Đại Tướng Dương Văn Minh, Công Và Tội
Sau khi miền nam VN mất về tay Cộng Sản ngày 30-4-1975 nhiều người kết tội Dương Văn Minh đầu hàng giặc, dâng nước cho Bắc Việt, họ nói vì ông mà miền Nam mất. Những người cảm tình với Dương Văn Minh nói ông có công cứu Sài Gòn và miền Nam Việt Nam thoát chết, “nếu ông không ra lệnh đầu hàng thì nó pháo kích chết hết !!!” Sau khi ra Hải ngoại trả lời phỏng vấn báo chí ông nói : “Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu dân”.
Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công, dù ông có hay không ra làm Tổng thống ‘hơn một ngày rưỡi’ thì tình hình miền nam VN và Sài Gòn cũng vẫn y nguyên như thế. Hẳn mọi người đều biết, vào thời điểm ấy miền nam VN hầu như vô chính phủ, các vị Tổng thống, Thủ tướng, các vị Bốn sao , Ba sao, các ông lớn…đều đã “tẩu vi thượng sách”, Việt Cộng đang tiến quân vào.
Ngược dòng thời gian tháng 11-1972 khi sắp ký Hiệp định Paris Hoa kỳ đã vội vã cung cấp cho VNCH khoảng gần 600 máy bay các loại gồm : 200 máy bay phản lực chiến đấu, khoảng 340 trực thăng các loại và mấy chục máy bay vận tải, thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48, 286. (Theo Nixon, No More Vietnams, trang 170-171). Miền Bắc bị thiệt hại nặng sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, họ mất khoảng 100 ngàn quân, 700 xe tăng (Nguyễn đức Phương- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587), lại nữa cuối 1972, TT Nixon cho B-52 oanh tạc dữ dội Hà nội, Hải phòng đánh phá tan nát bộ máy chiến tranh của Bắc Việt”( No More Vietnams. Trang 158). Sau ngày ký Hiệp định Paris 27-1-1973, VNCH yên tâm vì tiềm năng quân sự miền Nam mạnh hơn miền Bắc.
Tuy nhiên tình hình thay đổi rất nhanh, cán cân lực lượng hai miền đã đảo ngược từ 1974, CS quốc tế vẫn tiếp tục vẫn viện trợ quân sự đều đặn cho Hà Nội: Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006). Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Xô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris . Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Xô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn (Years of Renewal trang 481)
Trong khi đó miền nam bị Quốc hội Mỹ xiết cổ từ từ, Hạ Viện Mỹ 1972 Dân chủ chiếm đa số 242 ghế, Cộng Hòa 192 ghế, họ chống đối chiến tranh VN rất mạnh, trước hết họ cắt giảm quân viện xương tủy mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Ngày 15-8 -1973 ban hành luật của Quốc hội cắt bỏ tất cả các ngân khoản dùng trực tiếp gián tiếp cho các hoạt động quận sự Mỹ tại Đông Dương. Ngày 7-11-1973 Quốc Hội ban hành luật War Powers Resolution hạn chế quyền Tổng thống trong chiến tranh, Tổng thống muốn đem quân ra ngoại quốc phải đưa ra Quốc hội để trói tay hành pháp thì số phận của VNCH coi như đã được quyết định rồi .
Kỳ bầu cử Hạ viện Mỹ tháng 11-1974, Dân chủ chiếm đại đa số, tỷ lệ 66.9% Hạ viện với 291 ghế, Cộng Hòa 144 ghế. Dân chủ chống chiến tranh Đông Dương quyết liệt, cắt bỏ bất cứ ngân khoản viện trợ nào giành cho Đông Dương. VNCH lâm vào tình trạng đen tối. Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho miền Nam ngày càng thiếu thốn tiếp liệu đạn dược. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực giảm trên 70%. Theo ông Cao Văn Viên nạn đào ngũ (Những ngày cuối VNCH trang 79) khiến cho quân số thiếu hụt. Hàng tháng lính đào ngũ trung bình lên tới 1,5 hay 2 phần trăm tổng số quân và như vậy hàng năm quân đội mất đi gần 1/4 quân số, hàng năm phải tuyển mộ từ 200 tới 240 ngàn người để thay thế số thương vong, đào ngũ nhưng trên thực tế không tuyển mộ được đủ số tân binh như phỏng định vì nạn trốn quân dịch.
Cuối 1974 đầu 1975 CSBV đánh chiếm Phươc Long để thăm dò Mỹ. Trước nguy cơ sụp đổ, TT Thiệu gửi thư cho TT Ford xin Viện trợ bổ túc 300 triệu. Tháng 3-1974 BV tấn công chiếm Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ bác bỏ khoản viện trợ cho miền Nam và không chuẩn chi cho năm tới 1976.
Tình hình quân sự ngày càng thê thảm, ông Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH, trang 92) cho biết vào tháng 2-75, đạn tồn kho chỉ còn đủ dùng khoảng 30 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày. Kể từ sau Hiệp định Paris VNCH không còn trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.
Cuối tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT Thiệu đã khiến VNCH mất hai quân khu I và II, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và II trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22, 23, 1, 2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng trừ bị.. vũ khí đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng quân.
BV hối hả đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn 1) vào Nam, Hà Nội dùng mọi phương tiện không quân, hải quân, đường bộ để chuyển quân gấp rút vào Nam bao vây Saigon. Họ dốc toàn bộ lực lượng vào Nam Lực lượng tham chiến của BV vào khoảng gần 20 Sư đoàn (gồm 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232, sáu trung đoàn đặc công, 6 trung đoàn độc lập). Vũ khí đạn dược của BV gấp bội lần năm 1972.
Trong thời gian này tại Hoa Thịnh Đốn Kissinger báo cáo trong phiên họp Nội các:
“Toàn bộ lực lượng của QĐBV hiện đã vào nam, chỉ cần một Lữ đoàn TQLC là ta có thể chiếm hết miền Bắc, một sự vi phạm trắng trợn
(Larry Berman, No Peace No Honor trang 266)
Ông cũng nói “Chúng ta không còn tiền để chơi ván bài”, sự thật Hành pháp đã bị Quốc hội trói tay
Ngày 10-4-1975 VNCH còn hy vọng vào viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT Ford đưa ra Quốc hội, ngày 18-4 ngân khoản này bị bác bỏ. Nhiều chính khách nhận định khoản viện trợ này nếu được chấp thuận cũng chỉ kéo dài thêm sự hấp hối của miền Nam mà thôi. Ngày 21-4-1975 TT Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên thay, mấy ngày sau ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm rời Sài Gòn ra đi hôm 24-4..
