Về biến động ở Ai-Cập
KHIÁ CẠNH KINH TẾ
Ngay từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nền kinh tế Ai Cập đã chịu sự khống chế mạnh mẽ của hệ thống tài chánh-ngân hàng Âu Châu, đứng đầu là Anh Quốc. Giới cẩm quyền Ai Cập lúc đầu đã cố gắng tận dụng ưu thế nông nghiệp của lưu vực sông Nile để làm nền tảng cho sự phát triển kỹ nghệ. Nhưng rồi vì thiếu cả vốn lẫn kỹ thuật, Ai Cập đã phải vay vốn của Tây Phương. Từ đó hệ thống tài chánh-ngân hàng Anh xâm nhập và dần dần nắm quyền khống chế kinh tế của Ai Cập. Ngay cả cổ phần của chính phủ Ai Cập đối với kinh Suez cũng đã phải bán lại cho Tây Phương để thế chấp các món nợ tài chánh khổng lồ. (Thời đó, kinh Suez tuy nằm trên lãnh thổ của Ai Cập, nhưng quyền quản trị lại thuộc một công ty của Anh-Pháp và chính phủ Ai Cập chỉ sỡ hữu một số cổ phần trong công ty đó. Mãi đến năm 1956 Nasser mới quyết định quốc hữu hóa kinh này và vì vậy đã gặp phải phản ứng quân sự mạnh mẽ của Anh-Pháp).
Từ năm 1952 trở đi, khi nhóm Sĩ Quan Tự Do (Free Officers Group) của Nasser lật độ vương quyền thân Anh Quốc rồi lên cầm quyền, Ai Cập đi theo hướng kinh tế hoạch định cứng rắn của mô hình xã hội chủ nghĩa. Đường lối kinh tế đó, cộng thêm với áp lực phong toả của hệ thống Trung Đông, như trình bày ở phần trước, đã dẩn đưa Ai Cập vào lạc hậu và bế tắc.
Sự chuyển hướng mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại từ những năm 1972 trở đi, xa lánh Liên Xô, bắt tay với Mỹ, và ký hiệp ước hoà bình với Do Thái năm 1978, mở ra con đường mới cho sự phát triển kinh tế của Ai Cập. Vốn đầu tư và kỹ thuật Tây Phương tuồn vào ào ạt đã làm thay đổi hẳn diện mạo của nền kinh tế. Nhìn chung mức sống của xã hội được cải thiện nhiều về mọi mặt. Thành quả đó củng cố uy tín của chế độ do quân đội cầm quyền. Vai trò và uy tín của quân đội từ đó ngày càng gia tăng.
Mặc dầu vậy, nền kinh tế Ai Cập đã không phát triển đúng mức như mong đợi. Những nhược điểm chí tử do sự cộng hưởng của chế độ độc tài, trong đó quân đội nắm quyền, và di sản của nền kinh tế hoạch định bắt đầu bộc lộ mạnh mẽ vào đầu thập niên 1990s. Tệ nạn tham nhũng hối lộ lan tràn và ngày càng trầm trọng; bộ máy hành chánh ngày càng trở nên quan liêu và kém hiệu năng, gây tiêu hao nặng nề cho tiềm lực kinh tế. Hệ thống công ty quốc doanh ngốn hết phần lớn ngân sách đầu tư của chính phủ nhưng lại thua lỗ nặng nề làm gia tăng khiếm hụt ngân sách và nợ nước ngoài. Những năm 1990-1995 tổng GDP chỉ gia tăng 1.6%; trong khi mức gia tăng dân số lại lên đến 2.4%![2] Mức thất nghiệp cao, trung bình 9-10%. Bất công xã hội lan tràn; sự chênh lệch giữa giàu-nghèo và giữa nông thôn-thành thị tăng cao. Với tổng dân số gần 83 triệu người, Ai Cập hiện có tổng GDP chừng 188 tỉ dollars, nhưng tổng số nợ nước ngoài lên đến gần 35 tỉ. Sự phân phối lợi tức trong xã hội lại quá bất công; gần 40% dân số sống với mức thu nhập chỉ 2 dollars/ngày!
