Con đường Liên-Âu: thâu cả châu về một mối [2]
Tản Mạn Ký Sự Hè 2013
Bây giờ, chúng tôi lấy xe lửa TGV chạy lên thành phố Stuttgart để xem có gì lạ!
1. Thành Phố STUTTGART
Anh Dương Hồng Ân, con của nhạc sĩ tài danh Dương Thiệu Tước (1915-1995) ra rước chúng tôi tại nhà ga Stuttgart. Anh Hồng Ân lớn hơn tôi năm tuổi nhưng có vẻ khoẻ hơn tôi gấp hai lần. Anh là một trong ba sinh viên miền Nam đi bằng tàu biển từ SàiGòn sang Marseille (Pháp) hơn tháng trời để tới Đức du học (1962), nên bè bạn đùa gọi anh là “thuyền nhân” đầu tiên đến Đức. Được anh Hồng Ân là dân thổ địa chiếu cố và hướng dẫn đãi ngộ thì sướng gì bằng!
Stuttgart là một thành phố nhỏ với nhiều đồi núi xanh tươi thuộc bang Baden-Württemberg, có 620 ngàn dân, lớn hàng thứ sáu trong nước Đức và chứa khoảng 5 ngàn dân Đức-Việt. Stuttgart được dân Âu châu ngợi khen là cái nôi của kỹ nghệ xe hơi, vì có các hãng chế tạo xe như Mercedes-Benz (kiểu chắc bền), Porsche (kiểu thể thao) và Maybach (kiểu sang trọng). Vì chúng tôi ở đây chỉ có hai ngày, nên anh Hồng Ân hướng dẫn đến thăm hãng xe Mercedes trước nhất. Đối thủ với hiệu xe BMW nổi tiếng của München là hiệu xe Mercedes lừng danh của Stuttgart.
2.1 Viếng Thăm Viện Bảo Tàng của Hãng Xe Mercedes-Benz
Miễn phí khi vô cửa xem BếEmVề (BMW), còn xem MẹtXêĐì (Mercedes) thì phải tốn 4 EUR một mạng. Thành phố Stuttgart bị ảnh hưởng bởi chính sách của Đảng Xanh (Grünen Party) khá nhiều nên mặc dầu là thành phố có kỹ nghệ nặng nhưng vẫn giữ môi trường tươi tốt, có nhiều cây xanh, tránh cảnh ô nhiễm. Đứng trên lầu cao trong toà nhà bảo tàng trông ra ngoài thật mát mắt. Viện bảo tàng Mercedes-Benz không những là nơi trưng bày các kiểu xe qua nhiều thời kỳ, mà còn là nơi ôn lại lịch sử với bao thăng trầm của xã hội.
Một bức ảnh thật to chụp lại hình phái đoàn lực sĩ của Đức giơ tay chào theo kiểu Hitler tại thế vận hội Berlin vào năm 1936. Kế bên là những mẫu quốc kỳ Đức với các poster quảng cáo xe Mercedes trong thời kỳ thế chiến thứ hai (1941-1945). Sự thăng trầm của hãng xe đã bị biến thiên theo nhịp điệu thịnh suy trong thời kỳ của đảng Đức-quốc-xã (Nazi, 1918-1945) cầm quyền. Tôi rất thích bảo tàng viện xe hơi này vì học được bài vạn-đại-chi-dân (người dân vẫn tồn tại qua bao thời đại) của xã hội Đức. Hãng xe Mercedes vẫn sống hùng sống mạnh nhờ ở nội lực của tư nhân hơn là đỉnh cao trí tuệ của đám lãnh đạo Nazi với lãnh tụ tối cao Adolf Hitler.
Không tựa vào sức dân và không dựa vào lực lượng sản xuất của tư-doanh thì làm thể nào mà nhà nước thăng hoa cho được? Nếu hãng Mercedes là do đảng Nazi chỉ huy quản lý (hay còn gọi là quốc-xã, bây giờ cộng sản cải biến thành ra đảng-doanh) thì làm sao hãng còn tồn tại cho đến nay? Tuy con mắt tôi luôn láo liên vào vẻ kiêu sa của các mốt xe Mercedes qua nhiều thập kỷ, nhưng đầu óc lại miên man suy nghĩ về nghệ thuật quản trị và quảng cáo của giới chủ hãng.
Sự sáng tạo liên tục ra các loại xe và kiểu xe Mercedes qua nhiều thời đoạn là hậu/hiệu quả và hiệu năng của phương pháp suy tư thống hợp (system thinking) của giới quản trị công-ty.
Bạn hãy nhìn kỹ các chủ đề suy nghĩ mang tính triết học và định hướng của giới quản trị Đức, đặc thù của hãng Mercedes-Benz qua các bảng giới thiệu và giải thích về việc sản xuất xe hơi. Họ đi xa hơn là chỉ-biết-tìm-kiếm-lợi-nhuận (profit). Lấy Mercedes-Benz làm bài học điển hình (case study), tôi chú ý được ba hệ-điểm (hệ thống, systems) liên quan đến tổ chức kinh thương trong nền kinh tế tư-bản của Đức: 1. bản thân của công-ty (target system), 2. liên hệ nội bộ của công-ty (sub system), và 3. bối cảnh tổng thể của công-ty (containing system). Ba hệ thống này tạo thành một khối sinh hoạt kinh thương toàn diện, bất khả phân ly. Chúng ta cần biết để thấy được khả năng vững bền (sustainability) qua hơn 125 năm của công-ty Mercedes-Benz.
Đầu tiên, hệ-điểm thứ nhất (target system): Bất cứ bản thân của công-ty nào ra đời là cũng muốn kiếm được lợi-nhuận, vì lợi-nhuận là nhu cầu (need) cơ bản của con người như ăn mặc, nhà cửa, xe cộ, vân vân. Ai sản xuất ra mấy thứ này cho mình tiêu dùng? Phải có sự hiện hữu của giới sản xuất thì sự tiêu thụ mới tồn tại. Giới sản xuất (producers) không thể tạo ra được tiền lời (lợi-nhuận) nếu không đáp ứng nổi nhu cầu lợi-mãn (benefit) như ăn mặc, nhà cửa, xe cộ, vân vân cho giới tiêu thụ (consumers). Lợi-nhuận và lợi-mãn là hai yếu tính hỗ tương cho sự lợi-ích riêng biệt (self-interest) của hai giới sản xuất và tiêu thụ một cách tương ứng. Cho nên phải cần có viễn kiến để định hướng trong việc sản xuất, và tổ chức mang tính hệ thống để thực hiện tiến trình lâu dài và vững bền cho việc tiêu thụ.
Kế đến, hệ-điểm thứ nhì (sub system): Sự liên hệ trong nội bộ của công-ty phải được quân bình Chỉ lợi cho chủ mà không tốt cho thợ thì Mercedes sẽ không phát triển được bền vững, đó là thuộc loại công-ty ăn xổi. Từ năm 2001, Mercedes đẩy thêm chủ trương diversity (tôi tạm dịch là đa-dạng, đa-nguyên) trong tiến trình sản xuất đối với giới công nhân qua hợp đồng giao ước của các nghiệp đoàn lao động độc lập (tránh công đoàn giả hiệu do nhà nước giật dây) để mọi người đồng lao cộng tác cho ra những sản phẩm tuyệt vời.
Sau cùng, hệ-điểm thứ ba (containing system): Sự thành công của Mercedes được nằm trong bối cảnh tổng thể của nền kinh tế Đức và sự thống nhất của Liên hiệp châu Âu (hình trái, hàng cuối, Hình 16). Không có tổ chức Liên-Âu thì chợ Mỹ và chợ Tàu tha hồ thao túng. Có Liên-Âu thì mới có chợ Tây làm nền gốc cho thị trường châu Âu hầu tranh thương với các chợ trời khác.
Xin cám ơn sự theo dõi của độc-giả về ba hệ thống tổ chức của một công-ty theo cách suy tư thống hợp về vấn đề kinh thương. Bài bản còn dài lắm! nhưng tôi chỉ đi sơ sơ vài nét đan thanh để giới thiệu cùng các bạn cho vui. Hết màn kinh tế (kinh) rồi, chúng ta xem qua màn văn hóa (văn) và chính trị (chính) một chút thì mới hưởng được trọn vẹn vở tuồng Mercedes-Benz!
Liên-Âu là sự đồng thuận kết hợp giữa những quốc gia có cùng gốc văn hoá Hy(lạp) – La(mã), và nhất là thông qua con đường bất-bạo-động, không cần đến chiến tranh để giải quyết mục tiêu thống hợp. Đức là quốc gia phát triển sau cùng và cao độ về mọi mặt như triết học, nghệ thuật, âm nhạc, khoa học, kỹ thuật và phát minh của châu Âu; nhưng cũng là quốc gia yếu nhất về tài nguyên vì không có hệ thống thuộc địa để cung ứng nhân lực và vật lực cho mẫu quốc như các đế quốc Hy-lạp, La-mã (tiền thân của Ý), Anh, Pháp, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha đã xử dụng. Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai đều do lãnh đạo nước Đức khởi xướng với ước muốn tái phân chia hệ thống đế quốc của Tây phương đã đề ra. Hãy lướt sơ qua hai nền văn hoá Hy-lạp và La-mã đã ảnh hưởng châu Âu nói chung và xứ Đức nói riêng như dưới đây.
2.2 Tiến trình phát triển Tây-Âu khởi đầu bằng hai nền văn hóa Hy-lạp và La-mã
http://en.wikipedia.org/wiki/File:Greek_Colonization.png
Con người (giống homo sapiens sapiens, người-hiện-đại) theo khảo cổ học đã hiện hữu tại vùng Tây-Âu ba, bốn chục ngàn năm về trước. Nhưng giống người này còn mông muội lắm, chưa có văn minh. Tuy mặt là người, nhưng dạ còn đầy thú tính, chuyên hái lượm và săn giết thú vật để lấy thức ăn. Chung quanh Mediterranean Sea (Địa-Trung-Hải), khoảng ba, bốn ngàn năm trước công-nguyên (TCN), nhiều bộ tộc dân Hy-lạp (Greek hay Hellas) đã quy tụ chung quanh vùng biển Aegean (một phần của Địa-Trung-Hải) và tạo ra nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên toàn cõi châu Âu. Từ đấy, họ biết trồng trọt và chăn nuôi súc vật để sinh sống.