Trở lại chuyện ông Dương văn Minh. Sải gòn có nhiều tin đồn về việc ông Dương Văn Minh sắp lên làm Tổng Thống thay Trần Văn Hương.
Cụ Hương lên thay ông Thiệu được bốn năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về hiện tình đất nước trên đài phát thanh Sài Gòn, giọng sướt mướt, vừa nói vừa khóc.
“Thưa đồng bào, tình hình hiện nay vô cùng bi đát… Một vùng Hai miền Trung đã hoàn toàn tan rã, vùng Ba, vùng Bốn nay cũng đã bị nhiều sứt mẻ. Rồi mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi thủ đô Sài Gòn này sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đã nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và đã bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh tìm cái giải pháp hoà bình cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng thì bàn giao làm gì. . hở trời!!. .
Người dân vừa sợ vừa thông cảm cho cụ già vì cụ quá thật thà, cụ đã đem hết mọi bí mật quốc gia nói huỵch toẹt trên đài phát thanh!! Thực ra nay cũng chẳng còn bí mật gì để giữ.
Những lời đồn nay đã thành sự thật, ông Dương văn Minh sẽ lên làm Tổng thống. Theo lời kể của ông Nguyễn đình Toàn trong bài “Đại Tướng Dương Văn Minh: Em Làm Chứng Cho Goa” (Người Việt Dallas, tháng 4-2011), ông Toàn và các ông Đỗ đình Tứ, Nguyễn Văn Bình đi thuyết phục Dương Văn Minh ra nhận nhiệm vụ, Đại tướng thất vọng nói:
“Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói: “Em thấy đó, tối hổm Trung Tướng Đôn đã trình bày cho chúng ta biết về tình hình quân đội, về khả năng tái phối trí của quân đội… quân của mình hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, còn các kho vũ khí, súng đạn của mình trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không còn kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Sàigòn, hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ quyền tối thiểu của mình cũng không còn, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra vào tự do, muốn đưa ai đi thì đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh mình có chặn lại cũng bị MP và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi… Tình hình như vậy em bảo làm sao mà ” Goa ” dám nhận nữa? Vậy em nghĩ sao?”
Ông Toàn và mấy người bạn nói
“Nếu Đại Tướng thương nước thương dân thì Đại Tướng phải biết hy sinh chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói tình hình nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như vậy mà Đại Tướng không nhận nữa… thì Đại Tướng đâu có thương dân thương nước,
Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nhìn thẳng vào tôi và nói:
“Bây giờ em nói sao? Em nói “Goa” phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một mình sao?”
Nghe lời thuyết phục của ông Toàn, về sau Đại Tướng Minh nhận ra trách nhiệm cứu nước.
Tình hình quân sự khi ấy vô cùng nguy khốn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn Ba VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly của BV.
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc. Tuyến Biên Hoà phía Đông Bắc. Tuyến Vũng Tầu và Quốc lộ 15 phía Đông. Tuyến Long An phía Nam . Lực lượng mỗi tuyến chưa tới một Sư đoàn trong khi VNCH gần hết đạn phải đương đầu với một lực lượng địch đông gấp năm, sáu lần với hỏa lực áp đảo.
Chiều ngày 28-4 Đại Tướng Dương Văn Minh lên nhậm chức Tổng Thống do Cụ Trần Văn Hương trao lại. Ông đọc diễn từ ngỏ lời cùng đồng bào, một lúc sau năm máy bay CS ném bom phi trường Tân Sơn Nhât gây kinh hoàng cho cả thành phố Sài Gòn.
Ðúng bẩy giờ đài BBC đọc bản tin tóm tắt về tình hình Việt Nam
“- Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.
-Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.
-Nhiều loạt súng nổ tại Sài Gòn không biết thuộc phe nào.”
Qua phần bình luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao chức vụ Tổng thống tại Dinh Ðộc lập chứng tỏ cho thấy sự tan rã của chính quyền Sài Gòn.
Sáng ngày 29-4 Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc Văn thư của Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu cơ quan Tùy viên quân sự DAO phải rút lui trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngay sau đó đoàn trực thăng gồm 80 chiếc từ hạm đội vào phi trường Tân Sơn Nhất và tòa Ðại Sứ Mỹ để di tản 1,000 người Mỹ và 6,000 người Việt ra ngoài hạm đội sau 19 giờ bay liên tục.
Tối 29-4 ông Dương Văn Minh vẫn kêu gọi các lực lượng Quân đội VNCH trên đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.
“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Các Tướng Tư lệnh Lý Tòng Bá, Lê Minh Đảo, Lê Nguyên Vỹ, Trần Quang Khôi… đã chiến đấu rất anh dũng trong những giờ phút cuối cùng nhưng không cứu vãn nổi tình thế. Cộng quân đã phá vỡ các phòng tuyến VNCH và tiến vào Thủ đô Sài Gòn. Lúc 10 giờ rưỡi sáng 30-4-75, ông Dương Văn Minh kêu gọi các cấp quân đội giao nạp vũ khí cho Quân đội Cộng Hòa miền nam VN nơi gần nhất để tránh đổ máu vô ích. Lúc 12 giờ trưa, Quân dội BV tràn vào dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Tính ra ông Dương Văn Minh làm Tổng thống từ chiều tối ngày 28 -4 cho tới 12 giờ trưa 30-4 thì chỉ được có hơn một ngày rưỡi, chưa tới hai ngày. Nhiều người trách ông không rút về Quân khu Bốn tiếp tục chiến đấu nhưng vấn đề không đơn giản, nếu làm được thì người ta đã làm rồi. Khi ông vừa lên nhậm chức thì CSBV tấn công hối hả, ông chưa kịp trở tay thì đã bị địch sông vào dinh Độc lập thộp cổ rồi. Vấn đề rút về Quân khu Bốn không đơn giản, đạn dược còn bao nhiêu? tinh thần còn bao nhiêu? chiến đấu được bao lâu? Cầm chắc cái thua trong tay rồi chết thêm có lợi ích gì không?