Trong khi đó, viện trợ kinh tế của Mỹ từ cuối thập niên 1990 lại bắt đầu giảm dần, mặc dù mức viện trợ quân sự thì hầu như không thay đổi từ đó cho đến nay, trung bình là 1.3 tỉ dollars. Ngoại trừ đỉnh cao là vào năm 2003 lúc mức viện trợ kinh tế của Mỹ cho Ai Cập lên đến gần 1 tỉ, những năm sau đó giảm đi nhiều và cho đến năm 2010 chỉ còn chừng 200 triệu dollars/ năm.[3]
Ngoài sự giảm sút viện trợ kinh tế của Mỹ, áp lực của sự toàn cầu hoá kinh tế thông qua các tổ chức quốc tế như IMF, World Bank và WTO, ngày càng gia tăng đã buộc chính phủ của Hosni Mubarak, kể từ năm 1991 phải đưa ra chính sách cải cách kinh tế để thích nghi. Đại thể những cải cách ấy không gì khác hơn ngoài những toa thuốc thông thường do các tổ chức quốc tế đó đưa ra cho các nước đang phát triển: Cắt giảm chi tiêu công ích của chính phủ; thu hẹp và giải thể dần các cơ sở quốc doanh; gia tăng việc tư hữu hoá doanh nghiệp, đặc biệt là tư hữu hoá tài chánh-ngân hàng; pháp chế hoá hoạt động kinh tế; giảm thiểu tài trợ công; v.v…
Nhưng chính sách cải cách gặp phải trở lực lớn; đó là quán tính của hệ thống quốc doanh xã hội chủ nghĩa trước đây và sự chống đối, tuy ngấm ngầm, nhưng mạnh mẽ của quân đội. Suốt nhiều thập niên trước đó và cho đến nay, với vai trò cầm quyền, quân đội Ai Cập đã được hưởng vô số đặc quyền đặc lợi, không chỉ về chính trị mà, quan trọng hơn, cả về kinh tế. Các đặc quyền ấy đã biến quân đội trở thành một giai cấp mới trong xã hội, và giai cấp đó không dễ dàng gì một sớm một chiều chấp nhận sự đổi mới kinh tế để từ bỏ những đặc quyền đã thụ hưởng cả nửa thế kỷ nay. Một chi tiết bên lề, nhưng đáng chú ý và đặc biệt liên quan đến những biến động hiện nay; đó là chính sách cải cách kinh tế lại do chính con trai của Mubarak cầm đầu thực hiện. Chi tiết này góp phần không nhỏ vào phản ứng của giới quân nhân cầm quyền đối với việc cải cách kinh tế, và dẩn đến việc Mubarak không còn được quân đội ủng hộ, phải ra đi.
Ngoài ra một thực trạng khác, cũng thuộc lãnh vực kinh tế, có vai trò không nhỏ trong những biến động ở Ai Cập; đó là sự gia tăng giá cả lương thực.Từ năm 2008 đến nay, giá lương thực và thực phẩm gia tăng đột ngột và lên rất cao tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, và đặc biệt nghiêm trọng tại Trung Đông và Tây Phi. Nguyên nhân là do sự sút giảm sản lượng của một số nông sản chính yếu ở những quốc gia sản xuất lương thực lớn như Mỹ và Canada, trong khi dân số toàn thế giới gia tăng nhanh, do thiên tai ở nhiều nơi, và kế đến là do giá xăng dầu tăng cao. Theo PBS thì Chủ tịch World Bank, ông Robert Zoellick, cho biết rằng việc giá lương thực gia tăng sẽ đẩy chừng 44 triệu người vào cảnh khốn cùng, và từ đó gây ra biến loạn, tại các quốc gia như Ai Cập, Algeria, Tunisie và Yemen.[4]
Cũng theo ông Zoellick thì đây là lần tăng giá lương thực cao nhất trong hơn 20 năm qua, và nhiều chục triệu gia đình sẽ phải chi phí hơn 50% lợi tức của mình cho phần lương thực. Riêng ở Ai Cập thì vấn đề lương thực lại còn trầm trọng hơn, mức gia tăng giá cả trung bình chỉ từ nửa năm nay đã lên đến 20%, nhiều loại lương thực tăng đến 35%. Trong khi đó thì có đến hơn 40% dân chúng có thu nhập dưới 2 dollars/ngày và số người này sẽ phải chi gần hết lợi tức của mình cho phần lương thực mà vẫn không đủ ăn. Đáng ngại hơn nữa là giá cả lương thực vẫn còn tiếp tục gia tăng. Người Việt chúng ta có thành ngữ: “đói khát, loạn lạc”; đói và loạn luôn đi liền với nhau. Tình hình kinh tế tồi tệ chính là nguyên nhân gần của các biến động hiện nay ở Ai Cập.
BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ TRONG KHU VỰC.
Sau khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, nhiều người đã tưởng rằng thế giới sẽ bước vào một giai đoạn ổn định và hoà bình lâu dài, trong một trật tự Thế Giới Mới, như cách gọi của cựu TT Bush senior, hay như giáo sư tiến sĩ Francis Fukuyama đã viết, vào năm 1992, trong quyển sách nổi tiếng The End of History and the Last Man, rằng sự chấm dứt của Chiến Tranh Lạnh có nghĩa rằng lịch sử-hiểu theo nghĩa là sự tiến hoá của nhân loại trên bình diện đấu tranh ý thức hệ- đã đến hồi kết thúc và tự do dân chủ của phương Tây sẽ được phổ quát hoá như là hình thái chính quyền cuối cùng của loài người. (Ông viết nguyên văn: “What we may be witnessing is not just the end of the Cold War, or the passing of a particular period of postwar history, but the end of history as such… That is, the end point of mankind’s ideological evolution and the universalization of Western liberal democracy as the final form of human government”).
Tiếc rằng sự hồ hởi (euphoria) của của Fukuyama hơi “sảng” khiến nhiều người không cảm thấy bị thuyết phục. Chỉ sau đó một năm, một đồng nghiệp của Fukuyama ở Havard, ông Samuel P. Huntington, đã bày tỏ quan điểm trái ngược của mình trong quyển sách bán rất chạy The Clash of Civilizations and the Remaking World Order, trong đó Huntington cho rằng sự hồ hởi của Fukuyama là không phù hợp với thực tế và gây ra ảo tưởng về sự hoà hợp (an illusion of harmony) của nhân loại. Thực tế thì, theo Huntington, cứ sau khi một cuộc chiến lớn kéo dài và đẩm máu kết thúc, người ta đều luôn có khuynh hướng vui mừng và mong đợi một nền hoà bình trong một trật tự vĩnh cữu và phổ quát; người ta đã từng gọi Thế Chiến Thứ Nhất là “ war to end wars”, rồi Roosevelt, sau Đệ Nhị TC cũng đã rất hân hoan nói về “ a universial organization of peace-loving Nations” với một “ permanent structure of peace”; nhưng rồi Chiến Tranh Lạnh lại xảy ra; và chỉ vài năm sau Chiến Tranh Lạnh, nhân loại lại được nghe nói về “ethnic cleansing” ở Nam Tư, rồi chiến tranh ở Bosnia và Kosovo!
Tiếp đến là vụ 9/11; biến cố đã đặt nước Mỹ trước một cuộc chiến hoàn toàn mới, trước đối thủ mới, với hình thái chiến tranh mới, khác hẳn những cuộc chiến trước kia; đòi hỏi những phương lược mới hơn, bao trùm lên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế và văn hoá. Cuộc tấn công làm thiệt mạng gần 3000 công dân Mỹ, ngay tại thành phố lớn nhất và cả vào Bộ Quốc Phòng của Hoa kỳ, là một sự kiện không tiền khoáng hậu, gây tổn thất không chỉ về nhân mạng và vật chất mà còn cả về tâm lý và chính trị cho nước Mỹ, vì đó là lần đầu tiên một nước Mỹ được che chắn bởi hai đại dương, đã bị tấn công ngay vào nội điạ. Về nhiều mặt, vụ 9/11 còn hơn cả cuộc tấn công Trân Châu Cảng của Nhật trước đây. Vì New York và Ngũ Giác Đài rõ ràng là quan trọng hơn Trân Châu Cảng, và Nhật là một đại cường mà sự xung đột với Mỹ, vào thời gian 1941, là không tránh khỏi; trong khi đó Al-Qaeda, kẻ chủ mưu của vụ 9/11, chỉ là một tổ chức phi quốc gia và phân tán. Mặt khác, việc bất thần tấn công của Nhật so ra dễ thực hiện hơn. Để thực hiện thành công vụ 9/11, Al-Qaeda đã phải dàn dựng một kế hoạch hết sức tinh vi; từ việc chọn lựa và huấn luyện nhân sự; đến việc tổ chức bảo mật, vấn đề xâm nhập, vấn đề thu thập tình báo và chống tình báo để qua mặt không chỉ CIA, FBI mà cả