WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Tản mạn về từ Hán-Việt

Ảnh: Flickr

Các từ Hán-Nhật-Hán-Việt so với Hán-Nhật-Nhật-Việt (phần 1)

Từ Hán Việt (HV) là kết quả rất tự nhiên sau bao nhiêu thế kỷ bị người Hán đô hộ cũng như sống bên cạnh nhau: đây là những từ gốc Hán thâm nhập vào và làm vốn từ Việt thêm phong phú. Tương tự như thế, ta cũng có những từ Hán Nhật, Hán Hàn … phản ánh quá trình giao lưu văn hoá theo dòng thời gian giữa các dân tộc sống gần nhau từ lâu. Thường thì khi nói đến từ HV là ta nghĩ ngay đến các từ gốc Hán  nhập thẳng vào tiếng Việt, nhưng thật ra vấn đề không đơn giản như thế vì các yếu tố thời gian (các lớp từ HV trước và sau thời Đường Tống, thời hiện đại …) và không gian (Bắc bộ, Nam bộ), chính trị …v.v… Có nhiều từ gốc Hán nhập thẳng vào tiếng Việt,  thí dụ như lịch sử HV 歷史, nhập thẳng vào tiếng Nhật thành rekishi歷史, nhập thẳng vào tiếng Hàn thành yoksa hay yeogsa 역사 (phụ âm đầu l- trở thành bán nguyên âm y- hay ngạc cứng hoá) … So với giọng Bắc Kinh/BK bây giờ là lì shǐ (theo pinyin/bính âm); văn hoá HV 文化 trong tiếng Nhật là bunka (phụ âm đầu v/w trở thành b-, h- thành k-), tiếng Hàn trở thành munhwa 문화 so với giọng BK bây giờ là wén hùa. Quốc gia HV 国家 nhập vào tiếng Nhật thành kokka, tiếng Hàn là gugga hay kukga 국가 ; Thủ đô HV 首都 (phụ âm đầu sh- trở thành th- trong tiếng Việt) là shuto trong tiếng Nhật, sudo 수도 trong tiếng Hàn so với giọng BK bây giờ là shǒu dū … Ta cũng không ngạc nhiên khi các từ này nhập thẳng từ tiếng Hán vì các khái niệm lịch sử, văn hoá, quốc gia, thủ đô … rất phát triển cùng với quá trình thành lập chữ Hán từ ngàn xưa. Các giao lưu văn hoá ngôn ngữ đặc biệt nhất và rất lâu đời là Việt Nam/VN và Trung Quốc/TQ. Chẳng hạn như môn Hình học (Geometry): tiếng Nhật là Kika-gaku (Kỷ Hà học) 幾何学 so với tiếng Hàn là kiha-hak (hay giha-gag 기하학). Các tài liệu HV từ đầu thập niên 1930 cho đến 1960 cho thấy cách dùng Kỷ Hà học và Hình học đều hiện diện trong tiếng Việt, nhưng hiện nay thì không ai dùng danh xưng Kỷ Hà học nữa. Cách gọi Hình học 形学 đã có trước Kỷ Hà học từ lâu; tên Kỷ Hà học do các học giả đời Minh Từ Quang Khải và Lợi Mã Đậu/Matteo Ricci1 dịch (1607), có khả năng phiên âm tiền tố geo- (âm thời Minh gi-ho, nghĩa là đất đai) từ chữ geometria (Hình học, tiếng Hy Lạp là γεωμετρία, -metria là đo đạc) và cũng phù hợp với cách nói kỷ hà (bao nhiêu) hàm ý đo đạc trong môn học này.

