Xung đột trên Biển Đông chăng? Không thể nào
Tác giả: Rukmani Gupta
Ngày 23-10-2011
Một số người đang đề nghị Ấn Độ đóng vai trò chủ động hơn trên Biển Đông (nguyên văn: biển Hoa Nam). Không cần. Trung Quốc có quá nhiều thứ để mất nếu họ đẩy tranh chấp chủ quyền leo thang.
Vấn đề Biển Đông và lập trường của Trung Quốc đã là chủ đề của nhiều cuộc bàn cãi, đặc biệt kể từ Hội nghị Diễn đàn Khu vực ASEAN ở Hà Nội tháng 7 vừa qua. Quả thật, rất nhiều người tin rằng Biển Đông chắc chắn sẽ nổi lên như một điểm xung đột nóng bỏng trong những năm tới.
Có thể thấy bằng chứng của việc này trong những lời lẽ cứng rắn mà các bên trao qua đổi lại trong cuộc tranh chấp, với ba bên đáng chú ý nhất là Trung Quốc, Việt Nam và Philippines. Tuyên bố của Mỹ – rằng Hoa Kỳ có “lợi ích quốc gia” trong khu vực – được coi như lời cam kết sẽ đóng vai trò chủ động, làm Trung Quốc rất phiền lòng. Mấy tuần qua, các tuyên bố của giới chức Trung Quốc tái khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” của Trung Quốc ở Biển Đông, cùng những lời cảnh cáo Ấn Độ, không cho Ấn Độ đầu tư vào khu vực, được coi như dấu hiệu bộc lộ thái độ hung hăng của Trung Quốc, có thể đẩy nhanh sự xung đột.
Đề xuất Ấn Độ tham gia nhiều hơn vào tranh chấp Biển Đông được đưa ra trên cơ sở là Ấn Độ phải mạnh mẽ trong quan hệ với Trung Quốc. Việc công ty trách nhiệm hữu hạn ONGC Videsh (OVL) tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực năng lượng ở Việt Nam chắc chắn là việc nên làm. Trên thực tế, cũng không có gì cho thấy chính phủ Ấn Độ đang nghĩ khác. Sự hiện diện của OVL ở Việt Nam không phải là hiện tượng mới mẻ gì. Liên doanh đầu tiên của họ với Petro Vietnam và BP, nhằm thăm dò khai thác dầu và khí ở mỏ Lan Tây của Việt Nam, đã bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2003. Những thỏa thuận đầu tư mà giờ đây trang nhất các báo đang đăng tải thực ra đã được ký từ tháng 5 năm 2006; đây là một dự án sẽ không thể bị đình lại chỉ vì những tuyên bố quanh co của Trung Quốc.
Nhưng đề xuất gây lo ngại ở chỗ, theo đó, Ấn Độ nên tăng cường tham gia để giữ một vai trò chủ đạo ngay trong các tranh chấp chủ quyền, và Ấn Độ nên chủ động mở rộng sự hiện diện của hải quân – để bảo vệ tiền đầu tư của OVL hoặc bảo vệ tuyến đường thông thương trên biển. Một mối quan hệ song phương thân thiết hơn với Việt Nam, những lời lẽ của Việt Nam về tranh chấp Biển Đông và cả một quá khứ chiến đấu chống các siêu cường của họ được coi như lý do hợp lý để Ấn Độ cùng tham gia và trang bị vũ khí cho Việt Nam để thắng cuộc chiến trên Biển Đông.
