Chuông ngân chạnh nhớ yêu đầu
Hồi ở Vĩnh long, tôi cư ngụ cả thảy ba nơi, mà nơi nào cũng ở gần bên hoặc ngó ngang nhà chứa: căn nhà đầu tiên là nhà của anh tôi do Sở Bách Phần cấp cho, tôi ở tạm đó để anh tôi tiện kèm bài vở. Ngày ngày “tung trời xanh, én nô đùa reo mừng…” tôi phải đi ngang một cái “bọt đền” dành cho lính tây và lính lê dương xả xú báp. Lúc nào cũng có một hai cô son phấn toe toét, đứng chống nạnh trước nhà chứa hút thuốc phì phà, áo hở ngực phơi hai quả tuyết lê thắt dưới cho trồi lên, trông phát ớn ché đậu. Mỗi bận đi ngang tôi đều kéo nón xuống che ngang mày, nhưng dưới vành nón không ai để ý tôi liếc xéo qua một bên, bên mặt hay bên trái tùy theo bận đi hay bận về. Mấy ả đâu thèm để ý đồ nhóc con, vậy mà tôi cứ lo sợ mấy ả nghe được tiếng nuốt nước bọt của mình. Qua khỏi nhà chứa tới đầu đường, trước khi tới trường Cao Tiểu tôi quẹo trái, đi ngang một cái Miễu Bà khá lớn nằm trên một gò đất cao, dưới gốc một cây da xà già nua, nhánh rễ chằng chịt. Tôi giở nón cúi đầu chào Miễu, mà trong bụng cứ nơm nớp không yên. Nghe đồn Miễu linh lắm, ai có ý nghĩ gì xằng bậy, Bà biết được vật chết liền. Thành thử thằng lỏi cũng hơi teo.
Một bữa tự nhiên mắt tôi nổi mụt lẹo. Ba tôi cười nói: tại mầy ngó tầm bậy chớ gì? Tôi đâm hoảng, tưởng ông đọc được thấu tim đen của mình. Má tôi nói ông đừng có chộ thằng nhỏ; rồi bà mua lười ươi hột é về ngâm cho tôi uống không có đường cho hạ hỏa, mụt lặn. Ba tôi kiếm ở đâu không biết cặp kiếng mát, đưa cho tôi với cọng rau răm biểu giắt lỗ tai để chống ô uế. Tôi cũng bấm bụng nghe theo. Mỗi lần đi ngang bọt đền tôi cứ lo rui rủi có ả nào cắc cớ hỏi “sao hôm nay em đeo kiếng mát?” tôi sẽ không biết trả lời ra làm sao. Nhưng rồi sau đó tôi lại tự hỏi chẳng biết có ả nào để ý cái lối hóa trang kỳ cục của tôi không nữa: thằng lỏi với cặp kiếng mát bự tổ chảng và cọng rau răm tòn teng ở tai!
Qua đâu hai năm sau tôi về ở với ba má tôi gần rạp hát Lạc Thanh. Ngang nhà, bên kia đường, sau một khoảng đất trống là nhà ông Bảy Trào, vừa giặt ủi vừa nuôi em. Khách tìm hoa cứ vô rậm rật. Có một bà đĩ già người Miên lai, tên Ba Lĩ (Marie?) rất ba gai, mỗi lần say rượu là cởi trần ngồi bên lề đường, đụng ai chửi nấy, đụng gì chửi nấy. Vậy mà gặp tôi là một mực “chào cậu” và hỏi thăm sức khỏe. Nhà tôi cũng chỉ đủ ăn, chẳng hách về mặt tài chánh, nhưng được cái tôi học giỏi có hạng, mà xóm tôi thì lại khoái và nể những người học giỏi. Chẳng riêng xóm tôi mà cả tỉnh đều vậy. Như bận nọ, tôi đưa một em bán nước dừa ở ngoài chợ về xóm vắng ban đêm, một đám côn đồ ganh tị chận đường kiếm chuyện, tính đập tôi một trận cho bõ ghét. Em bé bèn lột guốc cao gót ra cầm ở tay, đoạn lấy thân bồ liễu án ngữ trước người tôi rồi hét: “Tụi bay đừng có đụng tới anh Kiệt của tao! Anh Kiệt tao đậu tới… hai cái tú tài!” Nhưng một tú hai tú gì bọn kia cũng vẫn sấn tới. Em bé dọa la làng bọn kia mới chịu de. Tôi mở ngoặc như vậy để cho thấy học giỏi có thớ với xóm làng và mấy em trong tỉnh lẻ dữ lắm.