các cơ quan tình báo đồng minh của Mỹ; vấn đề chọn lựa mục tiêu, chọn lựa phương tiện và thời điểm; vấn đề phối hợp giữa các nhóm hoạt động; vấn đề yểm trợ, v.v…Nội một việc tuyển chọn nhân sự không thôi cũng đủ để khiến Al-Qaeda trở thành một đối thủ đáng sợ: 19 tên khủng bố, đã chết theo 4 chiếc phi cơ trong vụ tấn công đã phải hội đủ những đòi hỏi khó khăn: thông thạo Anh ngữ, có học vấn căn bản vững vàng đủ để học sử dụng được phi cơ thương mãi tối tân, thể lực tốt, thông minh, phản ứng bén nhạy và quan trọng nhất là chấp nhận chịu chết. Những tên khủng bố ấy hơn hẳn các cảm tử quân thông thường ở chỗ là họ hành sự với quyết định chết trong sự tỉnh táo và sáng suốt nhất để lái cho được máy bay vào mục tiêu với mức sát hại đối phương tối đa. Nếu gác bỏ vấn đề đạo lý qua một bên thì so ra Kinh Kha qua sông Dịch ngày xưa cũng không bằng, vì Kinh Kha đã, vì sự thiếu điềm tỉnh của người đồng sự, chém trượt Tần Thuỷ Hoàng; còn những tên khủng bố 9/11 đã đánh chính xác vào mục tiêu dự định, ngoại trừ chiếc thứ tư định chuyển đường bay về White House hoặc Capitol đã bị hành khách can thiệp nên thất bại, không bay được vào mục tiêu.
Cũng có dư luận, sau 9/11, không xem trọng khả năng của Al-Qaeda đến như vậy, mà cho rằng sỡ dĩ cuộc tấn công thực hiện được là vì chẳng qua các cơ quan tình báo Mỹ, do ảnh hưởng của nhóm neo-conservatives, đã cố tình làm ngơ cho bọn khủng bố tiến hành 9/11 để có cớ dấy lên một chiến lược tấn công toàn diện vào Hồi Giáo. Dư luận đó thường được gán cho tên gọi là (Thuyết Âm mưu) Conspiracy theory[5], được một nhân vật tiếng tăm là Jesse Ventura dẩn đầu. Thuyết Âm mưu về vụ 9/11, tuy gây xôn xao, nhưng không trưng dẩn đủ chứng cứ thuyết phục nên dần dà đi vào quên lãng. Hơn nữa, Thuyết Âm mưu đúng hay không, không quan trọng, vì dù sao 9/11 cũng đã gây nên nhiều biến chuyển lớn từ đó đến nay.
Trên bình diện quốc tế, vụ 9/11 khiến chính phủ Mỹ có những thay đổi chiến lược rất quan trọng trên bàn cờ quốc tế, đặc biệt là ở Trung Đông. Trước hết, để tiến hành tấn công Afghanistan, Mỹ đã phải thay đổi thái độ đối với Nga, vì Mỹ cần Nga giúp hai điều quan trọng: một là mượn các phi trường ở Trung Á để chuyển quân và đường bay qua không phận của Nga để vào vùng đó; hai là tin tức tình báo về Liên Minh Phương Bắc ở Afghanistan là lực lượng cho đến lúc đó còn giữ quan hệ với Nga. Vì Afghanistan nằm sâu trong nội điạ, hải cảng gần nhất là Karachi, của Pakistan, nằm trên Ấn Độ Dương, cũng cách xa đến 400 miles. Các pháo đài bay chiến lược B52 có thể bay thẳng đến Afghanistan từ Anh quốc hoặc từ căn cứ Diego Garcia, nhưng các máy bay chiến thuật và trực thăng đổ quân thì lại cần những căn cứ gần hơn. Và những căn cứ gần hơn đó lại ở Trung Á thuộc vùng ảnh hưởng của Nga. Đổi lại Mỹ thôi không qua trung gian của Georgia để tiếp trợ vũ khí nữa cho Chechnya trong việc đòi ly khai khỏi Nga. Về sau này Mỹ cũng đành phải làm ngơ cho Nga “đập” Georgia tơi bời vào năm 2008 vì cái tội dám dựa vào Mỹ để chống lại ảnh hưởng lâu đời của Nga.
Ngoài ra, Mỹ cũng hoà hoãn hơn đối với Iran để được sự ủng hộ của nước này và thu thập tin tức tình báo cần về Afghanistan, vì Iran vẫn còn có quan hệ rất chặt chẻ đối với một bộ phận không nhỏ những người theo hệ phái Shiite ở Afghanistan và cả với vài thành phần khác trong Liên Minh Bắc Phương mà Mỹ đang muốn hợp tác với trong chiến dịch tấn công Afghanistan.
