WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Không Phải Ngày Cuối Cùng của Việt Nam: Last Days in Viet-Nam

Bốn mươi (40) năm sau cuộc thất thủ của miền Nam, nhiều người Việt còn rất cay đắng vì những lý do đưa đến sự thôn tính miền Nam của Bắc Việt. Trong số này người ta có thể kể ông Giao Chỉ – Vũ văn Lộc với bài “Sự Phản bội Cuối Cùng.” “

Đọc bài “Sự Phản bội Cuối Cùng” của ông Giao Chỉ tôi cũng ao ước ông có thể gây quỹ để làm một cuốn phim cho đích đáng và đầy đủ, cho ông thật ưng ý, chứ những bộ phim lịch sử về chiến tranh của Việt-Nam do người Mỹ thực hiện, chẳng có phim nào đầy đủ hay chính xác cho vừa lòng chiến sĩ. Chưa nói đến phim  tài liệu Last Days in Vietnam của bà Rory Kennedy (cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy, cả hai đều bị ám sát chết).

Bà Rory Kennedy, cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy.

Bà Rory Kennedy, cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy.

Đúng ra nếu ông Giao Chỉ đóng vai bình luận gia quân sư viết một bài bình luận về quân binh, những trận đánh hoặc những mưu mô, manh nha chính trị thì chuyện lên án, chửi bới có lẽ lại hơn! Tuy nhiên, chê bai cuốn phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ (Những Ngày Cuối cùng ở Việt-Nam) của bà Rory Kennedy một cách nặng nề và thậm tệ thật không đúng chỗ.

Riêng tôi, và có lẽ nhiều người Việt khác thì biến cố 30 tháng Tư 1975 không phải là những ngày cuối cùng. Không kể những người Việt đã nằm sâu trong lòng biển hay bụng cá, hoặc chết vào tay hải tặc vào những thập niên 70 – 80, nhiều người khác cho đến nay vẫn mong đợi một ngày mai tươi sáng cho Việt Nam. Nhiều người vẫn tìm về với những lý tưởng và mơ ước của mình. Do đó Last Days in Vietnam chỉ là một phim nói lên một giai đoạn ngắn ngủi trong lịch sử ra đi của  người Việt. Một cuốn phim 90 phút đương nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, người ta đánh giá nó trên những tiêu chí chính (tình người), của nó, không phải trên mọi phương diện,  quân sự hoặc tự ái cá nhân.

Tôi cũng không hiểu ông đại sứ Graham Martin có tiên liệu trước là miền Nam sẽ mất vào tay Cộng sản Bắc Việt hay không, hoặc giả ông vẫn còn chờ đợi một giải pháp trung lập thứ ba nào. Nhưng theo những nhân vật  trong phim tài liệu này thì ông Martin vẫn tin tưởng vào miền Nam ‘sẽ không mất’ nên không chịu dự tính một phương án di tản. Trong khi đó thì ông Giao Chỉ, dẫn chứng sách “Tears before the Rain” của Giáo sư Larry Engelman, nói về thương lượng của ông Henry Kissinger với Brezhnev đề nghị 2 tuần cho Mỹ rút lui (lúc đó chỉ còn từ 5.000 đến 7.000 người Mỹ ở Việt Nam. Ông Giao chỉ trích: “Đầu tháng 4, đại sứ Graham Martin “muốn chắc ăn đã gửi đại tá Harry Summers đi theo chuyến bay của ủy hội quốc tế ra Hà Nội nói chuyện trực tiếp.”

Tuy có bàn qua sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ và những lý do – như không viện trợ hay cung cấp vũ khí, thay thế những thứ bị hư hại đưa đến sự thất thủ của miền Nam, cuốn phim tài liệu này không nhằm chú trọng đến chuyện quân sự hay chính trị. Bà Kennedy chỉ dùng chúng như những bối cảnh cho thấy những nỗ lực đáng kể của nhiều người Mỹ trong những tình huống nguy cơ và cấp bách để nói lên sự dũng cảm của họ.