Nhưng khổ nỗi, ở ngay tại xóm mình, có thớ kiểu đó cũng hơi kẹt. Xóm tôi có ông Bảy Hoàng, cả ngày nhậu li bì, mặt mũi đỏ lưỡng, sần sùi, vậy mà sanh bốn cô con gái cô nào cũng đẹp như tiên, nét mặt giống như cô gái mà họa sĩ Lê Trung thường vẽ lịch. Bốn cô đều tứ chiếng giang hồ, đổi kép như thay áo. Tôi trông mấy cô ngực mông đâu ra đó, cũng ham lắm. Nhưng đối với mấy cô, tôi là loại thư sinh chân chỉ hạt bột, gặp cũng chào hỏi nể nang… vậy thôi. Riêng tôi cứ thầm ao ước được sống một màn liêu trai, một trong bốn cô là hồ ly tinh, nửa đêm đổi xác làm mỹ nhân đến dụ dỗ gã thư sinh mặt trắng (dù mặt tôi cũng không được trắng gì cho lắm).
Đâu có ai ngờ ít lâu sau giấc mơ đó thành sự thật – hay sự thật đã đi vào giấc mơ? Theo diễn tiến tự nhiên của trời đất, tôi chấm dứt giai đoạn “thằng lỏi”, thân thể cũng tăng trưởng theo. Chợt một đêm tôi nằm mơ thấy một người đàn bà đẹp (hao hao giống cả bốn cô) cởi áo phơi ngực trắng phau, và tôi xuất… hạn dầm dề. Tôi phải thức dậy thay quần mà trong bụng lo lắm, dù cảm giác ngất ngây còn tần ngần trong cơ thể. Tôi không dám tâm sự với ai. Nhưng đến lần thứ ba thì tôi hoảng quá đành phải “thú thiệt với đại ca”. Đại ca đây là anh tôi. Nguy thay! Tôi đâu dè mình trót trao duyên lầm tướng cướp! Thay vì giảng cho tôi một đoạn về “người con trai sắp nhổ giò nên biết”, anh chàng lại hù tôi bị bịnh “lở đập” (?), nếu tiếp tục coi chừng cu bị thụt mất. Cách trị: không một lời, lại thêm một tràng cười chế nhạo. Đọc báo thấy quảng cáo “Cửu long hoàn” trị di tinh, mộng tinh, tôi lén mua và lén uống thử. Nhưng càng uống thuốc bổ thận tôi lại càng lở đập dữ hơn. Vì thế, lúc đi tè thỉnh thoảng tôi lại “hò dô ta! nắm cu kéo ra” thăm chừng, lỡ thằng bé thụt mất thì kể như đời tàn trong ngõ hẹp.
Quá sức lo lắng và sợ hãi, người tôi vàng võ xanh xao. Má tôi thấy vậy sợ tôi bị quỷ trù ma ám hay Bà Cô gì đó quở, nên biểu tôi theo bà vô chùa lạy Phật, niệm kinh sám hối, may ra nhờ đó mà tai qua nạn khỏi. Tôi cũng nghe lời, nghị gật lại theo gót lãnh tụ. Nhưng bây giờ lập trường nghị gật đã có rung rinh phần nào so với thời thơ ấu. Vì lẽ sau những chuyến bay đêm, mộng mị ngực nghiếc, hồ ly và lở đập, ý niệm tội lỗi nảy sinh trong đầu tôi. Tôi cảm thấy mình nhớp nháp, do đó đâm ra sợ, sợ khi quỳ trước bàn Phật hay trong am Bà. Nhiều đêm tôi bị dày vò bởi các cặp ý niệm đối nghịch tốt-xấu, thiện-ác, sạch-dơ, trên-dưới, tội-phước, đau-khoái, vui-khổ… và bị trì kéo giữa cái bọt đền và cái miễu Bà lúc trước, rồi giữa cái nhà chứa và cái nhà chùa bây giờ.
Dĩ nhiên đi chùa là một lẽ, còn lở đập là một lẽ khác. Do đó, lạy thì có lạy thật đấy, mà lở thì vẫn cứ lở tự nhiên. Rồi chuyện gì phải đến đã đến: chuyện lở đập thấu đến tai ba tôi (kẻ bán rao không nói chắc ai cũng đã đoán biết). Ba tôi cười (lại cười!) hà hà rồi dạy rằng: “mầy uống Cửu long hoàn làm gì mất công, cứ cầm hai chục đồng qua Bảy Trào, ổng bổ cho một thang thuốc là hết lở đập liền, mà lại còn khỏe re nữa!” Tôi bán tín bán nghi, không biết ông già nói chơi hay nói giỡn, nên chỉ dám ghi nhận để đó. Và tiếp tục bay đêm một mình. Và tiếp tục bị dày vò. Và tiếp tục bị trì kéo.