Vì thiếu đất đai, nên sau đó dân Hy-lạp đã tràn lan ra khắp vùng ven biển, tấn chiếm thổ dân, lấy đất tốt làm thuộc điạ (các vùng đất màu đỏ, Hình 18) vào thế kỷ thứ 8 TCN. Thí dụ: hải cảng Massilia (Μασσαλία), sau này trở thành thành phố Marseille của thổ dân Gaul (Gaulois), tiền thân của dân tộc Pháp (France) năm 600. Hãy tìm đọc Con Đường Liên-Âu: Thâu cả Châu về một mối – Hồi Một: Thăm nước Pháp cũng do tôi ký sự.
Đế quốc Hy-lạp dữ dằn nhất là vào thời Đại-Đế Alexander (Alexander the Great, -356 đến -323). Tay này tuổi trẻ tài cao, mới 28 tuổi mà đã cầm quân đánh chiếm toàn vùng Persia (Ba-tư), lan sang Egypt (Ai-cập) và Ấn-Độ. Đánh tới đâu, lấy vợ tới đó, lại khoái đồng-tính-luyến-ái với mấy tướng trẻ, nên sau này Đế bị bịnh Sida quật ngã (tiếng Anh là bịnh Aids) theo lời thiên hạ đồn!
Có lên thì phải có xuống! Đế quốc Hy-lạp tàn tạ chuyển qua đế quốc La-mã (Roman Empire). La-mã bắt đầu đế quốc kể từ thời Caesar Augustus (-63 đến 14). Các đạo quân legion của Roman gồm từ ba đến sáu ngàn quân bộ với kỵ binh đi chinh phục cùng khắp Bắc-Phi, Trung-Đông, Gaul (Pháp), Hispania (Spain), Britannia (Anh), Germania (Đức), (toàn vùng màu nâu).
http://en.wikipedia.org/wiki/File:Roman_Empire_Trajan_117AD.png
Có lên rồi lại có xuống! đế-quốc La-mã tàn tạ để chuyển sang các đế quốc quân chủ khác, như Matilda (1102-1167) của Anh với khẩu hiệu ‘mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh’ (the sun never sets on the British Empire), đã chiếm hữu biết bao thuộc địa trên các châu Phi, Mỹ và Á. Đế quốc Pháp cũng bá quyền không kém, với hoàng đế Napoléon Bonaparte (1769-1821) muốn bá chủ toàn vùng Âu châu. Cùng lượt với Pháp là các đế quốc Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, Hà-lan đều ra tay xâm chiếm thiên hạ. Tất cả đều dùng bạo lực: đánh trước thì được làm cha! Chỉ có Đức quốc là lẹt đẹt theo sau:
Ðức là một xứ nhỏ vào thời trung cổ và thường hay bị mấy xứ khác hiếp đáp và khinh thường.
Dân Ðức bị xem như một bộ tộc dã man, thiếu văn hóa, và kém văn minh. Các triều đại quân chủ
Ðức quốc lúc nào cũng mong muốn được ngôi vị ‘hoàng đế’ (Emperor) vĩ đại, chứ không tầm thường
với chức tước ‘Vua’ (King) đã có. Cho đến thế kỷ 20, tự hào dân tộc Ðức trổi dậy với đủ các bộ môn
tư tưởng cùng phương tiện hùng mạnh về triết học, khoa học, võ trang và quân đội.
Và dưới sự lãnh đạo của ‘kaiser’ Wilhelm II và lãnh tụ quốc-xã Adolf Hitler, Ðức đã lao đầu vào
hai cuộc thế chiến. Thế chiến I (1914-1918) và thế-chiến II (1941-1945) bắt đầu từ châu Âu
và lan tràn cùng khắp thế giới.
Sau khi bại trận, Ðức quốc bị cộng-sản và tư-bản chia đôi thành Ðông-Ðức (Cộng-hòa Dân chủ Ðức,
theo Nga-xô) và Tây-Ðức (Cộng-hoà Liên bang Ðức, theo Mỹ và Tây Âu). Năm 1990, Ðông và
Tây Ðức thống nhất, tạo thành quốc gia tiền tiến có đông dân nhất trong Liên-hiệp Châu Âu,
đồng thời đóng góp nhiều vào phúc lợi chung cho cả cộng đồng Âu-châu và thế giới.
(Trích theo sách Việt-Học Là Gì? trang 134-135 của Trương Như Thường, 2010).
Tới đây, tôi xin sang số, từ lịch sử sang ngôn ngữ để góp ý về việc ký âm mấy tên xứ nước ngoài. Thiệt tình là tôi không có cảm tình với mấy danh từ Hán-Việt dùng để ký âm tên của các quốc gia khác. Thí dụ: Anh-cát-lợi, Ý-đại-lợi, Pháp-lang-xa, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, Nhật-nhĩ-man. Nghe thật kỳ cục và dễ lạc quẻ hết sức! Âm Tàu đọc chữ Tây rất khó, nên phải dùng đến chữ Tàu (hay chữ Hán) để ký âm. Thiên hạ bàn việc này cũng đã nát nước rồi nhưng tôi cũng xin phép trình bày ý kiến xây dựng của mình qua ba thí dụ dưới đây.
Thí dụ thứ nhất: xứ England, âm Việt đọc là Ín-gờ-lần (viết theo chữ abc); còn âm Tàu, không biết đọc như thế nào vì tùy thuộc theo dùng âm Quan-thoại, hay Quảng-đông, hay Phúc-kiến, nhưng viết ký âm theo chữ Hán là 英 吉 利; mấy ông học trò Việt rành chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt là Anh-cát-lợi, vừa dài vừa dai lại vừa dại (nếu làm tàng giảng thêm ý nghĩa)! Theo tôi: viết tên một xứ, nên dùng chữ gốc của xứ đó, cùng lắm là dùng tiếng English (tiếng Anh); nếu muốn giúp cho độc-giả Việt biết cách đọc thì thêm chữ abc cho dễ đọc hơn.
Thí dụ thứ hai: xứ España (hay Spain), âm Việt đọc là Ét-xơ-pá-nhà (hay Xít-pen). Tàu ký âm thành 西 班 牙, âm Hán-Việt đọc là Tây-ban-nha (học trò tiểu học thích đọc trại thành “Tây-bán-nhà”). Theo thiển ý của tôi, trong bài viết ta nên viết như thế này: quốc gia España (Ét-xơ-pá-nha), hoặc nước Spain (Xí-pen). Tôi thích xài chữ Spain (theo tiếng Anh) hơn, vì dễ viết và dễ đọc. Cười ra nước mắt là bên ViệtNam có nơi in bản đồ xứ Mỹ với các địa danh như Xắc-cờ-ra-măng-tô, Phờ-lô-rí-đà, Ốt-tin, Mát-cha-xu-xét-tờ… mà không có một chữ gốc đi kèm.
Thí dụ thứ ba: xứ Germany âm Việt đọc là Gi-ớt-ma-ni. Tàu ký âm viết theo chữ Hán 日你 曼, Việt đọc thành Nhật-nhĩ-man, để cho có ai đó gọi lầm xứ Germany là xứ Nhật. Tóm lại, tuyệt đối không nên đọc tên ngoại quốc bằng chữ Hán ký âm mà nên sử dụng chữ abc của ta. Tuy chữ abc chưa chính xác lắm bằng loại ký âm quốc tế, nhưng chắc chắn là hay hơn ký âm của chữ Tàu rất nhiều.
Bây giờ tôi sang số ngược, từ ngôn ngữ trở lại lịch sử. Lịch sử phát triển Tây-Âu bắt đầu từ đế quốc Hy-lạp, rồi sang đế quốc La-mã bành trướng cùng khắp ngã tư quốc tế vào trước công nguyên. Và sau công nguyên, lần lượt tới mấy tay đế quốc khác như Anh, Pháp, Ý, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, Hà-lan dưới các vương triều quân chủ ra sức thực dân bá quyền. Đế quốc bành trướng là phải dùng bạo lực để tiêu diệt các dân tộc bản địa nổi dậy chống đối. Không hợp! Bài học qua hai ngàn năm của Tây-Âu là bạo lực bá quyền không thích đáng cho nhân đạo, nên không bền vững. Đức bên châu Âu và Nhật bên châu Á cũng đã ê chề thấm thía với ảo vọng làm trùm thế giới trong thế kỷ 20.
Bên trời Đông-Âu, Nga đã thử nghiệm bạo lực bá quyền theo chủ nghĩa cộng sản qua gần một trăm năm phù du cũng chẳng dẫn thiên hạ đi tới đâu, ngoại trừ sự trầm luân trong bể khổ.
Liên-Âu trổi dậy như một hy vọng mới cho thế kỷ 21. Hy vọng mới là do sự đồng thuận, hoà-hợp-hoà-giải những khác biệt trong quá khứ của Anh-Đức-Pháp-Ý …, chậm mà chắc cho tương lai của dân Tây-phương. Dân Đông-phương nghĩ gì và học được gì từ lịch sử Tây-phương? Giới lãnh đạo Trung-cộng và đặc biệt với Việt-cộng (đang theo đuổi mô hình phát triển của Trung-cộng) đã thu lượm bài học nào về cái nghiệp của lịch sử Âu-Tây? Sự ép buộc các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng để đứng chung dưới hình thức thống nhất một cách biểu kiến cho sức mạnh Trung-quốc còn có thể kéo dài trong bao lâu nữa?
Dưới những khó khăn và đổ nát sau thế chiến, ý thức nhân bản mang tính bất-bạo-lực và phong thái sinh hoạt đồng thuận của Tây-Đức đã hoá giải được vấn nạn Đông-Đức. Chưa hết! sự thống nhất của Đức quốc đã củng cố địa vị trung cung cho Liên-Âu để chỉ đạo cho Chợ Tây đối đầu tranh thương cùng với Chợ Tàu và Chợ Mỹ.