Các từ nhập thẳng từ gốc Hán vào tiếng Việt thời Đường Tống rất phù hợp với các cách đọc theo phiên thiết (Đường Vận, Quảng Vận, Tập Vận) sẽ được gọi là  từ HV trong loạt bài này; tương phản với các từ HV khác có gốc Việt cổ như đảm 膽 (một dạng cổ phục nguyên là *tlam?/*klam? cho ra dạng lòng bây giờ), tên gọi 12 con giáp (Tý chút *chuôt chuột, Mão Mẹo mèo, Hợi Gỏi *kui cúi/heo …), giang 江 (một dạng cổ phục nguyên là *krong/*krung cho ra dạng sông bây giờ) … Các từ HV có gốc Việt cổ như trên sẽ được gọi là  từ VHHV (Việt-Hán-Hán-Việt). Những từ gốc Hán được người Nhật dùng đầu tiên, sau đó nhập ngược vào tiếng Hán và nhập vào tiếng Việt sẽ được gọi là  từ HNHV (Hán-Nhật-Hán-Việt); nếu các từ Hán được người Nhật dùng nhập thẳng vào tiếng Việt thì là các từ HNNV (Hán-Nhật- Nhật-Việt). Các từ gốc Hán được người Nhật dùng đầu tiên với ý nghĩa mới và sau đó nhập ngược vào tiếng Hán sẽ được gọi là từ HNNH (Hán-Nhật-Nhật-Hán). Phần 1 của loạt bài này chú trọng vào các từ HNHV so với HNNV.

1. Hiện tượng đồng âm dị nghĩa

Đây là hậu quả tự nhiên của ngôn ngữ con người: khi xã hội phát triển, ngôn ngữ cũng phản ánh nhiều hoạt động phức tạp hơn do đó một từ có thể mang nhiều nghĩa. Một ngôn ngữ mà trong đó một từ chỉ có một nghĩa sẽ làm bộ nhớ dễ trở nên lộn xộn và quá tải (overloaded). Hiện tượng đồng âm dị nghĩa lại càng dễ xảy ra khi hai ngôn ngữ vay mượn lẫn nhau và tạo ra những trùng hợp về âm thanh (đọc giống nhau). Từ HV cũng có những trường hợp đồng âm dị nghĩa, thí dụ như phi cơ 飛機 (máy bay, giọng BK bây giờ là fēi jī, tiếng Nhật lại chêm chữ hành vào giữa nên trở thành phi hành cơ 飛行機 hikōki); phi cơ còn có thể viết là 丕基   nghĩa là cơ nghiệp lớn (phi 丕 là lớn lao, phi thường – không phải là bay). Nghĩa thứ nhì của phi cơ (cơ nghiệp lớn) rất ít người biết. Đại thử HV có ít nhất bốn nghĩa sau đây tuỳ theo cách viết chữ Hán (a) 大  暑  nóng gắt (thử là nắng mùa hè) – tiết Đại Thử là những ngày 22, 23 và 24 tháng 7 dương lịch, trời rất nóng nực ở Bắc Bán Cầu (b) 大 鼠  con chuột lớn (c) 袋  鼠 con chuột có bao ở trước bụng (đại là cái bao, cái túi không có nghĩa là lớn như a và b) … Nghĩa (c) chỉ con kangaroo (hay kanguru) như ở bên Úc, nhưng theo người viết: đại thử 大 鼠 (chuột lớn) cũng có thể chỉ loài động vật đặc biệt này! (d) 黛 鼠  chuột có lông màu xanh đậm (đại viết bằng bộ hắc là xanh đen). Tiếng Hàn và Nhật thì ghi âm trực tiếp từ tiếng Anh kangaroo: カンガルー (kangarū, tiếng Nhật) so với 캥거루 (kaeng-geolu, hay kaeng-go-ru-u, tiếng Hàn). Tân lang thường được hiểu là người mới cưới vợ khi viết là 新郞, nhưng cũng có thể là trái cau khi viết là tân lang 檳榔 (tiếng Mã Lai, Inđônêsia là pinang).

