Núi Cao Vực Thẳm và những khoảng trống Việt Nam
Trong tác phẩm Tùy Tưởng Lục viết khi Ba Kim vào tuổi bát tuần và xã hội Trung Hoa tương đối có một chút đổi thay trong sinh hoạt chính trị, Ba Kim đã kể lại một sự việc như sau:
“Một nhà làm nghệ thuật ở Bắc Kinh bị những người làm cách mạng văn hóa lôi ra, kết tội câu kết với nước ngoài, phản cách mạng. Ông không thừa nhận nên bị đánh đập, đấm đá rồi roi vọt, gậy gộc đến mức sứt đầu xưng trán và gẫy một chân. Ông không đi nổi nhưng đội chuyên chính vẫn kéo ông ra bêu ngoài phố, quần áo rách bươm, khắp mình bết máu và bùn sình, miệng không ngừng rên rỉ. Hết thảy những người quen đều quay mặt đi khi ông bị kéo ngang qua. Thốt nhiên, một con chó từ giữa đám đông nhảy vọt ra, sủa lên mừng rỡ, chồm đến ngửi khắp mình ông, đưa lưỡi liếm và quờ chân ve vuốt. Nó bị đá văng đi nhưng vẫn quay lại quấn lấy ông. Cuối cùng, đội chuyên chính dùng gậy đánh gẫy hai chân sau con chó. Nó rú lên đau đớn, kinh hãi và phải chịu ngồi lại một xó, nhưng vẫn thảm thiết nhìn theo nhà làm nghệ thuật đang tiếp tục bị lôi đi.”
Kể lại sự việc, Ba Kim đã thắc mắc:“Bản thân tôi sao lại biến thành ngựa, thành bò? Tại sao người lại biến thành thú như thế?”
Giải đáp có thể đến tức khắc là do yêu cầu thần thánh hoá lý tưởng Cộng Sản và yêu cầu duy trì hơi thở của các đối tượng. Yêu cầu thứ nhất đã biến người Cộng Sản thành sài lang hổ báo — từ của Ba Kim trong Tùy Tưởng Lục — trong khi yêu cầu thứ hai đặt người làm văn học nghệ thuật trước chọn lựa duy nhất là thân phận bò, ngựa hay cái chết theo hai nghĩa cụ thể là chấm dứt mọi sinh hoạt văn học nghệ thuật chân chính hoặc chấm dứt hơi thở.
Qua thực tế xã hội và qua diễn tả sau này của Nguyễn Khải trong tác phẩm Hà Nội Trong Mắt Tôi thì những người như Ngọc Giao, Đoàn Phú Tứ, Trương Tửu, Hữu Loan và Hồ Dzếnh… đã chọn cái chết cho cuộc đời văn học nghệ thuật. Riêng Tô Hoài trong Cát Bụi Chân Ai ghi lại một cây bút trẻ không thể rời xa sinh hoạt văn học nghệ thuật đã chọn cách tự nuốt một nắm lưỡi dao cạo để cắt nát ruột gan mình hầu thoát kiếp văn nô. Cái chết đau đớn kinh hoàng của cây bút trẻ kia có thể coi là hình ảnh diễn tả chân xác cái chết của sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản.
Nhưng mức bi thảm không dừng lại ở hành vi hủy diệt những người sinh hoạt văn học nghệ thuật mà ở hình ảnh con chó bị đánh gẫy cả hai chân vẫn thảm thiết nhìn theo chủ bị lôi đi, trong khi hết thẩy người quen với nạn nhân đều ngoảnh mặt làm ngơ trước tấn bi kịch đồng loại bị đoạ đày man rợ. Ba Kim chỉ ghi lại một hình ảnh nhưng hình ảnh đó đã nhắc nhở một thời đoạn bi thương của cuộc sống, trong đó con người không chỉ biến thành con vật mà còn xuống cấp tới mức thua xa cả con vật. Bởi thái độ lặng lẽ ngoảnh mặt của đám người thân quen với nhà nghệ sĩ đang bị hành hạ đã biểu hiện mức độ tình cảm không thể so nổi với con chó dù bị đánh gẫy cả hai chân nằm bẹp tại chỗ vẫn cố ngước nhìn theo chủ.