Thăm viếng München và Stuttgart qua hai hãng BếEmVề (BMW) và Mercedes đã cho tôi nhận thức sức mạnh nội lực và tiềm tàng của người dân Đức. Họ mạnh và được lân bang nể nang không chỉ vì kỹ thuật chế tạo xe hơi tinh vi và đắc dụng, mà còn ở chính sách bảo vệ và đoàn kết với những dân tộc Âu châu còn yếu kém, mà trước đây nước Hy-lạp và La-mã đã khinh khi dân Đức như những bộ tộc man rợ (Germanic barbarian).
Nghĩ nhiều quá thành ra đói lắm rồi! Tôi năn nỉ anh Hồng Ân dẫn đi ăn cơm ViệtNam. Cả tuần dùng thức ăn Đức, tuy ngon, bổ nhưng rát ruột quá! Không cơm, không phở, tôi chịu không nổi!
2.3 Xuyên Qua Công Viên Đi Tìm Món Ăn Việt
Chúng tôi đi bộ xuyên qua một công viên dưới phố Stuttgart để đến một quán ăn ViệtNam. Rất tiếc vì đói bụng quá mà quên mất tên công viên này, nhưng tên của quán ăn là Wok’s Tây Hồ. Quán nhỏ xíu chỉ có chừng 10 ghế ngồi bên trong, nhưng gọn gàng và ngăn nắp với một dàn hình ảnh của khoảng 30 món ăn thuần túy rất bắt mắt.
Bên ngoài quán có kê thêm hai cái bàn nữa với dù che cho thực khách. Chúng tôi ngồi bên ngoài cho mát mẻ và cũng để ngắm thiên hạ đẹp đẽ qua lại. Lúc này là vừa đúng 1:30 trưa, nhà hàng nghỉ trưa, quán chỉ bán những món để mang đi (take home), chứ không có dịch vụ tại bàn. Quán chỉ có mỗi một anh đầu bếp, vừa bán vừa nấu vừa lấy tiền, thật là hiệu năng. Biết chúng tôi là đồng bào Việt, anh ta sẵn sàng nấu cho món phở và chúng tôi tự bưng ra bên ngoài bàn mà ăn. Một miếng khi đói bằng một gói khi no; một tô phở bò bằng cả kho cao lương mỹ vị!
Cơm và phở là hai món ruột của tôi. Trước và sau khi dùng bữa, tôi có thói quen từ khi còn bé là phải xá thức ăn ba cái một cách tự động và trịnh trọng (do ông tôi hồi còn sống đã luôn dạy bảo chúng tôi rằng: phải mang ơn con thú cho mình thịt nó và cảm ơn vị đầu bếp đã nấu nướng cho mình ăn, bất luận ngon hay dở, bất kể có trả tiền hay miễn phí). Tôi xuất cảng (tiếng hiện nay là xuất khẩu, bắt chước theo mẫu Trung-cộng) đặc tánh 3-xá-trước-khi-ăn từ SàiGòn sang Mỹ quốc và bất cứ nơi nào tôi thăm viếng. Trước khi thưởng thức món phở của Wok’s Tây Hồ, tôi nhờ khứu giác đi một đường dò thử mùi thơm trước, kế đến là màn sai vị giác nếm thử một muỗng nước phở nóng ấm ban đầu. Ấn tượng tô phở đầu tiên là ẩn số tùy thuộc (dependent variable) dựa vào thông số độc lập (independent variable) của ngũ giác. Quý vị thấy chưa! Tôi phải dùng đến toán-học để minh chứng cho giá trị của môn phở-học.
Hệ thống định giá về nghệ thuật ẩm thực của tôi cũng nương theo cách của Tây-phương: 5 sao là ngon nhất, 1 sao là ẹ nhất. Phở Cali (gọi tắt tên bang California của Mỹ quốc) là ngon nhất thế giới: 5 sao. Phở Stuttgart: 3 sao, phở Sydney: 4 sao, phở Bangkok: 2 sao rưỡi, phở Marseille: 3 sao, phở Berlin: 3 sao rưỡi, phở Paris: 4 sao, phở Kuala Lumpur: 2 sao, phở SàiGòn (trước 1975): 5 sao, phở anh Phạm Hoàng ở München nấu đãi chúng tôi ở nhà: 2 sao rưỡi, phở tôi-tự-nấu: 1 sao, và cuối cùng, phở HàNội (tôi ăn hồi 1997): không có sao!
Năm 1997, khi trở về thăm quê hương thứ nhất sau 30 năm xa vắng, tôi đi ăn ba tiệm phở khác nhau (lao động, bình dân, sang trọng) ở HàNội để đánh giá. Trên bàn ăn đều có một lọ ‘mì chính’ (tức bột ngọt, tức chất hoá học monosodium glutamate) để nêm thêm vào tô phở cho ngon ngọt. Tôi ăn ngon lành, không có sao cả, vì tôi đã thủ sẵn hai viên Pepto Bismol (thuốc tiêu) sau khi ăn phở HàNội. Dĩ nhiên, bạn có thể không đồng ý về bản định giá chủ quan của tôi về các món phở trên thế giới, bởi vì bạn chưa ăn chỗ tôi đã ăn, và ngược lại.
Ba người chúng tôi đang thưởng thức ngon miệng tô phở Wok’s Tây Hồ thì chị chủ quán TTX vừa về đến tiệm. Chị đi chợ mua thêm các vật dụng cùng rau cải tươi để chuẩn bị cho suất bán ban chiều. Chị đã quen biết với anh Hồng-Ân từ trước và khi được biết chúng tôi từ Mỹ qua thăm Stuttgart thì chị rất ân cần và vồn vã. Để đãi khách đồng hương, chị TTX không tính tiền nước ngọt. Chút xíu nữa là tôi đổi ý, đánh giá món phở của tiệm Wok’s Tây Hồ từ 3 sao lên 4 sao vì tấm thạnh tình của chị.
Chị cho biết: chị là dân gốc miền Bắc cộng-sản đi lao động khách ở Đông-Âu, khi bức tường Berlin sụp đổ, chị trốn sang Tây-Đức làm ăn khấm khá hơn và trở thành dân Đức-Việt. Con cái chị đều sinh tại Đức và đang theo học đại học. Chị rất buồn vì đại gia đình ở ViệtNam còn rất cơ cực nên chị phải tiếp viện hằng năm cho họ, và chính vì vậy gia đình chị trước đây đã trở thành nạn nhân béo bở cho đại sứ quán Việt-cộng ‘bắt địa’ (ăn hối lộ, làm tiền) qua các dịch vụ giấy tờ. Nhưng kể từ khi chị trở thành công dân Đức, chị đã mạnh dạn chống trả và chờ khi thuận tiện sẽ lôi đầu kẻ xấu ra toà.
Đang ăn phở ngon mà nghe những chuyện toà đại sứ Việt-cộng tham nhũng thì mất ngon đi! Danh từ “thực dân” không chỉ dành riêng cho những đạo quân ngoại quốc xâm lược mà còn có thể dùng ngay cho nhà nước cộng-sản đối với chính nhân dân của mình. Lãnh sự quán thường hay nhắm vào các cơ sở thương mại của Việt-kiều để làm tiền. Thí dụ như vợ chồng anh chị STN và HTP, chủ tiệm Asia Drachen bị bắt buộc phải gửi tiền mặt để lo chi phí giấy tờ khai báo, và toà lãnh sự báo rằng chưa nhận được. Thế là mất toi! và không có bằng chứng! Số tiền là 500 EUR, không phải nhỏ! Nhà nước Việt-cộng mánh nhưng không lành vì chưa đo lường được khả năng thích ứng của người Đức-Việt. Người Đức-Việt không còn là Việt-kiều. Họ là dân Đức.
2.4 Tương Lai của Khả Năng Thích Ứng (Zukunft der Mobilitӓt) của Nước Đức
Zukunft der Mobilitӓt (Future of Mobility) là một trong những khẩu hiệu, mà ông Daimler – nhà sáng chế ra xe Mercedes – đã luôn đề cao, có nghĩa là nhắm tới khả năng di chuyển/động của sinh hoạt giao thông hoặc biến chế các loại xe trong tương lai. Đây là tầm nhìn vi-mô (micro view) của một công-ty thương mại của nước Đức, điển hình là các loại xe BMW, Mercedes, Porsche đối với việc phát triển nền kinh tế. Nhưng tầm nhìn vĩ-mô (macro view) trên toàn cầu của nước Đức là gì đối với: 1. thực chất của Liên-Âu, 2. cấu trúc tổ chức của Liên-Hiệp-Quốc (LHQ), và 3. nền thái hoà của thế giới? Thực hiện được viễn kiến vĩ-mô vừa nêu trên tùy thuộc vào khả năng thích ứng của nước Đức.
Khả năng di động (mobility) chỉ là phương tiện mang tính sinh tồn để cung ứng cho một khả năng khác mang tính tiến hoá, cao độ hơn; đó là khả năng thích ứng (adaptation) của mọi dân tộc trong thời đại mới. Tôi muốn nói tới khả năng thích ứng của dân tộc Đức đặt trong khung thời-không của thiên niên kỷ thứ ba. Khả năng của Đức có thích ứng với 3 tầm nhìn vĩ-mô không?
1.Trước hết Liên-Âu phải có tiền tệ riêng cho mình. Giá trị nội tại của Liên-Âu là đồng tiền EUR (Euro, Hình 23). EUR được khởi xướng là công của Pháp, nhưng công nuôi dưỡng là của Đức.
http://webs.schule.at/website/European_currencies/euro_en.htm
Vật giá ở Pháp và Đức cái gì cũng mắc, hãy xem giá xăng trung bình 1.58 € cho 1 lít, độ 8.52 đôla Mỹ cho 1 gallon (4 lít) tại München so với chỉ có 3.75 đô tại San José, Cali; thế mà cuộc đời của dân Đức và Pháp vẫn phây phây sung mãn, bà con thế giới luôn ngưỡng mộ vì giá trị của đồng EUR đặt nền tin tưởng vào năng lực kinh tế hàng đầu của Đức, và tựa vào lực lượng sản xuất vững mạnh của công dân Đức. Thực chất của thị trường chung Liên-Âu và nền kinh tế riêng Đức quốc là đồng tiền hai mặt chung-riêng của chợ Tây ganh đua với chợ Mỹ và chợ Tàu.