Tác giả Vũ Ánh trong bài: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, đăng trên trang mạng Nguoivietboston tháng 4-2012 đã tiếp xúc với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền khi ông tới đài Truyền hình Sài gòn chiều tối 28-4-1975. Cụ Phó cho biết đã nhịn nhục vào Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn CS chỉ để yêu cầu họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài Gòn, chết người thêm vô ích. Cụ nói khi ông Thiệu bỏ đi ai cũng biết tình hình cuối cùng sẽ bi đát như hiện nay, cụ ra nhận trách nhiệm khi biết rõ không còn phương cách nào có thể cứu vãn được. Trước khi cụ quyết định nhiều người ngăn cản đừng dại gì làm việc trong hoàn cảnh này nhưng là kẻ sĩ thì không thể thiếu trách nhiệm được, thời bình thì xe ngựa xênh xang, khi đất nước tan hoang thì bỏ trốn.
Nhiều người trách ông Dương văn Minh đầu hàng giặc, nhưng nếu ông không ra cứu nước thì tình hình cũng không khác gì hơn. Chiều 28-4 các vị Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân đoàn Ba đã “tẩu vi thượng sách”. Cụ Hương biết làm gì hơn? cụ cũng sẽ lên đài phát thanh than thở, khóc lóc cùng đồng bào và Cộng quân cũng sẽ tiến vào dinh Độc Lập bắt tuyên bố đấu hàng, hoặc một người thay mặt cụ tuyên bố hàng. Ông Dương Văn Minh chẳng có tội gì với đất nước.
Nhiều người khen ông Minh có công cứu nguy Sài gòn, nếu ông không lên làm Tổng thống và nếu không kêu gọi đầu hàng thì Việt Cộng đã pháo kích chết hết, thành phố tan nát. Như đã nói ở trên Tướng Toàn thành lập năm tuyến phòng thủ Sài Gòn cách trung tâm thành phố 27 cây số, bằng tầm pháo cùa đại bác 130 ly của quân thù.
Tại trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975, Cộng quân không đánh theo lối bóc vỏ mà đánh chiếm thị xã trước rồi từ đó mới đánh ra các quận bên ngoài. Khi đánh Sài Gòn thì ngược lại, họ đánh theo lối bóc vỏ, tấn công phá sập các tuyến phòng thủ bên ngoài rồi mới tiến vào trung tâm thành phố. Mà thực ra sau khi vòng đai bảo vệ Sài Gòn sụp đổ thì các ổ kháng cự bên trong thành phố không còn bao nhiêu, VC chẳng cần phải pháo kích cho tốn đạn, ông Dương Văn Minh cũng chẳng có công trạng gì.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
————————————————————
Tham Khảo
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New York 1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003
Vũ Ánh: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, Nguoivietboston.com, tháng 4-2012..
Nguyễn Đình Toàn: Đại Tướng Dương Văn Minh: “Em làm chứng cho Goa nha!”, Người Việt Dallas, tháng 4-2011.
Moị người có ý kiến của mình. cá nhân tôi thì đánh giá cao bài của tác giả Trọng Đạt. SG còn nguyên vẹn, thương vong hạn chế,…trong tình hình SG vô chính pủ, các tướng lĩnh thi nhau đào tẩu hết….
NẾU
Nếu CSVN đúng, tại sao ông Dương Văn Minh và những người cộng sự của ông ta không vô khu theo CS ngay từ đầu. Hay Ít nhất cũng ở lại theo cách trá hình như kiểu của Thích Trí Quang. Còn như ông DVM đã không theo vô khu, vẫn lên lon đại tướng, tức là ông Dương Văn Minh đã không muốn theo CS. Không muốn theo CS mà được trao quyền để thương thuyết vào giờ chót với phe CS, thì chỉ có bốn cách duy nhất hợp lý mà ông Dương Văn Minh buộc cần phải có là : Từ chối không nhận quyền hành. Còn đã nhận thì không thương thuyết, mà đành chỉ chịu chết. Người đứng đầu một nước không thể xem danh tiết chỉ như chuyện đùa, như một ván cờ thí chơi vui. Nếu sợ thành phố bị tàn phá, thì cứ tuyên bố công khai đã bỏ ngỏ. Chuyện gì phải ngồi đợi để chuyển giao chính quyền một cách giả tạo. Chuyển giao chỉ có nghĩa là phe ta cùng bàn giao với nhau. Cuối cùng, là cách đầu hàng. Nhưng nếu nhận quyền hành để đi đầu hàng, tức là sự ngu dại, dầu người thất phu cũng không ai làm thế. Ông Dương Văn Minh quả thật là một nhân vật có tiếng xấu để đời với đất nước nói chung sau này, khi mà mọi khuynh hướng chính trị ý thức hệ nhất thời đều đã qua đi, sau một đêm dài dân tộc phải chịu chiến tranh với đầy danh nghĩa phức tạp mà thực sự vẫn thiếu một sự chính danh đúng nghĩa nào đó mang tính khách quan, đúng đắn thật sự. Chỉ tiếc ông DVM và phe phái của ông đều đắm chìm vào niềm tin tôn giáo đã bị chính Thích Trí Quang chính trị hóa một cách sai trái cũng như giả dối mà thôi. Sự sáng suốt và kiên cường của những người trí thức VN vào thời điểm của DVM quả chính là như thế, mà tiêu biểu nhất cuối cùng chính là trường hợp của Trương Như Tảng và phe thứ ba kiểu như Ngô Bá Thành. Còn Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát đều là phe ta thực chất thì đâu cần nói đến.