Rory Kenedy 2

Có lẽ bà Rory Kennedy, dưới nhãn quang của một người Mỹ – đã cưu mang nhiều oan khuất vì cái chết bất đắc kỳ tử của bác và cha mình, cũng như những bất cập của Hoa Kỳ trong cuộc tham chiến ở Việt-Nam – nên đã dựng lại phim tài liệu này kể lại cuộc di tản tang thương và khó xử  đó. Trong cuốn phim này, đại ý cho thấy sự nhân bản của các nhân vật trong tòa Đại sứ Mỹ cũng như trong quân đội Hoa kỳ đã tìm cách đưa những người Việt ra đi bất kể lệnh trên.

Không hiểu ông Vũ văn Lộc có hiểu đại ý cuốn phim tài liệu này không? Ông Kissinger không phải là tài tử (phim tài liệu không có tài tử) bình luận, hay là nhân vật chính trong cuốn phim tài liệu này, tuy rằng ông là người đã giữ vai trò cốt yếu trong cuộc hoà đàm với Bắc Việt dẫn tới chuyện Ngụy Ước Paris 73 (1).  Ông Kissinger, ông Nixon, cũng như ông Ford (tuy rằng ông Kissinger là người duy nhất trong 3 người vẫn còn sống đến ngày nay nên đã được mời góp ý trong cuộn phim) đều là những người thứ phụ trong phim này, sự hiện diện của họ chỉ làm sáng tỏ những tiết yếu và diễn tiến của những ngày cuối cùng nhằm minh họa cuốn phim.

Những nhân vật chính trong phim này là đại úy bộ binh Stuart Herrington (có thể coi là bình luận viên (narrator), Juan Valdez sĩ quan Thủy quân Lục chiến), Frank Snepp (CIA), Đại sứ Graham Martin, Richard Armitage (Cố vấn quân sự), Gerry Berry, (Phi công trực thăng), người di tản cả ngàn người Việt, Paul Jacobs (thuyền trưởng tàu Kirk) Phía người Vịệt gồm có: Đại úy Đổ Kiểm, Bình Phó (sinh viên), Đại úy Hải quân Phạm Hữu Đàm, Nguyễn Miki, con trai ông phi công trực thăng Chinook, người đã biễu diễn một màn thoát hiểm ngoạn mục trên tàu Kirk)

Bà Rory Kennedy dù sao cũng là một người Mỹ, trong phần Q&A khi khai trương cuốn phim hồi tháng 10, đối với cuộc chiến khá phức tạp của Việt Nam khi hỏi về bài học mà cuộc chiến Việt Nam đã mang lại, bà đã trả lời, đại ý rằng ktrước khi tham chiến vào một quốc gia nào thì Hoa kỳ phải tính đến hậu quả (cũng như lối ra ý nghĩa hơn là cắt đức và bỏ chạy (?).

Phần lớn ai đi xem ‘Last Days in VN’ cũng khó cưỡng lại kết cục làm rơi lệ, cảm thương cho số phận Việt-Nam. Trong phim, chạnh lòng nhất là câu hỏi của ông Đại úy Phạm Đàm, cựu quân nhân VN Cộng hòa, tù Cộng Sản 6 năm: “Có phải mục tiêu cuộc tham chiến Mỹ là dẫn đến cuộc di tản tang thương này…?” Rồi những lời hối hận của các chiến binh, tham tán quân vụ, ngoại giao, lo cho số phận những người VN bị bỏ rơi.

Đến lúc đèn sáng, đạo diễn, cô Rory Kennedy ra kêu gọi khán giả aỉ là người VN xin đứng dậy, khán giả cho một tràng pháo tay. Sau đó tôi là người đầu tiên đặt câu hỏi, nghẹn lời xúc động: “Đã 51 năm từ hồi bác cô, ông J. F. Kennedy là tổng thống đầu tiên gởi quân sang VN, rồi bật đèn xanh cho lật đổ ông Diệm, rốt cuộc ông Diệm bị giết 3 tuần trước ông Kennedy – VN ngày nay vẫn còn mù mịt (in limbo) dưới bóng Trung quốc…”

Ý của bà mà tôi có thể đọc được là sau nhiều năm bị gặm nhắm với những mặc cảm tội lỗi do hội chứng VN (Vietnam syndrome) nên đã có ý tìm đến góc cạnh cứu độ của những người Mỹ trong tòa đại sứ cũng như những nhân vật khác thuộc các binh chủng Hoa Kỳ, kể cả những cấp trên của họ.