2. Trên mặt sinh hoạt địa chính trị (geopolitics) toàn cầu, chợ Tây tuy do Đức dẫn đầu, nhưng tư thế chính trị của Đức vẫn còn yếu kém trong cấu trúc tổ chức của Liên-Hiệp-Quốc: Đức không có mặt trong Hội-đồng Bảo-an LHQ (UN Security Council, HĐBA/LHQ). Cơ quan này tuy giúp cho cuộc Chiến tranh lạnh giữa Nga và Mỹ không trở thành thế chiến thứ ba, nhưng đã không còn hữu hiệu nhiều so với ngày nó ra đời (1945), bởi vì nó chỉ có công khởi xướng do 5 quốc gia thắng trận trong Thế chiến thứ hai mà không tạo được sự bền vững trong thế kỷ 21. Nhật và Đức đã tài trợ rất nhiều vào ngân sách cho lực lượng bảo vệ hoà bình của HĐBA/LHQ hơn hẳn Anh, Nga và Tàu trong nhiều năm qua, mà không có quyền hành hay tiếng nói gì cả.
HĐBA/LHQ chỉ có 5 quốc gia thường-trực (Mỹ, Nga, Anh, Pháp và Hoa) với quyền phủ quyết (veto) và 15 quốc gia không-thường-trực được luân phiên bầu chọn. 15 quốc gia không-thường-trực chỉ là thế, tuy cần, chứ chưa đủ là lực để thay đổi thực chất cho HĐBA nói riêng và LHQ nói chung về sự quân bình. Khối Liên-Âu (Pháp, Đức, Anh, Ý và Spain) đã đóng góp 28.46% so với Mỹ (28.38%), Nhật (10.83%), Trung-cộng (6.64%) và Nga (3.15%) cho ngân sách HĐBA trong năm 2013 [http://www.un.org/en/peacekeeping/operations/financing.shtml]. Do đó, Nhật, Ấn-độ và Brasil là những quốc gia muốn tham gia vào vai trò thành viên thường-trực của HĐBA để tăng độ hữu hiệu và sức hiệu năng cho LHQ trong đại nghĩa gìn giữ hoà bình của trái đất.
3. Đức muốn gì về nền hoà bình thế giới? Là một dân tộc luôn bị chê bai là man rợ trong lịch sử cổ và trung đại, và cũng là quốc gia chiến bại, chịu bao khổ hại sau hai cuộc thế chiến trong lịch sử cận đại, chỉ vì sách lược bạo động, tấn công tha nhân. Cho nên giới lãnh đạo nhà nước cũng như tâm-ý của nhân dân Đức hiện nay là khao khát một nền hoà bình cho nhân loại, mà trong đó nước Đức có thể hành xử theo mô hình lãnh đạo nhân bản. Bằng chứng của sách lược dân chủ là nhiều đảng phái chính trị của Green Party (Đảng Xanh) ra đời với nhiều thắng lợi, và chủ trương hoà bình và an toàn như không xài lò nguyên tử cho bất cứ mục tiêu kinh tế giả hiệu nào.
Đức không thể làm riêng lẻ một mình với viễn kiến thái hoà, chung cho mọi người, mà phải hiện thực gương mẫu tốt cho khối Liên-Âu trước, để đối trọng với các siêu cường khác như Mỹ, Nga, Trung-cộng hay Nhật-bổn sau này; mặc cho chiến thuật lôi kéo của Tàu và Mỹ qua sự o bế đơn phương để xô đẩy và xé lẻ Đức theo ý họ mà thôi, như dưới thời của Giang Trạch Dân và Bush.
Khả năng thích ứng của dân tộc và đất nước Đức đã được trình bày theo sự hiểu biết chừng mực và giới hạn của người viết. Nhưng còn khả năng thích ứng của dân Đức-Việt nói riêng ra sao? và của người-gốc-Việt (Mỹ-Việt, Úc-Việt, Pháp-Việt, Ca-Việt, nói chung trên toàn thế giới sẽ ra sao trong thiên niên kỷ thứ ba này?
Sống lâu năm ở Đức, người-gốc-Việt sẽ bị Đức-hoá, dù muốn hay không, cũng như ở Mỹ sẽ bị Mỹ- hoá, ở Pháp bị Pháp-hoá theo thời gian. Thời đổi thì nhân đổi. Mỗi xứ có những độc đặc riêng biệt của nó, nhưng nhìn chung: đây đều là những quốc gia tiên tiến, có môi trường tự do và dân chủ, họ tôn trọng nhân quyền, cho phép người công dân phát triển, các tổ chức xã hội dân sự (civil society organizations) lên tiếng, để cùng với nhà nước xây dựng xã hội văn minh và công bình hơn. Công dân phát triển nhiều hay ít tùy thuộc vào khả năng học hỏi, thu nhập và sinh hoạt tự chuyển hoá của mỗi cá nhân. Người-gốc-Việt sẽ được ảnh hưởng bởi các tổ chức xã hội dân sự tại địa phương và tự nhiên họ thay đổi khả năng thích ứng của mình. Ở-bầu-thì-tròn-ở-bục-thì-dài, ngoại trừ những tay lọt ngoài vòng pháp luật. Hãy lướt qua hai trường hợp cụ thể dưới đây.
Trường hợp thứ nhất: Các cơ sở và quan chức ngoại giao của nhà nước Việt-cộng đặt tại Đức đã xem Việt-kiều sinh sống ở Đức như những con bò sữa. Vì Việt-kiều là khúc-ruột-ngàn-dặm và vì đồng-tiền-liền-với-khúc-ruột nên tham quan ô lại đã xảy ra cho đồng bào đang làm lao động thợ khách còn kẹt gia đình ở ViệtNam, hoặc các cửa hàng tiểu thương có dịch vụ gắn bó với bên nhà. Tình trạng làm tiền bất hợp pháp của các đại sứ quán và toà lãnh sự Việt-cộng sẽ bị dân Đức-Việt lật tẩy. Khả năng thích ứng sẽ tương xứng với xã hội tôn trọng pháp luật. Đức là nước Đức văn minh, không phải là đất Thủ-Đức của ViệtNam.
Trường hợp thứ hai: Trở lại chuyện không treo cờ và treo cả hai cờ của các tổ chức xã hội dân sự do công dân Đức-Việt đang làm chính sự. Lãnh đạo Trung-cộng (Tc) và Việt-cộng (Vc) không muốn thấy biểu tình HS-TS-VN mà không treo cờ hoặc treo đủ loại cờ. Biểu tình bởi cờ vàng của VNCH là chuyện đương nhiên vì dân tỵ nạn VNCH là kẻ thù của Tc và Vc. Nhưng biểu tình có cả cờ đỏ thì gây rắc rối vô cùng cho Tc và Vc. Tc sẽ hỏi Vc: tao tưởng mày ngon! tại sao lại để cho dân dưới quyền kiểm soát của mày mà dám chống lại tao? (tao-mày là dịch sát nút của hai chữ ‘ngộ’ và ‘nị’).
Còn Vc sẽ tự hỏi và tự bào chữa. Tự hỏi: không hiểu tại sao nhân dân của mình mà lại đi chống nhà nước của ta? Tự bào chữa: đây là nước Đức tự do và dân chủ, không phải là quận huyện Thủ-Đức của tụi tao; nếu là ở Thủ-Đức thì tao sẽ đạp vào mặt tụi biểu tình và quăng tụi nó lên xe bít bùng ngay!
Khả năng thích ứng xứng với xã hội đề cao nhân quyền và xiển dương dân chủ trong các cuộc biểu tình không treo cờ hoặc treo cả hai của dân Đức-Việt là như thế! Thực chất của nước Đức sau thế chiến thứ hai là đã phục tỉnh, đi theo con đường nhân bản tạo thành nếp sống mới với văn hoá dân chủ. Vì thế mà dân Tây-Đức mới có khả năng thích ứng để thống hợp một cách bất bạo động với bà con Đông-Đức, và hoà hợp với cộng đồng Liên-Âu (chợ Tây) để cạnh tranh đương đầu với chợ Tàu và chợ Mỹ trong thế kỷ thứ 21.
Khả năng thích ứng của người-gốc-Việt đã bắt rễ tại nước Đức, đã được nuôi dưỡng bởi tinh thần và phong thái sinh hoạt mang văn hoá dân chủ mới của nước Đức, để tạo thành bản chất cho các công dân Đức-Việt. Xử dụng cờ vàng, hay cờ đỏ, hay cả hai cờ, hay không có cờ nào hết, là tùy theo khả năng thích ứng của mỗi địa phương Đức-Việt, vì đây chỉ là nghệ thuật thi hành chính sự, chưa phải là lý tưởng. Lý tưởng chính trị là gầy dựng dân-chủ-hoá cho ViệtNam để người dân được đại diện bởi một ViệtNam mới với lá cờ mới biểu tượng cho tình thương và trí tuệ.
2.5 Giao Lưu Nối-Vòng-Trăm-Việt Giữa Stuttgart (Đức) và San José (Mỹ)
Thưa quý bạn đọc: chúng tôi không phải là Việt-kiều, hiểu theo nghĩa là người có quốc tịch ViệtNam đang làm ăn sinh sống tại hải ngoại. Chúng tôi là người Mỹ-gốc-Việt, gọi tắt là dân Mỹ-Việt (Vietnamese American) đang thăm viếng và giao du với những người Đức-gốc-Việt, gọi tắt là dân Đức-Việt (Deutscher mit der Vietnamesischen Abstammung).
Mỹ-quốc hay Đức-quốc là xứ sở của chúng ta ngày hôm nay. Một số anh chị em chúng ta, trong quá khứ, đã là những thành phần đi du học (có cả hai bên thua cuộc lẫn thắng cuộc), là thuyền nhân chạy tỵ nạn cộng-sản, hoặc đi làm lao động khách nơi xứ người. Chúng ta đã lựa chọn và hân hạnh nhận nước Mỹ hoặc nước Đức làm quê hương thứ hai. Gia đình và con cái của chúng ta đều đã có quốc tịch và là công dân tốt của hai xứ sở này. Còn ViệtNam đối với chúng ta hiện giờ chỉ/lại là hải ngoại (ngoài biển, xứ bên ngoài).