ĐẠI NGÀN
(01/5/12)
Nếu ông Minh đầu hàng theo cách đó,
thì Việt Nam đã là nước Đại Ngu từ xa xăm kia,
và bi giờ tàn dân ta đều nói tiềng Tàu mẹ nó zồi !
và ta lại là An Nam đô hộ phủ rồi hê hê bu nó ơi…
SỰ LẾU LÁO HAY TẾU TÁO CỦA LỊCH SỬ
Lịch sử trong dài hạn thì không thể lếu láo hay tếu táo. Nhưng lịch sử trong ngắn hạn, trong những sự cố nào đó, đều thường mang nhiều chất lếu láo hay tếu táo trong thực tế hay thực chất. Tuyên truyền chính trị chẳng hạn, đó là một sự lếu láo hay một khía cạnh tếu tếu của lịch sử tranh quyền nói chung. Bởi sự thật khách quan thì không phải ai cũng biết. Nhưng những sự kiện được phiên diễn ra theo cách ngụy tạo, nói cho trệch đi, có khi trước mắt, được rất nhiều người, hay mọi người đều biết đến như thế, còn việc đó thực chất đúng hay sai, và có những ai tin hay không tin, lại chỉ là chuyện khác. Thường vì mục đích chiến thắng, nhằm giành được kết quả, với kiểu suy nghĩa mục đích biện minh cho phương tiện, con người ta có thể làm bất kỳ điều gì, miễn trước mắt có lợi cho mình, đó chính là tính cách lếu láo hay tếu táo của lịch sử nói chung. Nhưng rồi, qua thời gian, khi các lý tưởng có tính ảo tưởng, nhất thời, mất đi rồi, khi đó, lịch sử cũng phải quay trở lại với điều thường tình, chỉ khi ấy, những lếu láo hay tếu táo của lịch sử rồi cũng phải trở về với quá khứ, không còn ai nhớ ra được nữa. Vậy thì, trong sự lếu láo hay tếu táo đó của lịch sử, sự đầu hàng hay không đầu hàng ngày vào ngày 30/4/75 của Saigon cũ trước đây 37 năm, quả có đúng nghĩa hay có thực chất hay không, thực sự cũng chỉ là một điều tếu táo, hay một sự lếu láo của lịch sử đã có. Bởi, tới gần ngày đó, thực chất cả miền Nam trước kia đều không còn nữa, vì tất cả khi ấy toàn bộ đầu não đều nằm ở Saigon. Nên cái gọi là chính phủ hay chính quyền của ông Dương Văn Minh khi ấy, thực tế cũng không còn thực chất. Nên đây đúng là một sự bỏ ngỏ, hơn là một sự đầu hàng đúng nghĩa. Bởi đầu hàng, có nghĩa là phải còn thực lực, còn trách nhiệm, còn ý chí chiến đấu, mà phải xếp giáo quy hàng, đó mới gọi được là sự đầu hàng thực sự. Trong khi đó, toàn thể chính phủ miền Nam khi ấy coi như không còn trong thực chất nữa, mà sự thật chỉ còn lại một số người cũng được gọi là chính phủ, mà trong đó đã có nhiều người ngầm ẩn thuộc phe bên kia rồi, với danh nghĩa nắm còn trong tay quyền lực, mà quyền lực đó, thực chất khi ấy cũng hoàn toàn không còn nữa, thế làm sao gọi được là sự đầu hàng. Nên danh từ “đầu hàng” mà các cán bộ vào tiếp quản thực tế khi ấy phần còn lại của chính quyền miền Nam, muốn nói lên lúc ấy, thực chất chỉ muốn nói lên cho oai, nhằm vào mục đích tuyên truyền chính trị, hơn là sự đầu hàng thực tế của người trong cuộc. Miền Nam lúc ấy coi như đã hoàn toàn bỏ trống, lực lượng miền Bắc khi đó vào nhằm để tiếp nhận thực tế, mà không hề có sự đầu hàng chính thức nào của miền Nam, hay của một nhân vật, hoặc chính phủ cầm quyền nào đó hoàn toàn đúng nghĩa thật sự của miền Nam khi ấy cả. Điều ấy chẳng khác gì một cái ao cạn, mọi nhân vật còn lại chỉ giống như cá bị mắc cạn còn lại, thế thôi. Sự đầu hàng như được tuyên bố là thực chất không có, mà chỉ là sự rời bỏ phần quyền hành ít oi còn lại tại chỗ của những người ấy thôi, mà tiêu biểu chính là ông Dương Văn Minh, coi như nhân vật chính trị hay quân sự nửa nạc nửa mở và đội cận thần chung quanh ông ta lúc ấy, bên cạnh là một đội ngũ không nhỏ, tuy không ra mặt, nhưng đã hoàn toàn thống nhất với miền Bắc ngay từ đầu một cách không kèn không trống. Mặt trận GPMN là cánh tay nối dài của miền Bắc, và thành phần thứ ba là cánh tay nối đài cùa MTGPMN chính là những màn lưới như vậy, còn chính phủ Dương Văn Minh chẳng qua cũng chỉ là những cá nhân rời rạc hoặc một tập thể nhỏ được chuyển quyền một cách không chính thức hay chỉ là sự tiếp nhận không chính thức một quyền hành èo uột còn sót lại trong thực tế đó thôi.
NON NGÀN
(30/4/12)
Thưa bác NON NGÀN,
Đúng như bác nói. Thực chất của 30/4/75 chẳng là cái gì cả. Phiá thua thì tự lầm là ‘đầu hàng’. Phiá thắng thì tự thổi phồng lên để tự che cái sai của mình. Cũng là 1 hình thức lậm cần sa, cần sa Mác-lêninit. Đưa 1 nhân vật ( chẳng ra làm sao cả !) vào làm nền cho 1 biến chuyển ‘trống rỗng’
thì theo ngu ý cũng là 1 chuyện trống rỗng. Chỉ khổ là hệ lụy vẫn còn dai dẳng chưa dứt !
TINH Ý
Nôm na mà chẳng nôm na
Nói sao trúng phóc thật là hay ghê
Người đời đâu phải chỗ chê
Người đời ẩn chứa bao bề thâm sâu
Mới hay mưa nắng dãi dầu
Người đời như thể ngàn dâu nuôi tằm
Nên dầu lịch sử đa đoan
Cuộc đời còn lại mãi ngàn dâu xanh
Dâu xanh mượt lá lẫn cành
Tơ tằm óng ánh vàng toanh hãy chờ
ĐẠI NGÀN
Có lẽ lần đầu tiên tôi nghe một “luận” về ngày 30/4/75 gần với thực tế nhất!
Thứ nhất không có ai đầu hàng, trừ ông tướng “big” (to đùng ) DVM. Nhưng ông này là cái “tượng lo” trống rỗng, không quân không quyền không chỉ huy ai cả thì làm sao đầu hàng? Do đó câu nói của ông nhà báo mang lon đại tá, Bùi Tín, khi được “bàn giao quyền lực” vô tình nói lên sự thật: (ông) chẳng có gì để bàn giao cả, khi chúng tôi đã chiếm hết miền Nam rồi!