Thời đoạn sống bi thương đó đã mở ra với Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua và tiếp tục kéo dài để đẩy cuộc sống vào khoảng trống băng hoại khiến không lâu trước đây Tạ Duy Anh đã chọn tựa đề cho một tác phẩm là Sinh Ra Để Chết. Trong Sinh Ra Để Chết, cuộc sống con người Việt Nam vẫn gồm mọi khía cạnh yêu thương, hờn giận…, vẫn có đủ màu sắc quyền thế, giàu nghèo…, vẫn đắm chìm trong các đòi hỏi thân xác… nhưng Tạ Duy Anh chỉ nhìn thấy là cõi chết, bởi đã bị xô vào thế nghịch chiều với mục tiêu bất biến ngàn đời của sự sống là hướng về cõi Toàn Hảo cuối cùng. Thực tế cuộc sống biến thành cõi chết đó chính là chứng tích cho tình trạng băng hoại cùng cực của đời sống Việt Nam hiện nay, vì toàn bộ ánh sáng Chân – Thiện – Mỹ đều bị dập tắt do yêu cầu thần thánh hoá lý tưởng Cộng Sản. Để thể hiện yêu cầu này, không chỉ có nỗ lực loại trừ những người sinh hoạt văn học nghệ thuật mà còn giam hãm toàn bộ cuộc sống bằng mọi thủ đoạn trấn áp, lời lẽ lường gạt, nỗ lực che đậy bưng bít… nhắm tạo một nếp nghĩ, một cách nhìn không thấy gì khác ngoài hình ảnh ngụy tạo về thiên đường Cộng Sản.
Cho nên cùng với việc biến những tiếng nói tôi đòi thành tác phẩm văn học nghệ thuật là sự bôi xoá tên tuổi người làm văn học nghệ thuật ở khắp nơi để thay thế bằng những tên tuổi bôi nhơ sinh hoạt văn học nghệ thuật. Suốt mấy thập niên qua, tại Việt Nam, mọi người vẫn nghe nhắc về các thành tích văn học nghệ thuật, vẫn thấy nhiều nhân vật được tôn vinh như các tác giả lẫy lừng nhưng trong đó tác giả lẫy lừng nhất luôn là Hồ Chí Minh và một đội ngũ bao gồm Trường Chinh, Xuân Thủy, Lê Đức Thọ… cùng những kẻ tự nguyện biến thành tôi tớ cho bạo quyền.
Tới nay không phải người đọc Việt Nam nào cũng biết về những cái tên như George Orwell, Boris Pasternak, Alexander Solzhenitsyn, Zinoviev… và hơn thế còn không hề nghe thấy những cái tên Việt Nam như Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến… cùng hàng loạt tên tuổi khác dù là những cái tên không thể bỏ qua khi nhắc tới sinh hoạt văn học nghệ thuật. Đó là chưa kể đã có thời gian những tác giả như Nhất Linh, Khái Hưng, Vũ Trọng Phụng, thậm chí cả Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Gia Thiều… từng bị đem ra lăng mạ, bôi trát bằng đủ mọi lời nguyền rủa.
Vì vậy, những tác giả được Hồ Trường An nhắc tới trong tác phẩm Núi Cao Vực Thẳm có thể đều xa lạ với nhiều người đọc Việt Nam. Bởi 9 tác giả được Hồ Trường An đề cập gồm 4 người từng góp mặt từ thập niên 1950 tại miền Nam, 5 tác giả được biết nhiều sau 1975 tại hải ngoại, tức hết thẩy đều đã thuộc hàng ngũ đối tượng bị loại trừ hoặc kẻ địch cần triệt hạ của tập thể đương quyền Cộng Sản Việt Nam nên đã không bao giờ có sự nhắc nhở tên tuổi những người này với người đọc.
Một sự trạng khó thể bỏ qua là gần như chủ trương bôi xoá các công trình văn học nghệ thuật ngoài tầm kiềm chế của người Cộng Sản lại được tiếp trợ bởi không ít nạn nhân của chế độ Cộng Sản ở khắp nơi. Nhiều lý do không kể xiết từ hoàn cảnh mưu sinh tới hàng rào ngôn ngữ, tâm trạng chán chường… đã dẫn đến thái độ thờ ơ với sinh hoạt văn học nghệ thuật ngay cả nơi những người vẫn nhìn thấy mức tương quan tất yếu giữa sinh hoạt văn học nghệ thuật và tương lai cuộc sống.
Từ đây, khoảng trống đáng buồn trong sinh hoạt văn học nghệ thuật và cuộc sống Việt Nam càng như mỗi lúc càng mở lớn hơn để sẽ mang thêm về nhiều nỗi đau đớn theo ngày tháng.
Khi viết tác phẩm Núi Cao Vực Thẳm, có thể chính Hồ Trường An không hề nghĩ về khoảng trống bi thảm trên của sinh hoạt văn học nghệ thuật cũng như thực tế cuộc sống Việt Nam. Hồ Trường An chỉ đến với một số tác giả đã hoặc đang góp mặt trong sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam, chính xác hơn là chỉ dừng lại với một số tác phẩm của 9 tác giả Việt Nam và ghi lại những cảm xúc cùng phát kiến khởi từ các tác phẩm đối diện.