Bà cũng nói thông điệp chính của ‘Last Days in Vietnam’ không chú trọng vào vấn đề chính trị mà chỉ đề cao tình người.

Rory Kenedy 3

Thiết nghĩ nếu chịu khó nghiên cứu người ta có thể đào ra vô số những yếu tố đưa đến sự thất thủ của miền Nam, nhưng không ai với một thái độ bình tĩnh và từ tốn sau khi xem phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ của bà Rory Kennedy và những nỗ lực tìm đến cộng đồng Việt Nam của bà qua những dự án như: trình chiếu phim tài liệu này (có phụ đề Việt ngữ do người viết dịch) ở nhiều vùng trên nước Mỹ và hoàn toàn miễn phí, cũng như “Dự án Những Ngày Đầu” nhằm tri ân các làn sóng người Việt tị nạn bằng cách kêu gọi họ ghi âm những câu chuyện của họ và cho lưu trữ trong Thư viện quốc gia Hoa Kỳ (U.S. Library of Congress) cho các thế hệ mai sau – mà lại đồng hóa cuộn phim này với sự phản bội cuối cùng của Kissinger hay Hoa Kỳ. Tuy nhiên vì những lý do riêng tư nào đó, ông Giao Chỉ đã lên án nặng nề cuốn phim Last Days, gọi nó là một phim chết tiệt!

“Theo ý tôi, đây là một phim chết tiệt. Nên gọi là Sự phản bội cuối cùng.”

“Tôi không thích phim này, nhưng tôi biết có những người rất thích và có lý do để thích. Việt cộng.” 

“Phim đã chẳng ra làm sao, tài tử bình luận chính lại là Kissinger đóng vai nhà chính khách nhân đạo, thương yêu Việt Nam hết sức.” (Vũ văn Lộc)

Người ta có thể lên án Bắc Việt một cách chính đáng đã vi phạm trắng trợn hiệp định Ba-lê năm 73 mà họ đã ký kết. Một cách chính đáng người ta cũng nguyền rủa ông Kissinger đã cố tình bán đứng miền Nam qua hiệp định này, vì ngoài những hậu ý ám chỉ chuyện nhân nhượng của Hoa Kỳ trong các giao tế ngoại giao, chấp nhận sự hỏa mù của Lê Đức Thọ trong việc thương lượng, Kissinger đã mặc nhiên cho phép Bắc Việt để lại tại miền Nam hơn 130.000 quân đội chính quy của họ. ̉Người ta cũng có thể một cách chính đáng buộc tội Quốc hội Hoa Kỳ, đã buông rơi miền Nam, cắt đứt mọi mặt viện trợ cho miền Nam trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến phòng thủ Sàigòn của ông Thiệu.

Xa hơn nữa nguồn gốc của sự “đã nằm trong thiên thư” này có lẽ đã nảy mầm từ trước năm 1971 khi Nixon và Kissinger đã lót đường cho Trung hoa lục địa giao du với Hoa kỳ (và thế giới bên ngoài) đưa đến chuyện mà người ta có thể  gọi một cách chính đáng là sự phản bội của Hoa Kỳ đối với Việt-Nam Cộng-hòa. Đó là nhân chuyện đàn áp Phật giáo Hoa kỳ đã bật đèn xanh cho các tướng lãnh miền Nam lật đổ (và thủ tiêu hai ông Diệm-Nhu) từ 1 tháng 11, 1963. Tuy rằng là một chế độ gia đình trị, sự lật đổ hai ông Diệm Nhu đã giúp Hoa kỳ đưa quân đội Mỹ ồ ạt vào miền Nam. Từ đó sự tham chiến của Hoa Kỳ là con dao hai lưỡi, một mặt giúp cho Cộng sản miền Bắc lấy cớ tuyên truyền (che đây chính sự mất chính nghĩa làm tay sai cho quan thầy Trung Cộng và Nga xô của mình) ’Hoa kỳ xăm lăng’ và lũng đoạn chính quyền miền Nam, một mặt vừa khiến miền Nam ỉ lại quá đáng vào sức mạnh và sự bền bĩ của Hoa Kỳ.

