tuyệt đối, thì ngoài cái lý thuyết ấy ra, là tà giáo, là tả đạo. Ai không tin theo và phản đối những người đứng đầu đảng, tức là những bậc giáo chủ, thì là người phản đạo, tất phải trừng trị rất nghiêm. Vì vậy mới có sự tàn sát những người trong đảng cộng sản theo Trotsky, chủ Cộng sản Ðệ Tứ Quốc tế, là một chi cộng sản phản đối Sử Ta Lin, chủ Cộng sản Ðệ Tam Quốc tế.

    Vậy những tín đồ cộng sản phải là những người cuồng tín và chỉ biết có đời sống vật chất mà thôi, ngoài ra không có gì nữa. Sống có một đời rồi hết, nên ai nấy chỉ lo làm cho mình được mọi điều thắng lợi, sá chi những điều phúc họa thiện ác.

    Về đường thực tế, các đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thường đạo lý, không biết có nhân nghĩa đạo đức như người ta vẫn tin tưởng. Người cộng sản cho cái điều đó là hủ tục của xã hội phong kiến thời xưa, đặt ra để lừa dối dân chúng, nên họ tìm cách xóa bỏ hết. Ai tin chỗ ấy là người sáng suốt, là người giác ngộ, ai không tin là người mờ tối, là người mê muội. Vì có tư tưởng như thế, cho nên cha con, anh em, bè bạn không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa của cộng sản và phục tòng những người cầm quyền của đảng, ngoại giả, giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau: hễ ai làm những việc mà lợi cho đảng là người giỏi, người tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ đều bỏ hết, bỏ đến tận cội rễ, để thành lập xã hội mới. Cái xã hội mới ấy không tranh đấu cho quốc gia hay cho dân tộc. Dù có nói tranh đấu cho quốc gia hay cho dân tộc nữa, cũng chỉ là cái phương pháp dùng tạm thời trong một cơ hội nào để cho được việc mà thôi, chứ mục đích cốt yếu là tranh đấu cho giai cấp vô sản. Khi ở đâu sự tranh đấu cho giai cấp ấy được thắng lợi, thì cứ tranh đấu mãi để bảo vệ quyền lợi của giai cấp ấy và xóa bỏ hết những cương giới nước nọ với nước kia để thực hiện một thế giới đại đồng, đặt dưới quyền chỉ huy của giáo chủ cộng sản ở bên Nga. Vì vậy cho nên bất kỳ nước nào đã theo cộng sản là phải phục tùng mệnh lệnh bên Nga, còn nước nào tuy theo chế độ cộng sản, nhưng còn muốn giữ tư tưởng quốc gia như nước Nam Phu Lạp Tư (Yougoslavie) bên Ðông Âu là bị trục xuất ra ngoài hội nghị của các nước cộng sản.

    Cái phương thuật của đảng cộng sản bên Nga không khéo chỗ ở ấy, tuy nói là bài trừ đế quốc chủ nghĩa và tiêu diệt những chế đô độc tài áp chế đời xưa, nhưng lại áp dụng chế độ độc tài áp chế hà khốc và tàn ác hơn thời xưa, và gây ra một thứ đế quốc chủ nghĩa theo một danh hiệu khác, để tự mình thống trị hết thiên hạ. Thành ra các nước đã theo cộng sản đều phải là những nước phụ thuộc nước Nga, cũng như bên Tàu ngày xưa các nước chư hầu phải phục tùng mệnh lệnh thiên tử. Thì ra trong thế gian này chẳng có gì là mới lạ. So chế độ cộng sản ở nước Nga ngày nay có khác gì chế độ nhà Tần thời chiến quốc bên Tàu? Có khác là ở những phương tiện theo khoa học và những mánh khóe hiện thời mà thôi, còn thì cũng tàn bạo gian trá như thế, và cũng dùng những quyền mưu quỉ quyệt để thống trị hết cả các nước.”

    Nhưng những người Việt biết tường tận về Cộng Sản như vậy ở miền Bắc không chiếm số đông. Những người biết về Cộng Sản như vậy phải biết tiếng Pháp để đọc sách Pháp mà biết Cộng Sản như thế nào. Những người đó thì thường bị Cộng Sản lên án là làm tay sai cho thực dân, đế quốc, bị nhiễm độc bởi tư tưởng thực dân, đế quốc. Đa số người dân Việt lúc đó nhiều người mù chữ, số còn lại biết chữ là biết chữ Pháp vì từ tiểu học học sinh đã phải học chữ Pháp. Nhưng những người biết đọc chữ Pháp mà chịu khó đọc sách chính trị để tìm hiểu Cộng Sản thì rất là ít. Tuy vậy họ cũng có thể đem sự hiểu biết của mình mà nói với người thân, với bạn bè. Trong số những người nghe nói về Cộng Sản như vậy có những người bỏ đi vào Nam.

  10. Choi Song Djong says:

    Lang băm có mặt mọi lúc mọi nơi,trước và sau khi đi dạo khu đèn đỏ hình hài thay đổi liên tục như tắc kè,ăn nói lung tung lập luận ương ương dở dở không biết dâu mà lần.Lang băm ơi,nói í chút cho bà con nhờ.

    • lethan says:

      Đồng ý về lời phê bình ” viết dai, viết dài, viết dở ” của bác về gã tu bíp “chữa ngựa què thành ngựa toi” này. Ha ha.

Leave a Reply to Trọc Phú Thời Gian