Một sự thay đổi khác rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ gây ra do vụ 9/11 là mối quan hệ đối với vương quốc Saudi Arabia, vựa dầu lớn nhất thế giới. Ở đây sự thay đổi lại hết sức tinh vi nên ít được biết đến. Chính sách đối với Saudi Arabia thay đổi đơn giản chỉ vì mối quan hệ mật thiết giữa Vương quốc và Al-Qaeda. Về nhân sự thì 15 trong số 19 tên khủng bố 9/11 là người của Saudi Arabia, chưa kể là ngay Osama Bin Laden cũng là người Saudi đã từng có mối liên lạc thân cận với hoàng tộc. Nhưng điều quan trọng hơn là hầu hết các nguồn tài chánh cung ứng cho Al-Qaeda đều đến từ Saudi Arabia. Một sự việc đáng chú ý khác là trước biến cố 9/11 chừng hai tuần thì ông hoàng Turki al Faisal, người chỉ huy cơ quan tình báo của Vương quốc, từng cộng tác chặt chẻ với CIA, đột ngột bị cách chức. Vụ cách chức này đã khiến cho việc điều tra về sau của chính phủ Mỹ về đầu mối Al-Qaeda ở Saudi Arabia đi vào ngõ cụt. Ngoài ra, khác với sự hợp tác nhiệt tình trước kia của vương triều Saudi với chính phủ Mỹ trong việc giúp Mujahideen (phần lớn về sau trở nên thành viên nòng cốt của Al-Qaeda) ở Afghanistan chống lại Liên Xô hồi thập niên 1980s, trong vụ 9/11 Vương triều đổi hẳn thái độ, không tích cực cộng tác trong việc truy lùng Al-Qaeda, bất chấp yêu cầu nhiều lần của chính phủ Mỹ.
Mặc dầu vậy, chính phủ Mỹ của TT Bush đã không gây chiến với Saudi Arabia, vì điều đó không giúp đạt được mục đích chiến lược trong cuộc chiến chống Al-Qaeda. Saudi Arabia là thánh địa của toàn thể Hồi Giáo trên thế giới. Tấn công trực tiếp vào đó là đồng nghĩa với việc chính thức gây ra một cuộc thánh chiến với hơn 1 tỉ tín đồ Hồi Giáo, và đó là cái bẩy mà Al-Qaeda mong muốn cho Mỹ rơi vào khi khiêu khích Mỹ bằng vụ 9/11. Đối sách tối ưu của chính phủ Mỹ là làm thế nào để hoặc vương triều Saudi phải tự nguyện hợp tác với Mỹ chống lại Al-Qaeda, hoặc Saudi Arabia- xét như một chỗ dựa tài chánh chính yếu của Al-Qaeda- phải rơi vào khủng hoảng để rồi chuyển biến theo hướng Mỹ mong muốn mà không cần trực tiếp đổ quân vào. Để thực hiện đối sách đó, Mỹ chọn việc tấn công Iraq.
Chọn lựa việc tấn công Iraq để giải bài toán Saudi Arabia trong cuộc chiến chống Al-Qaeda, đồng thời vẫn duy trì được sự khống chế nguồn dầu hỏa Trung Đông, là một nước cờ rất cao và bí hiểm của giới lãnh đạo Mỹ. Nước cờ này, được phối hợp khéo léo với một số những hoạt động khác, sẽ góp phần tạo ra bối cảnh cho những biến cố hiện nay ở Tunisia, Ai Cập, Bahrain, và Lybia.
Saudi Arabia là vương quốc, tuy có diện tích rộng đến 900,000 dặm vuông, nhưng dân số ít chỉ khoảng gần 26 triệu người, đa số theo hệ phái Sunni-Wahabi, một hệ phái Hồi giáo rất cực đoan. Cho đến đầu thế kỷ 20, Saudi Arabia vẫn còn là một xã hội bộ tộc, phân hoá và lạc hậu. Nếu không nhờ vựa dầu lớn nhất thế giới, với sản lượng chừng 8 triệu tấn, thu gần nửa tỉ dollars/ ngày thì có lẽ không mấy ai biết đến vùng đất khô cằn với đám dân tàn bạo và hiếu chiến này. Abdul Aziz Ibn Saud là vị vua thống nhất được các bộ lạc cát cứ lại thành vương quốc mang tên chính thức là United Kingdom of Saudi Arabia. Ibn Saud là một người nổi tiếng hung tàn và nhiều vợ (hơn 100 bà vợ, 45 con trai và 125 con gái!)[6], đã xử dụng tiền thu được từ dầu hoả và niềm tin tôn giáo để củng cố cho độc quyền cai tri của bộ lạc Saud của Ông. Cũng nhờ dầu hoả mà Saudi Arabia, kể từ thập niên 1930 trở đi được sự che chở hết lòng của siêu cường số một thế giới. Biểu hiện của sự bảo vệ ấy vẫn còn mới: khi Saddam Hussein tấn công Kuwait năm 1991, Mỹ đã vội vàng đáp lời yêu cầu của Saudi đưa quân qua ngăn chận và đánh tan quân Iraq.