Còn lại là câu hỏi: ai đã bỏ trống miền Nam và tại sao? Sự thật, theo tôi, cai đắng khó nuốt nhưng cần phải nói lên một lần cho rõ, để khỏi phải loanh quanh nhắc đi nhắc lại mãi: miền Nam, tức VNCH, chỉ có thể đương đầu với cả khối CS khi có sự hỗ trợ của – liên kết với – Mỹ và Đồng Minh. Khi “liên minh chống cộng” này không còn (còn gọi là “ngưởi Mỹ bỏ Việt Nam”) thì người dân miền Nam không thể một mình chống lại quân CS Bắc Việt với sự hỗ trợ của nguyên khối CS (lúc đó là một nửa thế giới!). Do đó, “bỏ trống” là một điều hợp lý nhất, như Khổng Minh khuyên Lưu Bị bỏ Kinh Châu (?).
Hệ lụy tự nhiên của cuộc “bỏ trống” là một số không nhỏ người dân miền Nam “hiểu cộng sản” bỏ nước ra đi cùng với sự “bỏ trống”. Những người không đi kịp hay còn hy vọng “Việt Cộng cũng là người Việt” khi vỡ lẽ ra “Cộng Sản là gi” rồi cũng dần dần liều mạng ra đi. Bới thế, không lâu sau ngày 30/4/1975, mới nầy ra câu châm ngôn: nếu cột đèn biết đi thì chúng cũng đã đi rồi!
Đó là sự thực phơi bầy ra trong 37 năm nay: khi một đất nước “bỏ trống” để lọt vào tay một bọn người không lý tưởng, ngoài “lý tưởng” – tham vọng – nắm trọn quyền lực chỉ để vơ vét của cải cho đầy túi tham, thì đất nước đương nhiên trở thành một bãi rác không hồn. Kẻ có quyền chức thu tóm tất cả của cải vật chất quý giá, người không quyền lực sẽ chỉ còn tay không.
Tuy nhiên, về lâu về dài, của cải vật chất không phải là vấn đề cho quốc gia. Vấn đề là bọn tham lam không lý gì đến văn hóa dân tộc hay tương lai của đất nước, khiến cả một dân tộc vốn kiên cường trở thành một bộ tộc kiểu Phi Châu, không tương lai, không chóng thì chày sẽ đi đến diệt vong!
LV
TB. Ít lời bàn vụn về “triết lý trống rỗng” của bác nômna. Nếu nhìn qua triết lý đạo Bụt, “trống rỗng” hay “cái không” phải hẳn là “không có gì”. “Không có gì” chỉ có nghĩa là sự vắng mặt của cái “có gì”, như quyền lực, lý tưởng, tham vọng… nói chung là những hệ lụy của cuộc đời. “Không” trong đạo Bụt là thực tại của đời sống (thực). Có đó rồi mất đi đó… Nhưng đây chẳng phải chỉ là “triết lý con tườu”, mà rất gần với tâm trạng thật của người dân Việt Nam, nhất là người miền Nam, lúc đó. Trong khi những anh cán bình miền Bắc – tiêu biểu cho “ý chí” của người dân miền Bắc – sùng sục, sôi máu… quyết chí “giải phóng miền Nam” (giải phóng từ cái gì?) và thống nhất đất nước, người dân miền Nam từ lâu đã nhìn ra cái phi lý của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nhìn thấy rõ cái phi lý của cuộc chiến. Họ chiến đấu là để bảo vệ tự do của con người (chống lại bất cứ ý chí áp đặt nào) và văn hóa nhân bản của dân tộc… Khi phảt gặt lệ rời quê hương ra đi, ngưòi miền Nam tìm tự do, vẫn giữ lại nền văn hóa đó. Bới thế, “cộng đồng người Việt hải ngoại”, dù thuộc thế hệ di tản 75, hay bất cứ đợt “di cư” nào cho đến bây giờ, chủ yếu vẫn là để giữ vững nên văn hóa Việt, để có thể truyền đạt cho các thế hệ Việt mai sau. Ý nghĩa của 30/4/75 cũng như những cuộc vượt biên bi tráng là ở chỗ đó…
CHUYỆN TÌNH THỜI ĐẠI
Chàng hỡi chàng em yêu chàng thế nhỉ
Từ gặp chàng em còn biết yêu ai
Gặp chàng rồi em chẳng hoài non nước
Bởi con tim phận gái đã mê rồi
Chỉ có chàng mới bầu trời lý tưởng
Đại đồng đây và vô sản vinh quang
Em bất chấp những gì ngăn phía trước
Ái ân thôi như hạnh phúc thiên đàng
Yêu chàng quá em buông xuôi hết cả
Chỉ mơ về nẽo tình ái nồng nàn
Em mê mệt dẫu thời gian biến đổi
Chàng hỡi chàng sao tình lại dở dang
Thôi đành thế lở yêu thì trót dại
Có hề chi đời vẫn lắm đa đoan !
NON NGÀN
(02/4/12)
Ông Trọng Đạt đã viết nhiều bài về lịch sử chiến tranh, với nhiều dữ kiện phong phú mà viết bài này về DVM như thế thì tôi thật không hiểu!
Ông Minh không công không tội?! Nếu giả dụ rằng việc lật đổ ông Diệm là chính đáng (đã là một vấn đề nhiều ý kiến tranh chấp), thì ông đã làm gì cho VN sau đảo chánh? Là một lãnh tụ nhóm đảo chánh, ông đã có trách nhiệm cho việc gầy dựng miền Nam, tạo lại ổn định; nhưng ông đã không làm được như thế và gây ra mọi rối loạn, hiềm khích trong giới lãnh đạo miền Nam. Đây đã là một tội lớn! Không biết mình làm gì mà cứ đạp đổ – một tướng dốt mà đòi làm chính trị!