Do đó nếu không biết chữ (Hán) viết ra sao, các từ HV có thể gây ngộ nhận như trường hợp tên gọi năm Tân Mão (năm 2011) chẳng hạn. Tân2 trong Tân Mão viết là 辛 có nghĩa là can thứ 8 trong 10 can (Giáp Ất Bính … Tân Nhâm Quý), và còn có nghĩa là cay đắng, vất vả, đau thương như: tân toan (chua chát, ̣̣chua xót/đắng cay), tân khổ (vất vả, cực nhọc, nhọc nhằn, chật vật) … Tân viết bằng bộ kim với chữ Tân 鋅/锌 có nghĩa là kẽm với ký hiệu Zn, nguyên tố hoá học số 30 , giọng BK xīn đọc gần giống như (ký âm) tiếng Anh zinc. Tân viết bằng bộ cân 新, nghĩa là mới như: tân binh, tân xuân, tân lang 新郎 (chú rể, chàng rể), tân niên (năm mới, tết dương lịch), tân học, tân kỳ (mới lạ) v.v… Tân thêm bộ thảo 薪lại có nghĩa là củi, củi đun, như các thành ngữ: mễ châu tân quế 米珠薪桂 (củi quế gạo châu), ngọa tân thưởng đảm  臥薪嘗膽 (nằm gai nếm mật); chữ tân này cũng có nghĩa là tiền lương, như: gia tân 加薪 (tăng lương), phát tân 發薪 (phát lương). Tân 賓có nghĩa là khách như: “tương kính như tân” 相敬如賓 (trọng nhau như khách – vợ chồng cư xử với nhau như khách). Tân viết bằng bộ thuỷ  濱  có nghĩa là bờ, như: hồ tân 湖濱, hải tân 海濱 hay gần/giáp/ven như: tân hải 濱海 (giáp biển), tân giang濱江 (gần sông); ngoài ra, thành phố cảng nước Nhật – Hoành Tân3橫濱 (Yokohama) cũng viết với chữ tân này. Tân viết với bộ mịch ghép với phân cũng bộ mịch thành từ ghép tân phân 繽紛 (rực rỡ, sặc sỡ; lả tả), như trong thành ngữ: ngũ thái tân phân五彩繽紛 [wǔ cǎi bīn fēn giọng BK] (màu sắc sặc sỡ, muôn màu rực rỡ). Tân viết với bộ mộc 檳 ghép với lang cũng bộ mộc榔 thành từ ghép tân lang檳榔 (cây cau, quả cau). Tân viết với bộ nhân 儐 có nghĩa là người tiếp khách, như: nam tân tướng男儐相 (phù rễ), nữ tân tướng女儐相 (phù dâu). Tân viết với bộ trùng 蠙 (bīn BK) là một tên riêng của con trai (bạng 蚌), cũng chỉ ngọc trai, trân châu.Vì chữ tân có nhiều từ đ̀ồng âm dị dạng trong chữ Hán như vậy, nên người ta hay hiểu lầm nghĩa chữ tân trong thành ngữ “tương kính như tân”; có lẽ chính vì lầm tưởng như vậy mới có ý kiến cho rằng Tân Mão là năm mới để dẫn đến kết luận: “… ta nên tống cựu nghênh tân” – xem bài phỏng vấn của đài BBC trang này: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/02/110203_cat_or_rabbit.shtml

Ngôn ngữ Nhật không có nhiều âm vận như tiếng Việt (ngôn ngữ có thanh điệu/tonal language), cùng với giao lưu văn hoá lâu đời với TQ láng giềng, cho nên trong văn tự của ḥọ có nhiều Hán tự ̣ (kanji). Trong văn tự Nhật thường dùng có 1,945 chữ Hán gọi là “Thường dụng Hán tự” (常用漢字, jōyō kanji bắt đầu dùng chính thức vào năm 1981 và vẫn còn được cập nhật) – để tránh tình trạng lầm lẫn giữa rất nhiều từ đồng âm dị nghĩa có gốc Hán – có thể nói nhiều gấp nhiều lần so với từ Hán Việt.