Do vị trí điạ lý của mình, Saudi Arabia luôn bị uy hiếp từ Do Thái, Iraq và Iran. Đối thủ sinh tử là Iran vì khác biệt cả chủng tộc lẫn đối địch tôn giáo. Từ lâu Iraq, một quốc gia trộn lẫn cả hai hệ phái Sunni và Shiite, nằm đệm vào giữa, trở thành một trái độn an toàn, che chở cho Arab Saudi khỏi sự uy hiếp trực tiếp của Iran.
Về phần Iraq thì đó là một lãnh thổ trống trải nằm ở giữa 6 quốc gia khác nhau, rất khó phòng thủ. Nhưng ngược lại nếu một cường quốc chiếm được Iraq thì có thể một lúc uy hiếp nhiều nước ở chung quanh: Kuwait, Saudi, Iran, Jordan, Turkey, và Syria. Sự hiện diện của Mỹ ở Iraq, như vậy, không những chỉ làm đứt một mắt xích quan trọng của khối Arab, mà còn uy hiếp cả Saudi Arabia, Syria, và Iran nữa. Trong khi đó một Iraq không còn Saddam Hussein và do người Shiite cầm quyền thì lại khiến ảnh hưởng của Iran, theo hệ phái Shiite, gia tăng và áp lực lên Saudi Arabia nặng nề hơn. Đó là chưa kể việc làm chủ Iraq sẽ dẩn đến việc khống chế sản lượng dầu hoả của nước này, trực tiếp ảnh hưởng đến lượng cung dầu trên thị trường quốc tế, từ đó có thể tạo nên một áp lực kinh tế nặng nề lên Saudi Arabia là quốc gia chỉ sống nhờ dầu hoả. Đối phó với áp lực như vậy, vương triều Saudi bị đặt trước sự lựa chọn: hoặc chấp nhận nguy cơ đối kháng chính trị lớn trong nội bộ để chống lại Al-Qaeda, nhưng được Mỹ bảo vệ; hoặc tiếp tục như hiện nay để tránh xung đột nội bộ thì lại không được Mỹ che chở trước sự uy hiếp của liên minh Shiite Iraq-Iran.
Phải thành thật mà nói bài viết này là bài viết hiếm hoi có giá trị đăng trên danchimviet
Còn phần đông mang tính chất hô hào khẩu hiểu mặc dù các tác giả có lấy tư cách trí thức này nọ, hay hào quang quá khứ nhưng những bài viết vô nghĩa, vô giá trị.
Ở trong website này tôi đã từng viết muốn có dân chủ đúng nghĩa tức là quần chúng nhân dân làm chủ, quốc hội là hội của cả nước xin đợi 30 năm nữa. Đến lúc đó thế hệ 8X, 9X trưởng thành khi đó cũng vào độ 50-60 tuổi là độ tuổi của lãnh đạo trên nhiều cơ quan, vị trí khác nhau. Dân trí phần đông từ thế hệ 8X trở đi đã khác so với các thế hệ trước đó.
Muốn tìm hiểu dân chủ cho Việt Nam đừng vội có căn cứ vào những biến chuyển thế giới mà cần chịu khó tìm hiểu văn hoá, chủng tộc/vùng miền, tín ngưỡng, tôn giáo, đời sống kinh tế, theo từng độ tuổi cũng như hậu quả di chứng của chiến tranh vẫn còn dai dẳng ở Việt Nam.
Tuy nhiên đến khi đó những vị tạm gọi là “đi tiên phong” đến khi đó cũng trở thành dĩ vãng bị lãng quên vào một biển trời thông tin, sự kiện của đất nước. Các “anh hùng” tuổi xế chiều này là những “anh hùng” nóng ruột phải cố gào thét, hô thật to để cho người ta biết khỏi lãng quên mình còn bản chất thì đã bất lực . Xin hãy đếm ngược thời gian để về với cát bụi!