Chúng ta, những người công dân có trách nhiệm, cần phải biết chính danh của mình để khỏi bị Việt-cộng lập lờ đánh lận con đen lạm dụng. Tiến trình phát triển tự nhiên về pháp trị (rule of law) sẽ chắc chắn như thế dù mình có ý thức nổi hay không. Bối cảnh tiến bộ về tự do, dân chủ và nhân quyền, về sự đồng thuận và bất-bạo-động của xã hội Đức mà các bạn Đức-Việt đã gắn bó và được hưởng thụ, sẽ làm thay đổi bộ mặt và giá trị của người-gốc-Việt.
Vì thế, khả năng thích ứng với bối cảnh toàn cầu hoá của người Việt hải ngoại phải như thế nào?
Người-gốc-Việt tại hải ngoại, đầu đội trời chân đạp đất, gồm có hai vai: vai bên này là hỗ trợ tiến trình dân-chủ-hoá cho ViệtNam (quê ngoại); vai bên kia là giúp cho quê hương thứ hai (quê nội) trong tiến trình thiên hạ thái bình. Đối với riêng người viết là dân Mỹ-Việt: ViệtNam là quê ngoại vì ngoại là ở ngoài xa, còn nước Mỹ là quê nội vì mình đang vui sống và đã mọc rễ trong đất nước Mỹ rồi.
Tuy nhiên, bạn có toàn quyền lựa chọn vị thế nội-ngoại cho mình, nhưng giá trị nội tại của nó vẫn là tuy-hai-mà-là-một. Cắt một vai thì cuộc sống trở thành vô ý nghĩa. Nặng hay nhẹ giữa hai vai là tùy theo hoàn cảnh của từng cá nhân hay gia đình. Trước-hay-sau là dựa vào tư thế của người hành xử. Lấy thí dụ: đi biểu tình cắt đường lưỡi bò của Trung-cộng (hay HS-TS-VN) là trách nhiệm của người Việt hải ngoại trên toàn thế giới. Vấn đề ViệtNam là một tiềm thể (subset) của vấn đề hoà bình Đông-Nam-Á một cách trực tiếp, và của thế giới một cách gián tiếp. Đồng bào Đức-Việt đã sáng tạo và làm gương (không treo cờ hoặc treo đủ mọi thứ cờ, thay vì chỉ có một loại cờ), nên đã đi trước một bước so với dân Pháp-Việt, Úc-Việt, Ca-Việt và Mỹ-Việt.
Các bạn Đức-Việt đi trước một bước vì khả năng thích ứng của các bạn thông thoáng và cao độ hơn những chỗ khác. Các bạn đã xem tính-là-tương-cận (đường lối và mục đích chung về dân-chủ-hóa cho ViệtNam làm cho đồng bào gần gũi và đoàn kết với nhau) và đã thấy được tập-là- tương-viễn (tập tục, thói quen và kinh nghiệm của quá khứ đau khổ, và đường lối suy tư thiển cận làm cho đồng bào xa rời nhau). Chỉ có các bạn Đức-Việt mới tổ chức được các cuộc biểu tình HS-TS-VN mà không có cờ hoặc đủ thứ cờ để có thể đoàn kết mọi người chống cộng sản.
Khả năng thích ứng tùy ở vận tốc thay đổi tư duy và phong thái sinh hoạt của giới hoạt động cộng đồng nguời-gốc-Việt tại hải ngoại, xuyên qua các chương trình cụ thể của tổ chức xã hội dân sự. Hai đặc tính tốt của người-gốc-Việt là nói tiếng Việt và xây dựng phát triển cộng đồng tại địa phương. Đi tới đâu người Việt cũng tụ năm tụ ba để lập những hội ái hữu dưới dạng thức của các tổ chức xã hội dân sự, và cố gắng gìn giữ tiếng Việt trong gia đình và trong hội hè. Sự khó khăn và tiêu cực lúc nào cũng có, nhưng nỗ lực tích cực để vượt qua thì cũng đầy dẫy.
Nỗ lực tích cực cho xã hội dân sự của các bạn Đức-Việt là đã tạo ra một phong thái sinh hoạt chính sự mới để: một mặt, hòa nhập vào xã hội Đức như một đầu tàu dẫn đường cho tổ chức Liên-Âu, và mặt khác, hỗ trợ cho đại nghĩa dân-chủ-hóa đất nước ViệtNam. Những hành xử tiêu cực phá hoại các đoàn thể xã hội dân sự Đức-Việt cũng đã xảy ra, qua các thủ đoạn xâm nhập giật dây và phản dân chủ của giới lãnh đạo Việt-cộng trong các cơ sở ngoại giao tại địa phương. Nhưng những thủ đoạn này không thể tồn tại dưới khung pháp luật công minh của Đức quốc.
Thật ra, Việt-cộng không mạnh như chúng ta tưởng mà vì chúng ta còn yếu trong tiến trình sinh hoạt chính sự. Thí dụ: đoàn đi biểu tình HS-TS-VN dưới cờ vàng, đối với Tc và Vc, là ngoại thù; nhưng khi có thêm cờ đỏ đi cùng như ở Đức, đối với Tc và Vc, lại là kẻ nội thù. Nội thù tai hại và gây họa hơn kẻ ngoại thù gấp bội vì họ sẽ trở về và nằm trong hệ thống. Các bạn Mỹ-Việt, Pháp-Việt, Ca-Việt, Úc-Việt cần nên mời gọi du học sinh và dân lao động thợ khách, cầm cờ đỏ đi biểu tình chống Tc và Vc chung với mình như các bạn Đức-Việt đã làm.
Cho nên chống cộng theo lối tập-tương-viễn là những hành động tiêu cực, chỉ đi theo tập quán và thói quen cũ về phần mình, đã làm chậm lại tiến trình dân-chủ-hóa cho ViệtNam. Hành sự theo kiểu NATO (No-Action-Talk-Only) là chuyện dễ làm nhất, không có tinh thần và phong thái sinh hoạt dân chủ. Vì vậy mà chúng ta ở những nơi khác, ngoài nước Đức ra, vẫn còn yếu!
Tạm biệt chuyện làm chính sự với các bạn Đức-Việt ở Stuttgart để chúng tôi còn đi thăm thành phố Frankfurt và đồng bào chúng ta ở đó.
- 2. Thành Phố FRANKFURT
Cứ mỗi hai năm, chúng tôi lại ghé thăm trại hè đại hội của các cựu học sinh Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), gọi tắt là Hội Ái Hữu PétrusKý – Cộng Đồng Châu Âu (HAH/PK). Trại hè được tổ chức hằng năm tại làng Ronneburg cách thành phố Frankfurt độ 45 phút lái xe. Đây là lần tổ chức thứ 19, quy tụ nhiều cựu học sinh của trường PétrusKý, trước và sau năm 1975, và các thân hữu. Các thành viên hiện đang sinh sống phần lớn tại châu Âu; bè bạn từ Mỹ, Úc và ViệtNam cũng đến tham dự; thân hữu từ các trường Gia Long, Trưng Vương … cũng tham gia; giới du sinh và lao động khách cũng có mặt. Già trẻ lớn bé quy tụ vui chơi, trao đổi, hội thảo, ăn nhậu trong vòng 3 ngày cuối tuần. Thật là đoàn kết và ý nghĩa! (Phụ chú: tôi không phải là học trò của Trường PétrusKý. Tôi là học sinh của Trường Nguyễn Bá Tòng).
Trường PétrusKý có rất lâu đời: được xây dựng hồi năm 1927 dưới thời Pháp-thuộc với tên Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký, sang thời Việt-Nam Cộng-Hoà (1961) đổi tên thành Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, năm 1975 đổi thành Trung học Cấp 2-3 Lê Hồng Phong sau khi VNCH bị cộng sản cướp; và năm 1990 lại thay bằng tên Trung học Phổ thông Chuyên Lê Hồng Phong.
Tôi đã dự đại hội hồi năm 2008 và đọc được hai câu thiệu hấp dẫn sau đây của trường:
Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Tây Âu khoa học yếu minh tâm
trong tập san Diễn Đàn PétrusKý và sau đó được hầu chuyện và trao đổi cùng vị giáo sư cố vấn của hội là ông Phạm Ngọc Đảnh (1936-2011, Hình 25) thì tôi trở thành fan (người ái mộ) của hội ngay sau đó. Năm 2010, tôi có ghé lại thăm gia đình Bác Đảnh một tuần ở một làng quê của Đức, cách xa Frankfurt cả tiếng đồng hồ đi bằng xe lửa địa phương. Lần đó, bác hướng dẫn tôi thăm viếng chung quanh chợ làng và đi bách bộ dọc theo bờ ruộng lúa cả hai tiếng đồng hồ để hàn huyên và tâm tình về thời sự, đất nước, sinh hoạt chính sự, cũng như triết học và đạo lý. Bác diễn giải cho tôi nghe về tam-giáo, kể cho tôi biết về các hoạt động giúp đồng bào từ Đông-Đức và Đông-Âu tràn sang khi bức tường Berlin bị giật sập. Còn tôi thì trình lại cho bác biết về Việt-học và các sinh hoạt văn hoá và giáo dục. Bác hiền và vui lắm, ổng lớn hơn tôi trọn một con giáp nên xem tôi như người em nhỏ. Năm 2011, bác đi thăm con gái ở Sydney, Úc châu và bị bịnh mất bên đó, thọ 76 tuổi. Tôi rất thương nhớ và
mến mộ công đức của bác Phạm Ngọc Đảnh.
http://diendanpetrusky.com/content.php?196-Th%C3%B4ng-B%C3%A1o
Chương trình tổ chức hằng năm của HAH/PK rất hay. Mời các bạn xem hình sinh hoạt trước (Hình 26) rồi nghe tôi kể chuyện sau.