2. Hiện tượng nhập ngược hay mượn lại (reborrowing)

Astroboy. Ảnh: discover-indo.tierranet.com

Hình trích từ discover-indo.tierranet.com/japanart005a.htm – thế hệ người viết (NCT) rất thích xem loạt phim Astroboy như hình bên trên, so với thế hệ con cái qua các trò chơi (video games) Nintendo.

Ảnh hưởng qua lại trong ngôn ngữ không những hiện diện ở Á Châu (Hán, Nhật, Việt …) mà còn ở Tây phương nữa: với tiến bộ vượt bực của kỹ thuật CNTT của hai nước Mỹ và Nhật bây giờ ta còn thấy chữ anime4 (phim hoạt hình, hoạt hoạ), gốc từ tiếng Anh animation nhập vào tiếng Nhật là  – アニメーション (Animēshon) và nhập ngược lại tiếng Anh thành anime. Tiếng Pháp ‘le bifstek’ là mượn trực tiếp (loanword) từ tiếng Anh beefsteak (món thịt bò chiên), nhưng beef (thịt bò) thật ra là từ tiếng Pháp cổ boef. Tiếng Anh có chữ cinema (điện ảnh, phim, xinê, xinêma ….), so với tiếng Pháp là cinéma, có gốc Hi Lạp κίνημα (kinema, chuyển động) lại nhập ngược vào tiếng Hi Lạp hiện đại là  σινεμά (xinêma, đọc theo tiếng Việt hiện đại). Hiện tượng nhập ngược (vào tiếng Việt) giải thích được phần nào các từ HV như Mão, Hợi … có liên hệ ngữ âm đến cách gọi tên các loài vật tương ứng là mèo (âm cổ Việt của Mão), cúi (âm cổ Việt của Hợi) … Nhưng các từ HV này lại không dính líu gì đến tên 12 con vật trong tiếng Hán từ xưa đến nay.

3. Các từ HNHV (Hán-Nhật-Hán-Việt)

3.1 Ta hãy xem hiện tượng nhập ngược (backloan) hay mượn lại (reborrowing) trong trường hợp các từ HV sau đây mà đa số tưởng rằng chúng là đặc sản của người Hán. Đa số các từ HNHV được người Nhật sáng tạo dựa vào chữ Hán khi du nhập văn minh Tây phương – nhất là vào thời kỳ Minh Trị 明治 (1868-1912) với chính sách đưa các khái niệm khoa học kỹ thuật vào nhà trường; bảng liệt kê sau dựa vào các ví dụ trong chương 3 “Từ ghép gốc Hán và cách thức Việt hoá” của GS Lê Đình Khẩn5 và bài viết của học giả Feng Zhiwei6 馮/冯志伟 (Phùng/Bằng Chí Vĩ). Các từ HNHV còn được tài liệu TQ gọi là Nhật-Chế-Hán-Ngữ 7 日製漢語hay Ngoại-Lai-Ngữ8 外來語. Có một số từ HNNH (Hán-Nhật-Nhật-Hán) không thấy hiện diện trong tiếng Việt ngày nay như mẫn cảm 敏感 (nhạy cảm), thừa khách 乘客 (hành khách), xuất đình 出庭 (ra toà), công báo 公 報/报 (thông cáo), quốc khố國庫/国库 (ngân quỹ quốc gia), chế ước 制約 (kìm hãm), chế đường 製糖 (HV: thường dùng sản xuất đường) … không nằm trong phạm vi bài này nhưng cũng đáng nhắc đến ở đây để bạn đọc nào thấy hứng khởi thì tra cứu thêm.