Dan chu khong co gi cao xa kho hieu ca, Dan chu la quyen cua nguoi dan lam chu dat nuoc; quyen duoc tham gia cac chuc vu cong quyen, quyen lap ra chinh quyen cai tri. minh qua cuoc bau cu tu do cong buinh va trong sach, quyen duoc truat phe mot chinh quyen sai trai KHong hoang thanh trach nhiem khong hop long dan. Chi co vay thoi! Chung ta khong can suy nghi lung tung ma chi can hanh dong cu the, Ta hanh dong thuc su, gop duoc cai gi phan nao thi gop chu khong nen dung ngoau ma ban ra tin vo hon nua the ky roi! De co dan chu, ac the luc nao du la sieu cuong hay khong sieu cuong dung dang truoc, dung dang sau hay dung cho nao cung duoc, mien co ich cho nhu cau dan chu la chung ta hoan nghenh va nam bat, Chung ta phai hanh dong cu the ngay de giut sup cho duoc cai che do doc tai bat cong gian ac Cong san truoc roi moi co co hoi xay dung chinh quyen dan chu cua dan va vi dan
Kính tác giả,
Thú thật tôi rất thích thú khi đọc một bài viết dài, nhưng phân tích thật đầy đủ tình hình toàn vùng thế giới Ả Rập Hồi giáo như trên. Tác giả viết giản dị và dễ hiểu; văn phong gẫy gọn và khúc chiết; lý luận chặt chẽ, với dẫn chứng rõ ràng.
Bá nhân bá tánh, nên tôi có những điều không đồng ý, vội nêu ngay ra, để xin có lời dẫn giải thêm.
Tôi mong tác giả tiếp tục có những bài bình luận cho riêng từng quốc gia Ả Rập ở Bắc Phi và Trung Đông, cùng những tiên liệu trong tương lai gần và xa. Đó là những hành trang rất bổ ích cho những ai còn quan tâm đến phong trào dân chủ hóa ở VN nói riêng và Đông Á nói chung.
Cá nhân tôi học hỏi được nhiều qua những bài bình luận sắc bén của các tay bỉnh bút phương Tây về thế giới Hồi giáo. Dĩ nhiên họ nói thì mình nghe, nhưng chưa tin hẳn và vẫn tiếp tục theo dõi để kiểm nghiệm qua thực tế.
Tôi cũng đồng ý, mỗi nước có một đặt thù riêng, mình không thể vội vã đánh đồng với nhau, Như Ai Cập khác với Ma-Rốc, Algeria, Tunisia và Lybia, tuy họ cùng ở Bắc Phi, cùng dân Ả Rập theo đạo Hồi. Nghiã là họ lắm cái chung đến khó phân biệt như tác giả đề cập trong bài, nhưng vẫn tồn tại những đặc thù riêng, mà qua cơn sóng thần dân chủ hiện nay mới bộc lộ mạnh mẽ ra hơn bao giờ hết. Qua đó thiên hạ tha hồ quan sát và phẩm bình.
Xin cám ơn và mong tái ngộ nhiều lần nữa.
Kính,
Lại Mạnh Cường
Tái bút:
Bernard Fall: Người Việt Nam yêu nước nồng nàn, nhưng thiếu kiến thức về tình hình chính trị thế giới ! Chuyện Việt Nam còn dài dài …
Trong đoạn trên tôi có hai điểm lớn không đồng tình với tác giả:
1/ SAUDI ARABI
Được Mỹ coi là đồng minh thân thiết vì nguồn lợi dầu hỏa to lớn nhất thế giới, nên Mỹ đã nhào vô bảo vệ khi Saddam Hussein tấn công Kuweit rồi đe dọa cả vùng, trong đó có Saudi Arabi giữ vị trí quan trọng về dầu hỏa.
Như thế tại sao Mỹ lại để cho Saudi Arabi tiếp tục tài trợ cho khủng bố El Queda đánh Mỹ và đồng minh của họ dài dài từ đó đến nay ???
Rồi lại phải dùng biện pháp “răn đe” Saudi Arabi, thông qua việc đánh Iraq và kết cục sa lầy thảm hại như ai cũng rõ trong thời Bush con làm tổng thống. Chẳng những sa hố sâu ở Iraq, mà cả ở vùng núi non hiểm trở Afghanistan !