Thời gian này sự xung đột lập trường giữa ba và má tôi xảy ra như cơm bữa, sự xung dột mang màu sắc của một cuộc thánh chiến giữa ác quỷ và thiên thần. Má tôi niệm kinh lần chuỗi, ông châm chọc là biết chuỗi có bao nhiêu hột rồi mà còn làm bộ đếm hoài. Má tôi cúng lạy, ông chỉ trích muốn ăn con gà cần gì phải lạy nó rồi mới dám đem xuống ăn. Giận lắm má tôi cũng chỉ đến mức sử dụng văn chương, đại khái: “ông đừng có “hành chánh” tui, “ông đừng có thiên ám địa hôn tui”. tôi đoán bà muốn nói gì. Đôi khi tôi phải đóng vai trọng tài xây-cái-nại, hoặc nhân chứng thời cuộc bất đắc dĩ. Tôi cũng bớt hành nghề nghị gật. Bên kia đường nhà Bảy Trào vẫn xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến anh. Bên này đường đêm đêm tôi chong đèn học bài và mơ tưởng một cuộc tam canh dạ đáo của hồ ly nữ, khuya tàn đêm muộn nhẹ bước chiêm bao tưởng lạc đường, rưng rưng mùi phấn bỗng ngùi thương, sương đầm vạt áo mong manh lệ… Cái nhà chùa của tôi càng lúc càng mờ nhạt dần sau cái màn sương vạt áo của yêu nữ.
Và nó tiếp tục mờ nhạt đến tưởng chừng như biến mất trong nhãn trường của tôi khi tôi lên Sài gòn học (tôi học quá giỏi, tỉnh lẻ hết lớp). Trước khi bước chân vào Sài gòn hoa lệ, tôi học trọ một năm ở Mỹ tho. Năm này tôi có cô bồ đầu tiên trong đời. Nhà trọ tôi ở cạnh nhà em tại Bến đò. Bên kia bờ (ba la?) là chùa Vĩnh tràng. Tôi thường đưa em qua đó, không phải để đi vào trong chùa mà là để đi ra đàng sau chùa, ngồi giữa mấy cái mả đá tỏ tình cùng tính chuyện tương lai.
Trên lối đi giữa các mồ mả có dựng một tấm bảng, trên viết mấy chữ như sau: “Xin đừng lợi dụng chốn tôn nghiêm mà làm điều thất giáo”. Tôi không làm điều thất giáo, chẳng phải vì muốn tôn trọng lời dặn của nhà chùa. Chẳng qua, cái thuở đó tôi quá cù lần, mà xiêm y của các cô lại là một trò “đố vui để chọc” đối với thủ thuật thô sơ của tôi.
Lên Sài gòn tôi chẳng còn thiết tha gì đến chùa miễu nữa, ngoại trừ cái chùa Chà và. Nhưng tôi đến đó không phải để thực hành tín ngưỡng hay quay về với thiền môn, mà là để… ăn hủ tiếu tôm cua bên vỉa hè cạnh chùa.
Ở chốn phồn hoa đô thị, nhà chùa tôi không biết, chớ nhà chứa thì đã bắt đầu biết một hai nhờ bọn đàn anh tận tình hướng dẫn. Thỉnh thoảng cuối tháng tôi về thăm nhà. Bốn cô con gái mỹ miều của ông Bảy Hoàng đã tung cánh chim biệt mù đâu mất. “Mây xưa cũng bỏ non về, em xưa cũng giã câu thề đó đây…” Tôi thấy buồn buồn. Trông mặt mày của thằng quý tử mình thất thần, má tôi lại dắt tôi lên chùa lạy Phật, ăn chay và ngủ lại luôn ở chùa. Đó là một đêm đầu hạ trăng sáng, yên tĩnh. tôi nằm trên bộ ván ngựa mát lạnh ngó ánh trăng trong dần dần đổi chỗ trên nền đất ngoài hè, nóc chùa theo bóng trăng lên cũng dần dần thu ngắn lại. Đằng xa mờ mờ mái am xanh lạnh lẽo kỳ quái. Cây vú sữa khua lá xào xạc. Trong không khí hâm hấp có mùi hoa cam, hoa lài. Lòng tôi lắng tịnh. Chợt bóng một cành cây lay gió như cánh tay ngoắc làm dậy lại ở trí tôi giấc mơ không thành với hồ ly nữ. Qua tâm khảm tôi, yêu nữ đã lọt vào nhà chùa. Rồi đây biết có ngày nào (và bằng cách nào?) tôi có thể mang mùi thiền vào nhà chứa để giải nghiệp (hay để tạo thêm nghiệp chướng?)