Những đề xuất cho rằng Ấn Độ cần điều chỉnh lại chính sách đối với Biển Đông và quan hệ với Việt Nam, trong trường hợp tốt nhất, cũng là quá sớm. Bất chấp mọi luận điệu của các bên, xung đột trên Biển Đông có lẽ không phải là tất yếu sẽ xảy ra. Nếu lịch sử đối thoại giữa các bên có thể cho chúng ta thấy điều gì đó, thì đó là, căng thẳng hiện tại chắc chắn sẽ đem tới những tiến triển mới. Sau những tuyên bố của Mỹ, và sau những va chạm tàu đánh cá, ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí về các Nguyên tắc thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông, tại hội nghị thượng đỉnh Bali hồi tháng 7. Và những căng thẳng gần đây có thể sẽ thúc đẩy các bên đi tới một bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc hơn. Điều này không hàm ý là các yêu sách về chủ quyền và vấn đề chủ quyền có thể sẽ được giải quyết, nhưng chắc chắn chúng sẽ trở nên dễ xử trí hơn, nhờ đó ngăn chặn được xung đột quân sự.
Các bên sẽ được lợi chung nếu các cuộc tranh chấp trở nên dễ xử trí. Lý do căn bản là vì, mặc dù còn tồn tại những luận điệu dân tộc chủ nghĩa, nhưng các bên trong tranh chấp cũng ý thức được rằng họ có thể có lợi ích vật chất thực sự. Đường giao thương hàng hải xuyên Biển Đông nếu bị gián đoạn sẽ kéo theo thiệt hại về kinh tế – và không chỉ cho các quốc gia ven biển mà thôi. Do đó, cho tới nay, không bên nào trong cuộc tranh chấp, kể cả Trung Quốc, dám chống lại nguyên tắc “tự do hàng hải vì thương mại toàn cầu trên Biển Đông”. Các nước trong khu vực đã ký UNCLOS, theo đó “Các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý, được khai thác tài nguyên thiên nhiên và thực hiện các hoạt động kinh tế nhất định; và được thực thi quyền tài phán trong nghiên cứu hàng hải và bảo vệ môi trường”. Song UNCLOS cũng quy định “Tất cả các nước khác có quyền tự do hàng hải và tự do bay qua EEZ, cũng như quyền đặt cáp ngầm, đường ống ngầm dưới biển”. Do vậy, những nguy cơ đe dọa tuyến thông thương trên biển (SLOC – sea lines of communication) có lẽ đã bị thổi phồng ít nhiều.
Chúng ta cũng nên nhớ lại rằng, các quốc gia có liên quan coi tranh chấp chỉ là một thành tố trong những mối quan hệ song phương rộng lớn hơn thế nhiều. Biển Đông hoàn toàn không phải là con tính duy nhất để qua đó các nước nhỏ xem xét quan hệ của họ với Trung Hoa. Chẳng hạn như Tổng thống Philippines, ông Benigno Aquino đã nói rằng tranh chấp trên Biển Đông chỉ là một khía cạnh trong quan hệ với Trung Quốc.
Việt Nam cũng vậy, đã không để quan hệ Việt-Trung bị cản trở vì những tranh chấp trên Biển Đông. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản cầm quyền, ông Nguyễn Phú Trọng, tháng trước đã đi thăm Bắc Kinh. Tuyên bố chung trong chuyến thăm nêu rõ rằng hai bên sẽ “chủ động thúc đẩy hợp tác” trong thăm dò khai thác dầu khí ngoài khơi. Đôi bên cũng nhất trí sẽ xúc tiến đàm phán để tìm ra giải pháp hòa bình cho các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, sẽ đẩy mạnh hợp tác quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam, lập đường dây nóng giữa bộ trưởng quốc phòng hai nước, và tăng cường giao thiệp giữa các quan chức cấp cao. Kể từ tháng 7-2011, Trung Quốc – đứng thứ 14 trong danh sách các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam – đã có 805 dự án đang hoạt động ở Việt Nam với tổng số vốn 4,2 tỷ USD. Hơn thế nữa, Trung Quốc còn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam kể từ năm 2004 tới nay. Mậu dịch song phương giữa hai nước đạt giá trị 27 tỷ USD năm 2010. Nếu nảy sinh đụng độ quân sự, tai họa đầu tiên xảy đến sẽ là ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế, một hậu quả mà cả hai nước đều muốn tránh.