3.1 Dự Trại Hè Cựu Học Sinh Trường Trung Học PétrusKý
Vào khoảng chiều thứ sáu là bà con từ tứ xứ tựu về đông đảo. Trại hè được tổ chức tại một trung tâm sinh hoạt công cộng (Jugendzentrum) của địa phương Ronneburg do một ban chấp hành độ 10 cựu học sinh PétrusKý lãnh đạo. Ban chấp hành được bầu chọn cho mỗi nhiệm kỳ hai năm một lần. Tối thứ sáu là văn nghệ cây nhà lá vườn, hay dở không thành vấn đề, ca không được thì hò, vè, ngâm thơ, kể chuyện, thứ gì cũng được miễn là không được nói tục vì có nhiều em nhỏ tuổi vị thành niên tham dự. Trong phòng hội có đủ thứ mồi ăn rất khoái khẩu. Nhiều bạn mê nhạc, ngủ ngáy khò khò mà vẫn ngồi lỳ đó chứ không chịu về phòng. Kéo tới 12 giờ khuya mới vãn tuồng, nhưng nghe nói có nhiều tụ nhỏ, dăm ba bạn còn cà kê dê ngỗng đến hai ba giờ sáng mới chịu tan hàng.
Chương trình ngày thứ bảy là nặng ký nhất. Sáng và trưa được nghe các buổi thuyết trình về văn học, lịch sử, thời cuộc đất nước, tình hình thế giới để biết thêm thông tin mới, mở mang đầu óc. Chiều thì được một buổi tiệc BBQ (barbecue, thịt nướng) ngoài trời, lại có thêm bia nhấm nháp, ngon đã đời. Và buổi tối thì có chương trình nhạc hội, đủ mọi thể loại với nội dung phong phú: từ ca sỉ (nhiều người) đến ca lẻ (một người), từ ca trù (truyền thống dân gian) đến ca kích (kích động nhạc hiện đại), từ ca kịch (vừa ca vừa nói vừa diễn) đến ca múa (vừa ca vừa nhảy vừa múa). Thiệt hay hết chỗ nói!
Về sinh hoạt buổi sáng và buổi trưa:
Trong giờ thuyết trình, các nhóm bạn khác
như Diễn đàn ViệtNam 21, Trung tâm ViệtNam Hannover, Nhóm 008 đã đóng góp nhiều tầm nhìn khác biệt của cùng một vấn đề, khiến không khí bàn thảo giữa các tham dự viên trở nên sôi nổi và sống động hơn. Các đề tài nóng bỏng thời sự như Điểm sách: Bên thắng cuộc, rất xây dựng như Vài ý kiến về Xây dựng Xã hội Dân sự trong cộng đồng người Việt, và bổ ích như Ý nghĩa của chữ Việt trong thế kỷ mới, chỉ có thể được thảo luận một cách ôn hòa, học hỏi và hướng thượng như trong trại hè này.
Các loại trại hè công cộng mở rộng cho quần chúng tại những xứ khác (như Mỹ, Pháp, Úc, Canada …) khó có thể thực hiện nổi các loại đề tài kể trên vì bối cảnh nhân sự và tầm nhìn cục bộ của điạ phương không cho phép. Phê bình, phản biện và đề nghị đã được mọi người áp dụng một cách tương kính tương nhượng, khiến hội trường vừa găng mà vừa hăng, vui vẻ vấn đáp đúng theo tinh thần hội luận của Tây-Âu-khoa-học-yếu-minh-tâm mà Trường PétrusKý hằng đeo đuổi. Tầm nhìn kỳ thị, phân biệt người Việt theo Tây-Âu hay Đông-Âu, theo gốc-cộng-hòa hay gốc-cộng-sản không thấy hiện hữu trong các tham dự viên của trại hè này.
Tôi nhớ lại câu chuyện mà bác Phạm Ngọc Đảnh đã kể lại cho tôi nghe hai năm về trước. Đó là việc bác đã chứa chấp, giúp đỡ tinh thần lẫn vật chất (nơi ăn, chốn ở và học Đức-ngữ) cho gần cả trăm đồng bào Việt chạy từ Đông-Đức và Đông-Âu tràn sang Tây-Đức để sinh tồn khi bức tường Berlin sụp đổ hồi năm 1989/1990. Thấm thoát mà đã hơn 20 năm trôi qua rồi!
Bác Đảnh đã giải thích rõ với tôi: bà con mình sinh ra và lớn lên tại miền Bắc cộng-sản không có sự tự do lựa chọn; họ cũng là nạn nhân của xã hội cộng-sản. Các bạn gốc-cộng-sản này, giờ đây, đã tiến hoá thành những công dân Đức-Việt, đều có mặt trong các tổ chức xã hội dân sự, tranh đấu cho diễn trình dân-chủ-hoá ViệtNam. Càng nhắc chuyện cũ, tôi càng nhớ thương thầy Đảnh với tầm nhìn cao thượng và hành động chính sự sâu sắc của ông!
Đừng vì quá khứ ‘thắng cuộc’ kiêu căng của gốc-cộng-sản mà sinh ra thái độ nghi ngờ, sợ hãi và lợi dụng. Ngược lại, cũng đừng vì quá khứ ‘thua cuộc’ đau khổ của gốc-cộng-hoà mà tạo ra hạnh kiểm chùm chăn, hô khẩu hiệu, mackeno và NATO. Hướng tới phía trước không phải chỉ có cách nhìn qua kiếng chiếu hậu. Với phong thái sinh hoạt mới, chương trình sinh hoạt chính sự cụ thể mới là những sách lược (strategy) có hiệu quả, để yểm trợ cho phong trào dân-chủ-hoá VN. Còn việc không treo cờ trong trại hè là chuyện nhỏ, chỉ là đối thuật (tactic) mang tính hiệu năng.
Về sinh hoạt buổi chiều:
Buổi chiều có tiệc BBQ ngoài vườn, trên đồi. Tôi mừng hết lớn! Thiệt tình, tôi ăn mấy món Đức truyền thống không vô, nhất là mấy thứ thịt nguội, các loại khoai hầm và dồi luộc của đầu bếp Đức-trắng đã cho ăn vào hồi trưa. Các bạn Đức-vàng (Đức-Việt) có giận thì tôi chịu. Thức ăn ban trưa nuốt không nổi, dẫu biết rằng: ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.
Xem lại mấy bức ảnh kia kìa: thiên hạ tụm năm tụm ba, đàn bà đàn ông, chưa chồng ế vợ đều nâng cao chai bia … một, hai, ba … dô! Mọi loại thịt hay rau, cải, củ, bắp khi được nướng lên dưới than hồng đều bốc lên một mùi thơm ngon hấp dẫn, làm cho dịch vị tiết ra và hệ thống tiêu hoá biến thiên theo tỷ lệ thuận một cách lũy tiến (exponentially positive relation). Tôi lại lấy le môn BBQ bằng toán học nữa rồi!
Về sinh hoạt buổi tối:
Tôi thích âm nhạc lắm! Tôi khoái nghe đủ thể loại: hát bộ (hát bội, chèo cổ), cải lương, cổ nhạc (bình bán vắn, bình bán dài, nam ai, lưu thủy hành vân, sơn đông hướng mã, trăng thu dạ khúc), tân nhạc (đại chúng, thính phòng, kích động …), tân cổ giao duyên. Còn nhạc tây phương thì tôi chuộng điệu blue của Mỹ-đen (một dạng subset của nhạc jazz). Chưa hết! để tôi khoe thêm hai, ba chút nữa: hồi ở trung học, tôi là trưởng ban văn nghệ của lớp đệ tứ, khả năng biết đệm guitar, solo được vài bài tủ mandolin, và chơi trống bongo, conga và luôn cả dàn (drum set).
Thứ nhạc cụ nào tôi cũng khoái chơi, nhưng chỉ biết sơ sơ để ngoại giao với bè bạn, chớ không có thiện nghệ và xuất sắc, thành ra nhà-nhiều-dao-mà-con-nào-cũng-lụt. Hồi đó, má tôi thương và chiều chuộng tôi lắm, hễ tôi muốn có nhạc cụ nào thì bà cũng dắt đi mua và sắm toàn thứ thượng hảo hạng. Nhưng tôi lại chỉ thích hiểu rộng chứ không chịu biết sâu, nên đôi khi má tôi phải cằn nhằn: mầy thuộc loại tài tử bá-nghệ-bá-tri (trăm thứ nghề khác nhau nên thứ nào cũng biết chút xíu), thành ra vị-chi-là-bá-láp (bá-láp nghĩa là không ra gì cả, đồ bỏ!).
Nếu hồi xưa tôi chịu đi sâu chuyên ngành về văn nghệ (như các bạn chơi nhạc với tôi trong ban The Sunshine ngày xửa ngày xưa, họ đều đã trở thành nhà nghề hết) thì bây giờ mấy gánh hát như Asia, Thúy Nga Paris, Vân Sơn ở hải ngoại sẽ đụng hàng dài dài với gánh của tôi rồi. Âu cũng là duyên số! Em ơi, nếu mộng không thành thì sao! Bây giờ lớn tuổi rồi, giống như hổ nhớ rừng, thường rưng rưng nước mắt khi nghe lại những tình khúc nhạc vàng đã soi thấu tâm can.