Không những thế, dưới thời ông Thiệu, ông Minh không có chỗ đứng trong chính quyền nhưng thay vì làm một công dân tốt, ông đứng vào hàng ngũ nhóm “thứ ba”, hậu thuẫn cho MTGPMN, nghe lời dụ mật ngọt của nhóm CS trá hình này và gây mọi bất ổn cho VNCH 2. Ông (nhóm thứ ba) cứ nghĩ là vì miền Bắc cũng yêu dân tộc, không có Mỹ là hai miền VN sẽ có hòa bình tốt đẹp! Ông đã gián tiếp giúp CSBV thôn tính miền Nam. Đây là một tội lớn nữa!
Việc ông đứng ra đầu hàng CS tháng 4/75 thì có gì đâu mà là gọi là công? Giá như ông điều đình được với CSBV một điều kiện cho việc đầu hàng là quân nhân VNCH sẽ không phải bị tù đày hay bị trả thù thì còn có công; chứ mọi việc đã xếp đặt, Mỹ và các lãnh tụ VNCH đã biết là nhóm MTGPMN và nhóm thứ ba sẽ đứng ra chụp cơ hội để sớm kết thúc chiến tranh (kể cả CSBV – khi họ đóng kịch đòi lá bài DVM mới bằng lòng “thương thuyết” với miền Nam trong những ngày đó). Bất cứ người VNCH nào đứng vào vị trí đó mà hiểu tình trạng quân sự cũng phải bắt buộc dứt chiến tranh vì không thể cứu vãn được mà chỉ gây thêm chết tróc, nhiều nhất sẽ là cho dân chúng – vì bọn CS đã có bao giờ không dừng tay giết dân lành để khủng bố tinh thần người miền Nam VN?
Ông Trọng Đạt lấy những sách vở của Mỹ để khảo cứu về ông Dương văn Minh là một điều sơ xuất to lớn nhất của người viết sử.
Ông Trọng Đạt đã dùng tình cảm và tuyên bố:
trích:
Sự thực ông ấy (Dương văn Minh) không có tội mà cũng chẳng có công, dù ông có hay không ra làm Tổng thống ‘hơn một ngày rưỡi’ thì tình hình miền nam VN và Sài Gòn cũng vẫn y nguyên như thế. Hẳn mọi người đều biết, vào thời điểm ấy miền nam VN hầu như vô chính phủ, các vị Tổng thống, Thủ tướng, các vị Bốn sao , Ba sao, các ông lớn…đều đã “tẩu vi thượng sách”, Việt Cộng đang tiến quân vào.
hết trích
Theo lịch sử VN Tổng Đốc Hoàng Diệu đã tuẫn tiết khi thua trận; đó là khí khái của một vị tướng, của một người lãnh đạo, một người chỉ huy. Nhiều vị tướng tá trong quân lực VNCH cũng đã noi gương Tổng Đốc Hoàng Diêu. Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc… con người của Dương Văn Minh có những khí khái đó không? có xứng đáng là một chỉ huy không? Tác giả đã không bàn đến vấn đề này trong bài viết mà chỉ đưa ra một lập luận vô thưởng, vô phạt: Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công…
Nghe đàn em xúi dục ra lãnh chức Tổng Thống có nghĩa rằng:
1) Giấc mơ lãnh đạo, mộng làm bá chủ
2) Ba phải, không tự quyết định phải nghe lời khuyên nhủ của thủ hạ chứng minh rằng một người quá nông nỗi, vô tài, vô ý thức, nghe lời xúi dại để làm chuyện đại sự.
Cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ.
Tội của Tướng Dương Văn Minh:
1) Biển thủ một thùng phuy đựng vàng của Bảy Viễn. (tham nhũng)
2) Chứa chấp gián điệp Việt Cộng.
3) Ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đâm và bắn giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu (1963).
4) Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn (Ký sắc lệnh cho giết ông Ngô Đình Cẩn).
5) Thành phần thứ ba chủ trương hoà hợp, hoà giải.
Công của Tướng Dương Văn Minh:
1) Không có công lao gì với đất nước.
2) Không yêu nước VN, dân VN. Không bênh vực quân đội VNCH khi họ bị VC tra tấn, tù đầy, vô trách nhiệm với quân, dân, cán, chính.
3) Tuyên bố hãnh diện được làm một người dân của chế độ mới và rất biết ơn nhà nước Việt Cộng.
4) Cúi đầu nô lệ làm tay sai cho ngoại bang, không có bản lãnh của người lãnh đạo quốc gia.
5) Ươn hèn nghe lời xúi dại của đám đệ tử bất tài cán ra lãnh chức Tổng Thống trong giây phút tuyệt vọng.
Kết luận: ông Trọng Đạt đã bênh vực lầm người, một người không đáng được nhắc lại trong lịch sử VN, vào dịp Quốc hận 30-4 hàng năm.