Bảng liệt kê các từ HNHV

thế giới            nhân loại          tự nhiên           thống trị          Triết học          dân chủ

bảo hiểm          bác sĩ               thành phần      giao thông      kinh tế*           kinh nghiệm

xuất phát         đăng ký           phát minh        lao động          mục đích          xí nghiệp

phân tích         công dân         hoá học            thời gian          tư tưởng          vệ sinh

tập đoàn          giáo dưỡng      bối cảnh           hiện tượng       tuyên truyền    nghĩa vụ

tham quan       thành viên       sáng tác           vận động         chất lượng       cảnh sát

điện thoại        điện báo/telegram                    tổ chức           điện tử             Địa chất học

Động lực học/Dynamics         động sản/movables      công nghiệp     điện xa (xe điện/tram)

pháp luật         phục vụ           lý tưởng          nội dung          thủ tiêu            quan hệ

giao hoán         tiến triển          bản chất           tiêu hoá           tuyển cử          ý nghĩa

phản đối          cán bộ              mỹ thuật          năng lực          nhân quyền      cụ thể

thường thức    thừa nhận        đại biểu            chi bộ              chủ động         khoa học

quảng cáo        cơ quan           kỷ lục                          thị trường        thể dục            văn minh*

giao tế             kinh phí           tất yếu             hiệp hội           diễn xuất         ngân hàng

Sinh thái học/Ecology             Tâm lý học      độc tài             quốc tế                        tôn giáo

trường sở        trừu tượng       đơn vị              trực tiếp           tư liệu              nguyên tắc

đối tượng        phân phối        xã hội                          phê bình          quy tắc            tích cực

điều kiện          văn học*          kiên trì             thủ tục             tân văn            nghiệp vụ

dinh dưỡng     chỉ đạo             tác phẩm          mục tiêu          quyền uy         không gian

phương án       phương thức               chính/chánh đảng                    chính/chánh sách

pháp nhân        giảng sư           động viên        phủ nhận         phủ định          tổng hợp

chủ quan          khách quan      tuyệt đối          biểu quyết       tiến hoá/evolution

nguyên tố        nguyên tử        Sở hữu quyền/ownership        lãnh/lĩnh thổ    lãnh/lĩnh hải

Khu trục hạm/Destroyer         Hàng không mẫu hạm/Aircraft carrier            hí kịch (hài kịch)

sự thái (tình hình)                    phản ứng         để kháng (chống)                    ám thị (bảo ngầm)

tốc kí/shorthand                      bi kịch             tuỳ viên           công trái          giải phóng

Tư bản chủ nghĩa/Capitalism  lao động*        hiến pháp*       Xã hội chủ nghĩa/Socialism

Mỹ học 美學 (Aesthetics)       tự do 自由(freedom, liberty)  chế tài              chế ước

danh từ

v.v…

Xin lưu ý: bác sĩ 博士 là tiến sĩ (PhD) ở Nhật, TQ. Dân chủ là dịch nghĩa từ tiếng Anh democracy – một cách dịch âm là ‘đức mô khắc lạp tây’ 德謨剋拉西. Ít người biết rằng 中華人民共龢/和 國 (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hoà Quốc) và 中国共産党 (Trung Quốc Cộng Sản Đảng) là các từ ngoại lai đã nhập vào tiếng Trung Quốc trong thời kỳ Cách Mạng.

Pages: 1 2

4 Phản hồi cho “Tản mạn về từ Hán-Việt”

  1. Nguyễn Cung Thông says:

    Bác LeQuoc Trinh kính,

    Vâng, tiếng Việt thuộc ngữ hệ Môn-Khme (chỉ là danh xưng thôi chứ tiếng Việt có nhiều người nói nhất trong ngữ hệ này) so với tiếng Trung (Hoa) thuộc ngữ hệ Hán-Tạng. Rất dễ hiểu lầm hay không ý thức được khả năng giao lưu văn hoá ngôn ngữ thời cổ đại khi dùng từ Hán Việt, thật ra có thể là từ VHHV (Việt Hán Hán Việt, gốc Việt cổ nhập vào tiếng Hán và sau đó nhập ngược vào tiếng Việt – như mèo Mẹo Mão, *tlu/klu tru/trâu Sửu, *kui cúi (heo) Hợi …), từ HNNV (Hán Nhật Nhật Việt, người Nhật chế ra từ mới dựa vào chữ Hán, nhập vào tiếng Việt – như đại tá, thiếu tá, kỹ sư …) …v.v…