Buổi tối tham dự nhạc hội của PétrusKý thật là hấp dẫn (hàng ba và bốn, Hình 26). Các ca sĩ nghiệp dư từ Đức, Pháp, Mỹ cùng nhau cống hiến những bài ca đặc sắc của mình, không kém gì giới văn nghệ nhà nghề. Gần bốn tiếng đồng hồ văn nghệ sưởi ấm lòng người. Tôi thấy có nhiều nghệ sĩ gốc Đông-Âu ca mấy bài chầu văn thật điêu luyện trong nón quai thao và áo tứ thân dễ thương, sau đó lại ca lên những bản nhạc vàng tình cảm của thời VNCH trước 1975. Gốc mấy bạn này là dân lao động khách của miền Bắc, nay đã trở thành công dân Đức mang tâm hồn Việt của miền Nam tự do. Vài khán thính giả đứng lên yêu cầu họ ca mấy bài ‘nhạc sến’ làm cho tôi không đồng ý. Tuy không đồng ý với cách gọi tên ‘nhạc sến’ nhưng tôi rất hài lòng về các bài hát nỗi buồn hoa phượng hay chuyến tàu hoàng hôn, và kiên nhẫn chờ thời để đề nghị …
3.2 Nhạc Sến hay Nhạc Đại Chúng?
Buổi sáng chủ nhật lại có thêm màn chia sẻ tâm tình, tôi dùng dịp này để trình bày lý lẽ của mình về cách dùng danh từ ‘nhạc sến’ tối hôm qua để gọi nhạc vàng của miền Nam thân yêu. Các bạn biết rồi! tôi lớn lên trong tình thương yêu của một đại gia đình bình dân và trong bối cảnh xã hội đầy ấp tính nhân bản của miền Nam. Tôi đã hiểu rằng vì giới lãnh đạo miền Nam chưa đủ tài kinh bang tế thế trong môi trường chiến tranh lạnh của thế giới tư bản và cộng sản, nên năm 1975 ViệtNam mới bị đứt phim do những trao đổi lợi hại của siêu cường tính toán.
Trong cái xã hội đầy ấp tính nhân bản của miền Nam đó, nhạc vàng được ra đời. Mấy chục năm trời đã trôi qua, tuy chưa đủ dày so như một nháy mắt trong chiều dài lịch sử cả mấy chục ngàn năm của đất nước, nhưng loại nhạc này đã hiển hiện ra nhiều điểm đặc thù và phản ứng trái ngược nhau của con người hiền hoà trong xã hội loạn lạc của thời kỳ trước 1975. Ước mơ của con người, nói chung, là muốn được sống trong sự an bình, của tình yêu thương. Nhưng không vì thương yêu mà quên đi trách nhiệm của một con dân giữa thời binh biến. Phản ứng tiêu cực của loại nhạc vàng này được mang tên là nhạc sến khi nó chất chứa những nét ủy mị, dù ý thức hay vô thức, qua lời ca và điệu nhạc. Có người còn lên án nhạc sến nữa. Nhưng, no star where!
Bạn có thể tự tra cứu cả chục bài viết về nhạc sến với lời giải thích và tâm lý cá biệt của các tác giả trên mạng. Tôi tôn trọng tất cả các lý giải của mọi người. Nhìn một cách tích cực hơn, tôi gọi đó là nhạc đại chúng. ‘Đại chúng’, vì trong xóm Hoà-Hưng của Quận Ba – Sài-Gòn tôi ở hồi nhỏ, từ đầu đường cho tới cuối hẻm, bà con ai cũng thích nghe và ca hát loại nhạc vàng này. Có người lại nói: vì nghe nhạc sến ủy mị làm ta mất nước! Đừng có lạng quạng người ơi! Đầu của ngươi hơi nóng đó! Hãy đem con dê tế thần ra bàn hội nghị chính trị quốc tế mà cãi.
Gần nửa thế kỷ sống lớn lên tại quê hương Mỹ quốc, tôi lại được bè bạn giới thiệu và cho nghe loại nhạc thính phòng. Thật là du dương và tuyệt diệu! Tôi mê nghe nhạc thính phòng lắm và lại không bao giờ quên nhạc đại chúng của tôi.
Khi ghé thăm Brisbane ở bên Úc, thấy được hoa phượng nở, tôi lẩm nhẩm mấy câu: Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chan tình thương. Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần gủi nhau mất rồi, tạ từ là hết người ơi!
Trở về Hawaii ở Mỹ, nhìn cảnh hoa phượng rơi tơi tả, tôi lại rỉ rả ca tiếp:
Giã biệt bạn lòng ơi! Thôi nay xa cách rồi
Kỷ niệm mình xin nhớ mãi, buồn riêng một mình ai
Chờ mong từng đêm gối chiếc,
Mối u hoài này ai có hay?
Và vào buổi tối văn nghệ cây-nhà-lá-vườn tại một gia đình người bạn ở Paris (Pháp quốc), tôi còn nhớ đến một cô bạn ViệtNam gốc-cộng-sản (trước đi du học bên Tiệp-Khắc) dạo lên vài đoạn cuối của khúc hát ân tình:
…Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn,
Cảm thông được nỗi vắng xa người thương.
Màu hoa phượng thắm như máu con tim,
Mỗi lần hè thêm kỷ niệm. Người xưa biết đâu mà tìm?
[Trích bài ca Nỗi Buồn Hoa Phượng của nhạc sĩ Thanh Sơn (1938-2012), điệu Slow Rock]
mặc dù bên ngoài trời tối u, không một cánh hoa phượng rơi rụng. Nhưng giọng hát ấm cúng và lời ca trữ tình của cô đã nhắc nhở cả một bầu trời thương nhớ! Không biết cô nhớ đến người yêu nào: ở Sài-Gòn hay ở Hà-Nội, hay còn ở bên trời Đông-Âu vời vợi?
Chia rẽ gốc-cộng-hoà hay gốc-cộng-sản là để cho đầu óc hạn hẹp của mấy tay lãnh đạo cộng-sản quyết đoán mà phân chia hộ khẩu và giai cấp, và đã một thời họ ra tay cấm đoán cũng như hạ nhục nhạc vàng, nhạc đại chúng của miền Nam. Nhưng tâm hồn của người dân dù gốc gác ở Nam hay Bắc, dù ở đâu chăng nữa cũng nhớ tới người thân thương khi nghĩ tới nỗi buồn hoa phượng, hoặc cảm thấy lòng rung động khi nghe được tiếng còi hú của chuyến tàu hoàng hôn.
Tôi lại nhớ đến mấy bạn gốc-Đông-Đức trong mấy ngày của trại hè Trường PétrusKý. Họ say mê và thả hồn ca mấy bài nhạc vàng. Họ thả hồn còn tôi thì hết hồn! Hết hồn vì thành kiến trong cái đầu chật hẹp của tôi thường nghĩ rằng, dân sống quen dưới cờ đỏ không thể ca nổi nhạc cờ vàng. Anh NĐT và chị TTM ca thật điệu nghệ, giọng rã rít không thua gì Chế Linh và Thanh Tuyền.
Suốt trong ba ngày tham dự trại, tôi để ý không thấy có chào cờ vàng hay chào cờ đỏ ở đây, mà chỉ thấy có trưng cờ trường với phù hiệu PétrusKý ở giữa được bao quanh bởi 12 ngôi sao của cộng đồng Liên-Âu. Chắc là để các trại viên còn có cơ hội tụ tập nhau cho lần tới:
… nếu hay chăng người ơi, chốn xa xôi chàng trai
còn đem yêu thương rắc lên muôn vạn oán hờn …
(Lời bài ca Chuyến Tàu Hoàng Hôn)
Ban tổ chức trại hè PétrusKý đã nhìn tới hướng tiến phía trước, đặt quá khứ oán hờn đằng sau lưng và dùng tình ái hữu để nối kết sự liên đới với tất cả mọi người, phá chấp và không phân biệt, khiến cho sinh hoạt chính sự này đã thành công gần hai thập niên qua. Thành thật cảm ơn công sức của quý bạn cựu học sinh và các thầy cô của Trường PétrusKý trong khả năng thích ứng giới hạn của mình. Nhờ vậy mà tôi có cơ hội được quen biết thêm nhiều bè bạn từ khắp mọi nơi tụ về. Chúc các bạn chân cứng đá mềm để hợp lực vào con đường dân-chủ-hoá đất nước ViệtNam.
Cuộc vui nào cũng tới hồi kết thúc. Trại hè nào đã có giờ khai mạc, rồi cũng đến giờ bế mạc. Chúng tôi lên xe theo lời mời của vợ chồng anh chị Nguyễn Hữu Nghĩa và Trần Mỹ Nga (N&MN) trực chỉ về nhà của ảnh chỉ trong một làng quê, ở cách xa trại hè PétrusKý một tiếng rưỡi lái xe. Chúng tôi chỉ mới quen biết anh chị N&MN mới vài ngày qua, nhưng thân tình như đã! Không sao cả! Trước lạ sau quen: nhất thân nhì thế, sau đó thì tùy cơ ứng biến mà sinh ra lực.
3. Làng Quê UDENHEIM và Thắng Cảnh Dọc Sông RHEIN
Đã nói là làng quê thì phải có ruộng. Thành phố làm gì có dư nhiều đất mà làm ruộng. Anh chị N&MN đã sống và làm việc nhiều năm ở thành phố Frankfurt, nhưng không thích cảnh phồn hoa đô hội ồn ào, nên dời về làng quê Udenheim để mua đất cất nhà, chuộng nơi thanh nhã và tĩnh lặng. Trời mới ban chiều, vừa về tới nhà là ảnh chỉ rủ đi thăm ruộng. Đi thì đi. Ta có ngại chi!
3.1 Đi Thăm Ruộng Vườn
Ruộng ở làng này tuy không rộng theo kiểu cò bay thẳng cánh, nhưng nhỏ nhắn xinh xắn và được phân định bởi những đường làng đất trắng. Làng chỉ có vài trăm dân, nên ai cũng biết ai.
Gặp nhau ngoài đường là bắt tay thăm hỏi. Con cái anh chị N&MN đều làm y sĩ, nên tụi nó sống ở thành phố để làm việc, thỉnh thoảng ông bà phải rời khỏi nhà để ra giữ/thăm cháu dùm các con.
Sao thấy làng vắng vẻ quá! Đầu làng có gắn bản chỉ đường với bản đồ và hình ảnh để hướng dẫn các tài xế khỏi đi lạc. Chúng tôi lội bộ dọc theo các con đường đất để ngắm phong cảnh hữu tình, cùng ruộng vườn vắng lặng một màu xanh ngắt. Ruộng ở đây là ruộng khô, chuyên trồng các loại củ, nho và lúa mì. Ruộng khô ở Đức khác với ruộng nước của ViệtNam ta. Văn minh nông nghiệp đã phân loại ra nhiều loại ruộng khác nhau như: ruộng khô (không cần nhiều nước), ruộng nước (cần rất nhiều nước), ruộng núi (xẻ đất thành nhiều bậc như trên vùng cao nguyên), và ruộng đồng (đất bằng phẳng, trồng theo phương pháp: nước, phân, cần, giống).