Nhưng ‘Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách’ có lẽ một cách chính đáng hơn người ta nên trách sự tồi dở của ông Thiệu và lãnh đạo miền Nam đã quá tùy thuộc vào đồng-minh-không-bền-chí Hoa Kỳ.

Tôi không bào chữa cho sự sai lầm và toan tính của Hoa Kỳ đã đưa đến những chính sách không có lợi cho miền Nam trong cuộc chiến đó (kể từ đời các tổng thống: Eisenhower, đến Kennedy, đến Johnson, đến Nixon, đến Ford).

Ngoài chuyện địa chính trị và realpolitik (chính trị thực dụng) mà miền Nam phải làm đồng minh của Mỹ –  thay vì Mỹ phải là đồng minh của VN (mới đúng), Vì đây chính là cuộc chiến của VN, có gọi là cuộc chiến ủy thác, chiến tranh lạnh trong điạ bàn quốc tế, chiến tranh Quốc-Cộng, nội chiến, hay CS Bắc Viêt gọi là Chiến Hoa Kỳ, ( ̣chống đế quốc Mỹ và tay sai) v.v.. và v.v.. Có muốn truy từ gốc ngọn cuộc chiến từ tàn dư của cuộc đô hộ của (thực dân) Pháp thì vấn đề cốt lõi mà những người VN trung chính và chân chính nào cũng nên thừa nhận: cuộc chiến vừa qua đã định đoạt vấn đề sống còn và ước vọng của một dân tộc đang đi tìm chỗ đứng và tương lai, lý tưởng và ý chí của  đất nước .

Chính ra Mỹ phải là đồng minh của VN chứ không phải VN phải làm đồng minh của Mỹ. Vì cuộc chiến trước và sau là cuộc chiến của VN, chứ không phải của Mỹ tuy rằng VN sau nền Cộng hòa thứ hai đã để cho Mỹ thao túng cuộc chiến vì chế độ quân lực và lãnh đạo yếu hèn.

Không ai phủ nhận là Mỹ đã bỏ rơi VN, nhưng hơn 30 năm trước khi gót giầy của quân đội Mỹ rầm rộ dẫm xuống Việt Nam (vào tháng 3 năm 65), trong thế tranh tối tranh sáng trước địa chính trị của các cường quốc, chúng ta đã chật vật lao tâm lao lực, cố vươn lên tìm lối thoát trong bối cảnh đô hộ của Pháp-Nhật, nhưng vẫn không tránh khỏi chuyện đổ máu vì những âm mưu đen tối cá nhân mượn chủ nghĩa Cộng sản làm cứu cánh cho tham vọng của mình.  Ngoài đảng Cộng sản ra, không ai có thể nói rằng Hoa Kỳ đã khởi sự của cuộc chiến VN.

Mặc dù nếu có vặn vẹo diễn dịch với những nhân tố quan yếu như geopoliticsrealpolitikCold War giữa Cộng sản Quốc tế thứ 2 , 2 rưỡi, thứ ba, thứ tư và Tư bản hay Thế giới Tự do v.v.. để đổ thừa rằng Mỹ và các thế lực thù địch đã lèo lái và đánh mất chính nghĩa của Cộng hòa cho CS. Thì câu hỏi cuối cùng mà người Việt nên hỏi là:

Có phải nước Việt Nam là của người/dân tộc VN không, hay là nói như ông Thiệu: nếu Mỹ viện trợ VN $300 triệu thì ta đánh theo 3 trăm triệu, nếu cho $700 triệu (Mỹ kim) thì ta đánh theo $700 triệu?