Rồi tứ đó tạo nhiều cơ hội tốt cho Trung Cộng vùng lên làm chủ Đông Á và nhiều nơi khác trên điạ cầu, khiến giờ đây Mỹ lại cuống quít quay trở lại Đông Á và Đông Nam Á như ai cũng rõ.
2/ KHAI HÓA THẾ GIỚI Ả RẬP HỒI GIÁO TẠI BẮC PHI
Theo tôi điều này thật nực cười, bởi trong biến động long trời lở đất vừa qua và vẫn đang còn diễn ra sôi nổi cho đến nay, ta thấy rõ các chính quyền Mỹ và phương Tây đã tỏ ra “bắn chậm”, khi không biết ủng hộ ngay phong trào DÂN SỰ BẤT PHỤC TÙNG CHÍNH PHỦ, nhằm đòi cải tiền dân sinh và dân chủ hoá đất nước, Có nguyên thủ quốc gia (Pháp, Ý) lại lố bịch, khi còn ủng hộ các lãnh tụ độc tài, trong khi các tên này đang chết đến đít. Nói ngắn gọn, các bình luận gia phương Tây chê trách các lãnh đạo xứ mình không nắm vững tình hình để có ứng xử thích hợp.
Thật ra xưa nay họ triệt để tuân theo chủ trường đường lối coi trọng sự ỔN ĐỊNH (stability) trong vùng hơn là DÂN CHỦ hóa dân vùng này. Đó là điều Isarel mong muốn; Israel muốn là trời muốn (ít ra trong khuynh hướng này), nên Mỹ hầu như nghe theo răm rắp. Vì họ ngại làm mất lòng trước tiên Israel và sau đó lỡ có bề gì thì khó ăn khó nói với các lãnh tụ gốc quân đội các xứ Ả Râp ở đó. Bằng chứng như Ý còn lừng khừng trong vụ Lybia, bởi được hưởng nhiều lợi qua cấu kết chặt chẽ với Kadhafi mà ai cũng rõ (từ đầu tư cho đến nút chặn làn sóng tị nạn từ lục điạ đen vào Ý)
Tại sao có cơn sóng thần dân chủ hóa ở thế giới Ả Rập thiết tưởng được phân tích nhiều, nên tôi xin không bàn thêm ở đây làm chi. Tôi chỉ ngắn gọn trong thời đại bùng nổ thông tin và cách mạng giao thông vận tải, trái đất bé hẳn lại, nên người ta nhất là giới trí thức trẻ dễ dàng tiếp cận với những cái mới, học hỏi và tiếp xúc thêm nhiều về các nên dân chủ, các nền văn minh văn hóa nhân loại. Chính họ là nhân tố quyết định cho cuộc cách mạng dân chủ và dân sinh ở nước họ.
Nói tóm lại, xin đừng quá đề cao người Mỹ hay phương Tây, mà hãy nhìn lại chính họ đã chủ quan phạm nhiều sai lầm do tự mãn, rồi đánh giá thấp đối phương, nên nếm mùi thất bại chua cay.
Mỹ cười Nga để thua ở Afghanistan, nhất là khi họ tiến quân như chẻ tre vào hai nơi trên. Nhưng thời gian cho họ nếm mât đắng.
Chỉ vì nóng vội trả thù do quá bẽ mặt qua vụ Nine One One, mà Bush con lầm lạc trong hai nhiệm kỳ, đến nay Obama phải lo chữa lại chính sách toàn cầu của Mỹ như ai cũng thấy rõ ràng như giữa trưa nắng gắt,
Kết luận, MẶC CẢM VIỆT NAM (The Vietnam Syndrome) hay BÀI HỌC VIỆT NAM (The Vietman Lesson) vẫn là “unlearnd lesson” với (chính giới) Mỹ ở Iraq và Afghanistan.
Chính giới Mỹ cần bỏ hẳn chính sách thực dụng qua cái gọi là REALPOLITIK vẫn áp dụng xưa nay.
Kính cáo,
Lại Mạnh Cường
Xin cám ơn rất nhiều tác giả TRƯƠNG ĐÌNH TRUNG dù tôi mới đọc được phần một.
Lại Mạnh Cường
(BBT: Xin bấm vào số 2, 3, 4 ở cuối bài để đọc tiếp những phần còn lại)
Xin cám ơn lòng tốt của BBT.
Tôi dự định góp ý ở phần nào vào phần đó, như đã góp ý trong phần ba tiếp theo
LMC