Cho dù những bài xã luận trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo có nói gì đi nữa, vẫn có lý do để mơ hồ tin rằng, Trung Quốc không muốn đẩy xung đột trong khu vực leo thang. Mặc dù bình luận từ phía Mỹ cho thấy Trung Quốc coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, nhưng không có văn bản chính thức nào của Trung Quốc củng cố luận điểm này. Bên cạnh đó, có thể coi sự thận trọng của Trung Quốc cũng là một tín hiệu phản ánh năng lực quân sự của Trung Quốc, vốn không được coi là đủ mạnh để chiến thắng trong một cuộc chiến trên Biển Đông. Trên thực tế, tờ Tin Quốc Phòng Trung Hoa của Tổng cục Chính trị Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đã so sánh việc Trung Quốc sử dụng vũ lực trên Biển Đông với hành động tự bắn vào chân mình. Sử dụng vũ lực không chỉ kích động ASEAN đoàn kết lại với nhau trong vấn đề Biển Đông, mà có thể còn kéo cả Mỹ và Nhật Bản tham gia chuyện này, làm chệch hướng kế hoạch duy trì tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và phá hỏng ngoại giao của Trung Quốc. Do vậy những tuyên bố của Trung Quốc về Biển Đông có thể được xem như nỗ lực thổi phồng các yêu sách của họ, nhằm giành được vị thế tốt hơn trong đàm phán.
Còn Ấn Độ, nếu họ xem xét lại chính sách trên Biển Đông của mình trong một bối cảnh như thế thì sẽ là liều lĩnh một cách dại dột, nhất là khi còn chưa rõ một đối tác như Việt Nam sẽ tỏ thái độ quyết tâm đến mức nào trong một cuộc leo thang quân sự với Trung Quốc. Cứ cho là leo thang như vậy không có lợi cho Trung Quốc, thì cũng chưa biết chắc được liệu Trung Quốc có sử dụng sức mạnh quân sự để ngăn chặn các hoạt động của công ty OVL hay không.
Tất cả những điều ấy cho thấy Ấn Độ không cần phải có lập trường trong các tranh chấp chủ quyền mà họ không tham gia. Về vấn đề này, có lẽ Ấn Độ nên bắt chước Mỹ: Mặc dù tuyên bố có “lợi ích quốc gia” trong vấn đề Biển Đông, nhưng Mỹ đã thẳng thừng nói rằng họ chẳng đứng về bên nào trong các tranh chấp chủ quyền. Việc xem xét, nhìn nhận lại chính sách của Ấn Độ cần phải được dựa trên cơ sở là sự hiểu biết rõ ràng về những gì Ấn Độ muốn đạt được, và lợi ích quốc gia của Ấn Độ có thể được tối ưu hóa như thế nào. Quan hệ của Ấn Độ với các nước Đông Nam Á không phải là quan hệ đơn chiều, và không được định hướng chỉ để theo dõi xem Trung Quốc có ảnh hưởng gì tới khu vực.
Còn chuyện ủng hộ về mặt quân sự cho các hoạt động của công ty OVL thì cần được xem xét một cách nghiêm túc. Xây dựng năng lực để ngăn chặn mọi rủi ro là một việc, hỗ trợ các nhà đầu tư bằng sức mạnh quân sự là một việc khác. Đây là chuyện sẽ ảnh hưởng tới các công ty liên doanh của Ấn Độ trên toàn cầu. Liệu Ấn Độ đã chuẩn bị kỹ – cả về phương diện quân sự lẫn chính sách – để có thể hỗ trợ bằng quân sự cho tất cả các liên doanh đó chưa? Có một điểm quan trọng hơn chuyện quan hệ của Ấn Độ với Việt Nam hay là Trung Quốc – đó là vấn đề các giá trị và tầm nhìn của Ấn Độ.
Tác giả: Ông Rukmani Gupta là nhà nghiên cứu ở Viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng, New Delhi. Đây là bản rút gọn và có biên tập của một bài viết của ông mà tổ chức này đã xuất bản trước đây.
Đỗ Quyên dịch từ The Diplomat
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011