CON RÙA VÀ CÁI MAI
Con rùa mang một chiếc mai
Không mai thì lấy lẽ chi gọi rùa
Nhờ mai an phận chú rùa
Nhờ rùa mai được an lành trên lưng
Trời sinh mọi vật đều ngoan
Con chim có cánh chú rùa có mai
Anh thỏ thì cặp tai dài
Chị diều mỏ nhọn cô nai bụng tròn
Bà voi nặng trịch tựa non
Cảm thương cậu muỗi tí hon giữa đời
Chỉ riêng có mỗi con người
Thật tình chẳng giống mọi loài nào đâu
Cho dầu người vật giống nhau
Thì loài sinh vật nhưng hầu khôn hơn
Không sư tử lại có bờm
Tuy không beo cọp vuốt nhanh hơn nhiều
Cáo chồn nào kịp bao nhiêu
Cả loài sên vắt nhiều điều còn thua
Lũ chim sao hót cho bì
Còn so chú thỏ thì hơn chuyện liều
Phô lên trâu rống nào bằng
Còn khi co rút loài hầu im re
Ve kêu ran khắp trời hè
Còn khi đông đến ộp toàn ễnh ương
Ôi thôi nói mấy cho tường
Bây giờ trở lại cái mai chú rùa
Nhờ mai rùa mới an toàn
Nên dầu mai nặng cứ mang ngại gì
Không mai rùa đố dám đi
Vì mai rùa phải chậm rì hơn ai
Mai khoe mình mới có tài
Rùa khoe mình vác được mai hào hùng
Nào hay muôn vật trên đồng
Khi rùa lật ngữa càng trông tức cười
Bốn chân ngoe nguẩy lên trời
Mai thì nằm dưới rụng rời im khe
Rùa chê ấy lỗi tại mai
Mai chê ấy lỗi bởi rùa ngu ngơ
Vì mai phải nặng hơn rùa
Nên khi lật ngữa đành thua đúng rồi
Ô hay sao bạn lại cười
Việc đời rõ vậy mà cười sao nên
Chớ cười ếch nhái dưới ao
Chớ cười én vẫn lượn nhào trên không
Trời sinh mọi vật bất công
Nào mau tính sách để mong cãi trời
Mai rùa đâu chuyện ngược đời
Én bay hai cánh chuyện đời tự nhiên
Chỉ khi rùa muốn thăng thiên
Vứt đi mai nọ én bèn chào thua
Do rùa to gấp én nhiều
Nên khi có cánh thành con đại bàng
Vì mai rùa thụt cổ hoài
Én nhờ đôi cánh lượn lờ trời xanh
Rùa mong cho đến mùa xuân
Biến mai thành cánh cùng chao đỉnh trời
Bài thơ ngẫu cảm
Sg, sáng 24/5/2010
VÕ HƯNG THANH
NÚI CAO VỰC THẲM
1.
Trên NÚI CAO dáng Tiên bay lượn,
VỰC THẲM sâu Rồng ngưỡng thần tàng.
Việt Nam ngạo nghễ hiên ngang,
Trời cao vượt lướt Nam Ðàng biển xanh.
Chí vút cao hùng anh một cõi,
Khí hồn thiêng rạng chói thường hằng.
Long Tuyền truyền kiếm chống ngăn,
Diên Hồng sấm động đằng đằng uy phong.
2.
Trên NÚI CAO Rồng Tiên lượn sóng,
VỰC THẲM sâu lố bóng Lạc Hồng.
Việt Nam châu ngọc Á Ðông,
Âu Cơ máu đỏ Lạc Long da vàng.
Tổ Hùng Vương rạch đàng mở lối.
Nền Văn Lang kết nối muôn thu.
Nguyện nguyền xua áng mây mù,
Bá quyền bành trướng gieo thù Ngàn Năm.
3.
Trên NÚI CAO Rồng Tiên duyên thắm,
VỰC THẲM sâu trầm đắm Lạc Hồng.
Việt Nam gióng trống Ðại Ðồng,
Trong hoà ngoài thuận một lòng kính yêu.
Trưng liềm buá lắm điều oan trái,
Bày Mác Lê tàn hại giống nòi.
Ðộc tài độc đảng châm ngòi,
Non dời biển lấn đào moi biển rừng.
4.
Trên NÚI CAO Rồng Tiên sừng sửng,
VỰC THẲM sâu dáng đứng Lạc Hồng.
Việt Nam ngạo nghễ uy phong,
Âm ba Sát Ðát Biển Ðông cuộn trào.
Ðảo Hoàng Trường máu đào nhuộm đỏ,
Trời Tây Nguyên cây cỏ héo xào.
Một lòng nguyền với NÚI CAO,
Nguyện cùng VỰC THẲM mong sao phục hồi.
Thánh minh hiền chuá về ngôi !!!