Ruộng khô trồng lúa mì. Ruộng nước trồng lúa gạo. Ông già của tôi là dân ruộng ở Sa-Đéc (giữa Tiền-giang và Hậu-giang, vùng đồng bằng nam-bộ VN), nên tôi được biết sơ sơ về ruộng lúa, nhưng chưa bao giờ kinh nghiệm tay-lấm-chân-bùn như tổ tiên nông dân của mình. Tôi được sanh ra ở SàiGòn nên trở thành công dân; rồi ăn học cũng như lớn lên bên Mỹ, và khi đi làm việc kiếm cơm thì biến thành công nhân.
Ở bắc-bộ của quê hương ta, nhà quê có chữ ruộng rặc hay ruộng rạc để chỉ ruộng nước vì tiếng Việt cổ: rặc hay nắc có nghĩa là nước. Dân Tàu (gốc từ văn minh du mục phương bắc) khi giao lưu và học hỏi từ dân Ta (gốc từ văn minh nông nghiệp phương nam) về cách trồng lúa nước, đã gọi ruộng rạc thành ruộng lạc vì Tàu phát âm chữ r thành ra l. Dân Việt phát minh ra ruộng lúa nước được gọi tên là dân ruộng rạc (dân rạc), bị dân Tàu phương bắc đọc trại thành dân lạc, nên mới có chữ lạc dân (viết theo ngữ pháp Tàu, tĩnh từ đứng trước danh từ).
Tổ tiên Ta đã được gọi bằng dân Lạc-Việt, chữ Lạc viết hoa và trở thành danh từ riêng (proper noun). Lạc-Việt là bộ phận dân tộc còn sót lại của hệ thống dân Bách-Việt, các dân tộc Việt khác đã bị Tàu đồng hoá hoặc bị tiêu diệt. Lạc-Việt là tiên tổ của dân ViệtNam và dân ViệtNam là tổ tiên của các giống: Đức-Việt, Mỹ-Việt, Pháp-Việt, Úc-Việt, Ca-Việt, Nhật-Việt, Mông-Việt, Cu-Việt …. cả trăm thứ Việt khác nhau (đều cùng biết nói tiếng Việt) trong thời đại toàn-cầu-hoá của thiên niên kỷ thứ ba này; giống y như dưới thời Bách Việt có cả chục ngàn năm về trước với: Mân-Việt, U-Việt, Kinh-Việt, Dương-Việt, Điền-Việt, Âu-Việt và … Lạc-Việt!
Bạn đọc thân mến: chớ có nhắc/bảo tôi là cho xem nguồn gốc và xuất xứ của các lý lẽ trong bài viết này khi thấy tôi thuật lại gia phả của giòng giống mình. Đây là loại ký sự tản mạn, chữ nghĩa được trình bày theo kiểu phóng sự đường rừng, ghi chép lại theo lối đem tâm tình viết lịch sử. Bạn nào muốn thấu rõ nguồn gốc, ý nghĩa và ứng dụng của văn hoá nước nhà thì hãy tìm đọc sách Việt-Học Là Gì? (2010) cũng do tôi biên soạn qua mấy chục năm tha-hương-cầu-kiến. Sách có cả trăm thứ dẫn chứng, tài liệu tham khảo theo kiểu trường-quy và hàn lâm, đọc mệt nghỉ! Bây giờ xin mời bạn trở lại việc đi thăm làng quê SchornSheim.
Đi dạo một hồi, tới cái nghĩa địa nhỏ tí, có chừng bốn, năm chục cái mả, anh chị N&N hãnh diện cho biết: khi chết sẽ được chôn ở đây, vì nghĩa trang này chỉ dành riêng cho dân làng này, không cho người ngoài chen vào. Kế sát bên là một phòng tang lễ nhỏ nhắn, sơ sài và mộc mạc; tôi nghĩ thầm: con người không có sự lựa chọn về khung thời-không mà mình được sinh ra, đến khi chết, với một may mắn tương đối vẫn có thể ao ước nơi mình được chôn cất. Từ nhà ra thăm mả chỉ dăm ba trăm thước, anh chị N&MN tính xa hay quá!
Dân Đức rất thích uống bia và rượu nho (rượu vang). Trong làng nhỏ này có nhà/hãng làm rượu Fauth-Hof đã ba đời làm rượu vang, nên chúng tôi quá bộ sang thăm. Tôi đang khát nước, chỉ mong sao có được một ly nước cốt nho (grape juice) thì hạn hán sẽ gặp mưa rào ….
3.2 Ghé Ngang Hãng Rượu
Vì hãng rượu Fauth Hof nằm ở cuối làng nên bảng Auf Wiedersehen (Hẹn gặp lại) của làng cũng được cắm bên cạnh đường ra vào hãng rượu. Hãng rượu gồm hai dãy nhà lầu hai tầng. Lầu bên phải dùng làm nhà ở trọ cho khách vãng lai (giống như kiểu motel bên Mỹ). Lầu bên trái là nhà của hai gia đình cha con chủ hãng, hai tầng trên để ở, còn hầm làm rượu thì xây ngầm dưới mặt đất để giữ độ tươi mát. Bên ngoài trời đang nóng nực mà đi xuống hầm rượu mát thì đã lắm!
Ngang hông bên trái và phía sau dãy nhà là nguyên vườn trồng nho, tôi phỏng chừng 20 mẫu Mỹ (acres) diện tích. Ngang hông bên phải là cả một vườn rau cải và cây trái, có trồng thêm khoai tây, các loại củ và bông hoa. Đúng là loại kinh tế tự túc, thức ăn uống đầy đủ dành cho cả chục gia đình chứ không phải chỉ riêng cho hai gia đình nhà chủ. Dân Đức kinh qua nhiều cuộc chiến tranh, nên làng quê là địa điểm sinh tồn lý tưởng, chưa cần phải ra chợ. Tôi lại nghĩ thầm: phải chi có thêm một đàn gà, vài ba con vịt (tôi lại nhớ đến món tiết canh) thì đủ bộ hình bóng quê nhà! Đang nghĩ vẩn vơ thì bị anh chị N&MN hối thúc đi xuống hầm thử rượu.
Hễ nói tới uống rượu là tôi nhớ ngay đến ông Sáu Nhỏ làm cu-li ở xóm tôi ngày xưa. Tên ổng là Nhỏ mà thể xác thì lại to! Tối ngày ổng say mèm, đi xiên đi xẹo, ngã qua ngã lại, đứng không vững chắc. Trong một tiếng đồng hồ, ông Sáu làm việc chừng 15 phút còn 45 phút thì dành để nhậu. Ổng chuyên nhậu rượu đế (sản phẩm làm từ gạo mà ra). Mẹ tôi thường hay cho tiền và khuyên ổng: “thôi anh Sáu bớt uống rượu đế đi, dùng cơm nước cho thật nhiều để dành sức khoẻ mạnh mẽ mà làm việc”. Ổng bèn ca một đường lã lướt, hết chỗ chê:
Rượu từ lúa gạo mà ra
Cho nên uống rượu cũng là ăn cơm!
Còn tôi thì thấy ổng đứng không vững, nên hay chọc: “Bác Sáu đi cho thẳng một chút coi, để con chụp hình bác đẹp trai, mai đăng lên báo tìm bác gái”. Ổng phùng mang trợn má, cãi lại: “mầy chọc quê tao hả? đường xá đầy lổ hủng, tao đi phải tránh né, nên xiên qua ngã lại là chuyện thường!”. Đúng là ổng đã xỉn rồi! Tội nghiệp, bác Sáu Nhỏ từ giã cõi đời khi chưa quá tuổi 45.
Hãng rượu Fauth Hof này tuy nhỏ nhưng rất sạch sẽ và tối tân. Điện lực dùng cho máy móc lấy từ công cộng và các tấm hút năng lực mặt trời (solar energy panels) gắn trên mái nhà (hàng trên, hình phải, Hình 30, mũi tên đỏ). Nhà nước Đức đã quyết định sẽ dần dần bãi bỏ các nhà máy dùng năng lực hạt nhân (nuclear energy) để tránh rủi ro nên đề ra nhiều chính sách giúp dân chúng sử dụng các phương tiện thiên nhiên khác.
Ông Johannes chủ hãng rượu ra chào đón chúng tôi và dắt đi thăm một vòng. Ông già thật dễ thương, tuổi đã trên 70 mà còn rất phương phi. Vợ chồng ông Johannes cùng gia đình anh con trai là Günther khoảng bốn mươi mấy tuổi là chủ nhân của hãng rượu và khách sạn nhỏ (guest house). Cơ ngơi này được bắt đầu xây dựng từ đời cha mẹ của ông Johannes sau thế chiến thứ hai chấm dứt. Chính sách tiểu thương của nhà nước Đức đã hết sức hỗ trợ cho các thương hiệu tư nhân, giúp dân phát triển kinh tế và xã hội một cách tuyệt vời: rượu Fauth Hof vững bền!
Ông chủ giải thích cho chúng tôi nghe tiến trình trồng nho, làm rượu, thẩm lượng chất men, rồi đem ra thị trường cạnh tranh và tính toán thương mại lời lỗ, y như ông thầy kinh tế học đang luận bài. Nghe quá hay vì tôi còn dốt về rượu và cách buôn bán. Tôi chỉ mắc một cái dở là tửu lượng không được nhiều: nâng ly cho thật cao như màn biểu diễn, mà uống thì như mèo liếm! Ông chủ còn chỉ bảo thêm hai hệ thống bình chứa rượu, tạo trước và sau năm 1974. Tôi nghe như nước đổ lá môn, vô tai này ra tai kia. Đã nói là tôi không mạnh rượu mà! Tôi chỉ mua một chai nước cốt nho, uống rất ngon ngọt (không nồng độ) và vài cái ly làm kỷ niệm. Cảm ơn và bái bai ông chủ!
© Trương Như Thường
© Đàn Chim Việt