Một chuyện đáng xấu hổ là thay vì chấp nhận trọng trách thua cuộc của miền Nam do những thiếu sót và lỗi lầm đã nêu ra, như đã tin và tùy thuộc vào (người) Mỹ quá đáng. Đến bây giờ không nhận thức được chuyện đó lại đi bêu rêu chuyện thiếu sót của người làm phim Mỹ. Có giỏi thì chính mình tự làm nên cuốn phim của mình hà cớ gì lại bới móc chuyện người ngoại cuộc!

Oải lắm! Kin lỗi quý đọc giả khi phài viện dẫn, lý giải dài dòng như trên.

________________________________________________

(1) Xin xem bài của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích về Hiệp định Paris 1973

http://danquyenvn.blogspot.sk/2015/01/hinh-nhu-la-hoa-binh-cach-ay-42-nam.html#more

© Nguyễn-Khoa Thái Anh

Sau đây là bản dịch Dự án của bà Kennedy và đội ngũ của bà:

Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu/The First Days Project Story là một sự hợp tác giữa StoryCorps và AMERICAN EXPERIENCE/KINH NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, nhằm mục đích thu thập, bảo tồn, và ngợi ca những mẫu chuyện của những người tị nạn Việt-Mỹ và các cựu chiến binh Việt Nam. Dự án mong mỏi mời các thành viên trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt và các cựu chiến binh Việt Nam có quan hệ mật thiết với cộng đồng người Việt di cư sau chiến tranh; quý vị sẽ được dành cho 40 phút không bị gián đoạn để trò chuyện với một người thân hay bạn bè, nhằm ghi lại kinh nghiệm tị nạn Việt Mỹ qua tiếng nói của những người đã kinh qua giai đoạn này.

VỀ DỰ ÁN CÂU CHUYỆN NHỮNG NGÀY ĐẦU

First Days Story Project/Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu là một phần sáng kiến của bộ phim tài liệu Last Days in Vietnam/Những Ngày Cuối cùng tại Việt Nam, khởi xướng việc tiếp cận và nối vòng tay lớn với cộng đồng Việt. Được sản xuất bởi KINH NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, Những ngày cuối cùng ở Việt Nam thuật lại bằng hình ảnh những ngày hỗn loạn cuối cùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam và nói lên câu chuyện thương tâm về lòng dũng cảm và khả năng sống còn của người dân vượt biên miền Nam, và các nhân viên quân lực Hoa kỳ, trong nhiều trường hợp, đã không tuân lệnh cấp trên để nỗ lực cứu trợ người Việt di tản. Bộ phim soi rọi nhiều tình huống trong những ngày cuối cùng đó. Bốn mươi năm sau, Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu hy vọng sẽ ghi lại những mẫu chuyện của cộng đồng Việt-Mỹ và cựu chiến binh Việt Nam trong những ngày đầu của họ tại Hoa Kỳ sau cuộc chiến. Kết quả nội dung của các mẫu chuyện này sẽ được chia sẻ trên một trang mạng truyền thông đa dạng và sẽ được lưu trữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Đây là những câu chuyện đã tạo nên một phần quan trọng lịch sử quốc gia của chúng ta, và chúng tôi muốn lưu giữ chúng cho các thế hệ mai sau.

CÁCH LÊN LỊCH PHỎNG VẤN

Các mẫu chuyện sẽ được thu thập vào đầu năm 2015 thông qua các quan hệ đối tác ở các thành phố sau đây:

· San Jose, CA

· Westminster, CA

· Houston, TX

· Seattle, WA

· Boston, MA

· Falls Church, VA

Quý vị có thắc mắc về dự án và lịch trình, xin vui lòng liên lạc với cô Vũ Ngọc-Trân tại: tran_vu@wgbh.org

VỀ STORYCORPS

StoryCorps là một tổ chức phi lợi nhuận Hoa kỳ có sứ mệnh cung cấp cho người dân thuộc mọi tầng lớp và đức tin khác nhau cơ hội để ghi âm, chia sẻ và lưu giữ những câu chuyện về cuộc sống của tất cả chúng ta. Kể từ năm 2003, gần một trăm ngàn người thường dân đã ghi âm câu chuyện của họ với StoryCorps. Ngoài việc là một trong những dự án lớn nhất lịch sử truyền khẩu thuộc thể loại này, hàng triệu người nghe StoryCorps phát thanh hàng tuần qua chương trình Buổi Sáng/Morning Edition của NPR.