Ông Dương Văn Minh tự cho mình là “Thành Phần Thứ Ba”. Thành phần thứ ba có nghĩa là không thuộc về những người chủ trương dùng vũ lực chống lại Cộng Sản và cũng không đứng trong hàng ngũ Cộng Sản. Khi không chủ trương dùng vũ lực chống lại Cộng Sản là tin rằng có thể nói chuyện và hợp tác với người Cộng Sản. Chủ trương này đưa đến ý nghĩ là vì Mỹ chống CS và có những người dựa vào Mỹ để chống cộng nên mới sinh ra chiến tranh. Từ đó đi đến thái độ muốn đuổi Mỹ đi, không nhận viện trợ của Mỹ nữa, sau đó Thành Phần Thứ Ba và phe Mặt Trận Giải Phóng sẽ bắt tay nói chuyện với Cộng Sản để thống nhất Việt Nam. Chủ trương này đúng sai ra sao? Người Cộng Sản không chấp nhận cho ai cộng tác ngang hàng với mình mà chủ trương dùng vũ lực tiêu diệt tất cả các phe khác. Người Cộng Sản không chấp nhận những kẻ chống cộng lẫn những kẻ đứng giữa, không chấp nhận bất cứ thành phần nào, chỉ có một thành phần duy nhất là đảng Cộng Sản mà thôi. Làm thế nào mà Thành Phần Thứ Ba có thể hợp tác được với những kẻ không chấp nhận hợp tác với bất cứ thành phần nào khác? Nghĩ rằng có thể đứng giữa rồi nói chuyện và hợp tác với Cộng Sản là thiếu hiểu biết rằng đảng Cộng Sản sẽ dùng vũ lực bành trướng mãi cho đến khi toàn thắng trên thế giới. Sách lược để bành trướng là đánh lừa những thành phần lưng chừng là hãy hợp tác với Cộng Sản để tiêu diệt phe chống cộng rồi sau đó Cộng Sản tiêu diệt nốt thành phần lưng chừng. Những gì xảy ra tại Việt Nam cho thấy đảng Cộng Sản theo đúng sách lược đó. Ông Dương Văn Minh và một số người theo Mặt Trận Giải Phóng có chủ trương như thế vì chính một nhóm nhỏ lãnh đạo đảng Cộng Sản tung ra những luận điệu và chiêu bài như thế. Có những đảng viên họ tiếp xúc với các thành phần lưng chừng và họ giả làm ra thành phần lưng chừng để đánh lừa những người này. Nhiều người tại miền Nam nhìn thấy điều này và nhiều người cũng không nhìn thấy. Ma bắt tùy mặt. Kẻ buôn hàng giả đánh lừa khách hàng, gặp khách hàng khôn thì họ tránh nhưng thể nào cũng lừa được khách hàng khờ dại. Ông Dương Văn Minh không chủ trương dùng vũ lực chống lại Cộng Sản thì việc bàn là ông ta nên đầu hàng hay nên tiếp tục chiến đấu là hơi thừa vì ông ta có định chống lại đâu. Điều đáng bàn hơn là là ông ta thực hiện việc hòa hợp hòa giải với Cộng Sản nhưng mọi việc diễn biến không như ông ta tưởng. Ông ta tưởng là sau khi ông Thiệu từ chức thì có thể lập chính phủ liên hiệp nhiều thành phần như trong Hiệp Định Ba Lê nhưng rồi ý định đó không thực hiện được. Ông ta nhờ Thích Trí Quang liên lạc với phía Cộng Sản để lập chính phủ liên hiệp nhưng Thích Trí Quang từ chối. Biết đâuThích Trí Quang có thể là kẻ đưa vào đầu ông ta ý tưởng là có thể nói chuyện và hợp tác với Cộng Sản không chừng. Đến phút chót khi phe chống cộng đã bị tiêu diệt thì Thích Trí Quang cần gì phải lập chính phủ liên hiệp vì đó là lúc tiêu diệt luôn thành phần lưng chừng. Có người lên án ông Dương Văn Minh sao không tự sát khiên ông phải phân trần. Những người chủ trương dùng vũ lực chống cộng mới tự sát vì trong cuộc tranh hùng người ta mang tâm lý thà chết còn hơn chịu nhục. Còn ông Dương Văn Minh có muốn dùng vũ lực chống lại Cộng Sản đâu mà tự sát. Những người bị Cộng Sản lừa như ông Trương Như Tảng thì lại muốn sống để viết hồi ký kể lại mình đã bị lừa ra sao. Còn ông Dương Văn Minh thì không thấy viết gì. Không biết là cho đến khi qua đời ông ta có nhìn thấy cái ngớ ngẩn của Thành Phần Thứ Ba hay không để mà viết hồi ký ân hận.
Ông Minh có hai tội là vưà ngu vừa hèn, ngu mà còn thích làm chính trị đi theo ông thượng tọa Thích trí quang và câu nói cuối cùng cuả ông Minh với tt Trí Quang rằng: ” thầy đã giết tôi rồi” ,một người từng cầm quân đi đánh giặc mà lại đi nghe thượng toạ bày kế chính trị.
Ông Minh vưà hèn vì ông gọi tên sĩ quan cs Bắc việt là thưa trung tướng chúng tôi ngồi đây chờ trung tướng đến để bàn giao chính quyền, tên sĩ quan đã chửi ông Minh rằng mầy không có gì để bàn giao cả…thật là nhục nhả.
Bọn vc đến để quay phim, ông Nguyển văn Hảo bực tức qúa phải la lên rằng phải cho chúng tôi rửa mặt vì bị nhốt mấy ngày rồi, ông Minh thì ngồi im không dám lên tiếng, ương hèn như thế mà lên đến chức đại tướng không mất nước mới là chuyện lạ.
Sự bất hạnh của dân tộc Việt Nam ở chổ là bọn lãnh đạo ngu hèn (quốc gia và cs) chỉ muốn ngồi trên đầu trên cổ dân Việt Nam.
Ông Minh còn dánh tiếng ,run giọng hỏi tên thiếu tá Vc (Thận?Kẻ đem xe ủi cổng độc lập-mà không cần phải ủi- );’các anh có biết em tui.đaịtá Dương văn Nhật có vào với các anh không ?(nhận bà con trước vì sợ tui VC nổ súng “thủ tiêu”?)
Cụ Trần văn Hương ,thầy của DVM,trước khi trao quyền cho DVM đả nói “thăng đó là học trò tui,tui biết mà.Nó mà làm gì được’
Vụ bị TQ lừa,thì sau câu nói “thầy giết con rồi !” bỏ may và buông tiếng chưởi ‘đđdmmm…thầy !’
Vẩn biết tình hinh luc đó không mấy sáng sủa,nhưng DVM có thể “đầu hàng ” một cách khác “anh hùng ‘hơn.
Nếu co thể hì nên vào tù ,tự nguyện vào tù,tình nguyện vào tù.với các chiến hửu huynh đệ chi binh của mình .Giử im lặng không hợp tác với Cộng . …
(30/4 ngày quốc hận:)
NẾU ĐẦU HÀNG TRỂ THÌ CÓ THỂ LÚC ĐÓ TRUNG QUỐC NÓ SẼ CHIẾM HẾT HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA RỒI. TRAI CÒ TRANH NHAU NGƯ ÔNG ĐẮC LỢI.
PHẢI NHỚ RẰNG LÚC ĐÓ KẺ THÙ CHÍNH CỦA VN LÀ TRUNG QUỐC NGOÀI BIỂN ĐÔNG.