    Vài hàng thân gởi các bác còn quan tâm đến cội nguồn tiếng Việt

    Nguyễn Cung Thông

  2. B says:

    Cũng cần nói thêm rằng vài từ Hán Việt đã hiểu khác với nghĩa nguyên thủy của nó, ví dụ “quốc gia” được hiểu là đất nước hay tổ quốc. Thực ra “quốc gia” là ” nhà nước” hay nhà cầm quyền, nghĩa là đất nước thuộc về gia đình hay giòng họ nào đó, ví dụ như “nhà Nguyễn”, “nhà Lê”….. Vì thế câu ” Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” cũng hiểu sai.
    Tương tự, ” nhạn” là con ngỗng chứ không phải là chim én hay nhạn củ tiếng Việt. ” Thược dược ” của VN là ” Đại lệ Cúc” của Tàu. ” Thược dược” của Tàu là hoa ” Mẫu Đơn” của VN”….

  3. Cuong says:

    Cái gì mà “gốc Hán”? cái gốc của nó là cái gốc mà ai cũng biết là gốc Hán…tuy nhiên vẫn chưa chắc là sự thật. Theo tui biết danh từ “Việt” có trước danh từ “Hán”. Người “thổ cư” ở đất Việt từ 4-5 ngàn năm trước, còn cái từ Hán là từ Hãn là từ người trung thổ lai tạp với “mọi” phương bắc mà ra… phải có 1 rồi mới có 2, tối ngày cứ nói thằng lớn có trước rồi đẻ ra thằng nhỏ…vậy thằng lớn là thằng China lúc nó còn bé thì nó từ đâu mà đến, nó là gốc Việt rồi đi lai tạp mà ra đó anh hai!

  4. LeQuocTrinh says:

    Cám ơn bác Nguyễn Cung Thông đã viết một bài xúc tích trình bày sự liên hệ của chữ Hán Việt trong văn hoá, ngôn ngữ Việt Nam.

    Tôi hoàn toàn đồng ý bối cảnh đất nước VN nhỏ hẹp, ít dân, hiền hoà, cần cù sống bên cạnh một nước khổng lồ, đông dân nhất thế giới, hung hăng và quỷ quyệt, cho nên trong suốt mấy ngàn năm văn hiến đã phải hy sinh xương máu để dựng nước, giữ nước và chấp nhận ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa phần nào (chữ Hán Việt).

    Tuy nhiên, cũng may nhờ sự hội nhập của những nhà truyền đạo Âu Châu (linh mục Bá Đa Lộc) mà dân VN ta thích ứng nhanh với chữ Quốc Ngữ, sử dụng chữ viết La Tinh (ABC) để truyền bá sâu rộng văn hoá, phong tục, tạo mối dây đoàn kết dân tộc vững bền.

    Tiện đây tôi xin phép hói bác NC Thông rằng: có phải tiếng (nói) Việt Lạc xuất phát từ hơn bốn ngàn năm văn hiến, hoàn toàn không có liên hệ rễ má gì với tiếng Tàu (TQ)?

    Ví dụ khi tôi nói: “tôi ăn cơm; tôi uống nước; con gà, con mèo, con heo, vv…” hay một số thành ngữ “đèo heo hút gió ; vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm” chẳng hạn . Thì đó có phải hoàn toàn ngôn ngữ Việt Lạc, không hề dính dáng gì đến chữ Hán?

    Ít nhất tôi cũng phải có niềm tự hào rằng chúng ta, dân tộc Lạc Việt, không hề mất gốc, cha ông chúng ta đã đổ xương máu hy sinh suốt 2000 năm “dựng nước, giữ nước” để chúng ta ngày nay bảo tồn được ngôn ngữ, phong tục và nền văn hoá mang sắc thái Việt Nam.

    Mến chào bác,

Leave a Reply to LeQuocTrinh