HAI BÊN
Hai bên Việt Nam đánh nhau, tới sát nút thì Trung Quốc liền nhảy vào đánh chiếm lấy quần đảo Hoàng Sa của VN. Vậy mà lúc đó hai bên VN vẫn cứ lo đánh nhau trước nhất, không bên nào màng đến việc giải quyết cùng lúc chính vụ Hoàng Sa đang bị giặc ngoài chiếm cả. Chắc ý hẳn còn chờ đợi thanh toán nội bộ xong, rồi sẽ tính tiếp. Do một bên sắp thua, nên đành thất vọng, bỏ mặt, chỉ mong cứu lấy thân đã đành. Còn bên sắp thắng, chắc nghĩ rằng đều cùng “phe ta” cả, thế nào khi TQ đã “chiếm giùm” rồi, thì trước sau gì cũng sẽ trả lại cho đàn em. Quả là chuyện dại khờ. Bây giờ thì một bên đã ngủm củ tỏi rồi, chỉ một bên là hãy còn sống. Nhưng cả hai bên giờ đây mới thật thấy rõ hết cái sai lầm hay cái ngu xuẩn nhất của mình vào lúc đó. Sự nặng tội của cả hai bên đối với tiền nhân, tổ quốc, dân tộc VN quả chính là như thế.
NON NGÀN
(01/5/12)
Đừng nhận xét hay đánh giá một chủ đề bằng cảm tính, nhất là một chủ đề liên quan đến lịch sử.
Ông tác giả Trọng Đạt viết tựa đề “Đại Tướng Dương Văn Minh, Công Và Tội”. Cứ tưởng đâu tác giả sẽ kể công và tội của Dương Văn Minh (DVM) oai hùng hay nghê gớm ra sao nhưng chỉ vài hàng dưới tác giả kết luận “…Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công…”
Viết thế chỉ là viết chơi chơi theo cảm tính chứ không có nghiên cứu. Nếu muốn đánh giá DVM thì phải viết rõ cuộc đời và hành động trên cương vị là một ông tướng đã tác động ra sao đối với chính ông ta và đất nước trong hai nền cộng hòa. Chẳng hạn như đệ nhất cộng hòa ông đã làm gì, có công hay có tội?
Và đệ nhị cộng hòa cũng vậy, công ở đâu và tội ở chỗ nào?
Không nên chỉ nhận xét rằng chỉ vì làm tổng thống có một ngày rưỡi mà nói rằng ông ta không có công cũng chẳng có tội.
kbc3505
“Ông tác giả Trọng Đạt viết tựa đề “Đại Tướng Dương Văn Minh, Công Và Tội”. Cứ tưởng đâu tác giả sẽ kể công và tội của Dương Văn Minh (DVM) oai hùng hay nghê gớm ra sao nhưng chỉ vài hàng dưới tác giả kết luận “…Sự thực ông ấy không có tội mà cũng chẳng có công…”
Tôi cũng bị chưng hững như ông kbc3505. Ông Trọng Đạt viết một tựa đề rất to, về một nhân vật lịch sử đã có rất nhiều tai tiếng từ suốt giai đoạn đệ nhất cộng hòa cho đến ngày mất Miền Nam, thế nhưng ông Trọng Đạt hề đưa ra những sự kiện rất đáng nói về Dương Văn Minh mà chỉ nói về Dương Văn Minh trong một ngày rưỡi rồi kết luận một cách huề vốn
Tôi có đọc một vài bài bình luận lịch sử của ông Trọng Đạt, và tôi cũng có cảm giác như ông kbc vậy. Ông ta chỉ dùng tình cảm cá nhân để bình luận là chính, do đó, bài viết của ông ta một chiều, không có gì sâu sắc cũng chẳng khách quan, đôi lúc còn mang tính thóa mạ những cá nhân nào ông ta không đồng ý, nhưng lại không chứng minh được người mà ông ta thóa mạ là sai.
Một ngàn năm sau lịch sử có lẻ ghi chép gọn hơn về bại tướng Dương Văn Minh (DVM) :
Tướng Minh cầm đầu một cuộc đảo chính truất phế vị tổng thống đầu tiên của miền Nam Việt đầu tháng 11 năm 1963 và vị tổng thống của nền đệ nhất cộng hòa Ngô Đình Diệm cùng em trai Đình Nhu đã bị giết và mười hai năm sau cũng chính tướng DVM đã ra lệnh các binh sĩ miền Nam nước Việt buông súng đầu hàng.
Sử gia thời tương lai không nhìn “công hay tội” như thời đại của chúng ta hôm nay, có người chỉ viết lời phê để hậu thế noi gương đặt câu hỏi :
-” Kẻ giết chủ tướng (1) và đem giang sơn đầu hàng giặc là ai trong lịch sử nước Việt?”
-” Thưa Thầy người đó là Dương văn Minh”.
(1) Tổng thống là vị tư lệnh tối cao của quân đội,
Lời bàn của hậu nhân:
- Cổ nhân có nói ” Thà chết vinh hơn sống nhục” . Chết trong lao tù nhục nhả hay cầm súng bắn giết địch quân cho đến viên đạn cuối cùng rồi tự xử có lẻ là cách chết trí dũng. ( nhiều sĩ quan và binh lính miền Nam tự xử sau khi nghe lệnh buông súng của tướng DVM.)
-Thanh niên miền Nam không đồng lòng có người theo phe địch ( MTGPMN) dân tình chia rẻ thì chuyện bại vong có thể thấy được.
-Quyền bính cai trị dân là con đường gian trá mà những kẻ cầm quyền đảng cộng sản cai trị toàn cỏi Việt Nam sau khi chiến thắng hưởng lộc trên xương máu của đồng bào họ.
-Tội nghiệp cho TT Diệm thảm tử và dân miền Nam bại trận bị đọa đầy và tử vong vài trăm nghìn người khi chạy trốn giặc cộng xâm lăng .
Cám ơn tác giả viết bài để có lời bàn chia xẻ quan điểm v.v. .
Nguyển Hào
Tôi thấy Ô D.V.Minh là con người nhu nhược, bất tài nhưng lại đầy tham vọng. Sau 1/11/1963, cờ đến tay mà không biết phất, những năm sau còn ” ti toe “hoạt động trong phong trào chính trị mệnh danh là ” thành phần thứ ba “, thực chất chỉ làm lợi cho đối phương. Đồng ý đầu hàng là
tiết tiệm xương máu, nhưng phải làm sao cho bên phía bại trận đỡ thống khổ và nhục nhã. Năm 1976, Ông ta hân hoan đi bầu cử , trong khi có biết bao các chiến hữu cùng bạn bè của ông ta
đang rên xiết trong các trại lao tù C.S.