VỀ KINH NGHIỆM HOA KỲ/AMERICAN EXPERIENCE

Trên hai mươi lăm năm nay, American Experience/Kinh nghiệm Hoa Kỳ là một chương trình truyền hình về lịch sử được xem nhiều nhất trên vô tuyến, và đã mang lại sức sống cho những nhân vật có tên tuổi, chính những câu chuyện sử thi này đã định hình được quá khứ và hiện tại của Hoa Kỳ. (Thái-Anh dịch)

Vũ Ngọc-Trân

Điều phối viên dự án

Những Ngày Cuối cùng ở Việt Nam

Kinh nghiệm Hoa Kỳ

WGBH Boston

tran_vu@wgbh.org

617.300.5963

53 Phản hồi cho “Không Phải Ngày Cuối Cùng của Việt Nam: Last Days in Viet-Nam”

  1. Austin Pham says:

    “nếu Mỹ viện trợ VN $300 triệu thì ta đánh theo 3 trăm triệu, nếu cho $700 triệu (Mỹ kim) thì ta đánh theo $700 triệu”.
    Giá nào cũng phải đánh, chứ không chờ chết-Đó là cái ý nghĩa của câu nói được trích dẫn, nếu có. 1 câu nói có nhiều cách hiểu, hiểu như thế nào thì tùy vào tâm trạng của mỗi người.
    Khi chúng ta đánh lại cộng sản là đánh cho bản thân của chúng ta, cho gia đình của chúng ta, cho vận mệnh của chính chúng ta. Kẻ cố tình diễn đạt việc VNCH cầm súng đánh nhau với cộng sản bắc việt là vì quyền lợi của Mỹ, là do thân phận đánh thuê thì kẻ đó là tên xỏ lá, hoặc đần độn yếm thế.
    Người Mỹ không phải là quân xâm lược. Tối thiểu, sự hiện diện của họ cũng đã giúp miền nam tồn tại được 21 năm, chúng ta chỉ không được may mắn như Nam Hàn ở thế kỷ 21 mà vẫn còn 30 ngàn quân Mỹ với “gót giày rầm rộ” giẫm đạp tại xứ Kim Chi.
    Khi tác giả viết “Chính ra Mỹ phải là đồng minh của VN chứ không phải VN phải làm đồng minh của Mỹ. Vì cuộc chiến trước và sau là cuộc chiến của VN, chứ không phải của Mỹ tuy rằng VN sau nền Cộng hòa thứ hai đã để cho Mỹ thao túng cuộc chiến vì chế độ quân lực và lãnh đạo yếu hèn.” là anh ta đang nói chuyện ngược ngạo. Thân phận của mình lúc đó là tấm giẽ rách, khả năng không có để tự bảo vệ mình thì không làm đồng minh với Mỹ thì làm đồng minh với ai? ngay chính trong trường hợp của VN bây giờ cũng phải làm đồng minh với Mỹ. Hoàn toàn không có sự chọn lựa khác. Tôi không chụp mũ anh, nhưng lý luận của anh không khác gì tụi vẹm.
    Chiến tranh vào những ngày tháng đó nếu chỉ cần cái lò rèn để làm ra vũ khí thì chúng ta không cần Mỹ. Tuy nhiên thực tế không phải như vậy. Bắc việt khởi chiến với sự tiếp sức của phe cộng sản bằng lựu đạn, súng trường, đại bác. Ngoài ra, nếu cho rằng việc lật đổ ông Diệm và sự cho phép Mỹ vào miền nam đã làm chúng ta mất đi chính nghĩa và khiến chúng ta thua cuộc là sai. Chúng ta thua là vì chúng ta chỉ phòng thủ mà không có “điều kiện” để tấn công. Kẻ có điều kiện để tấn công lại không muốn làm việc đó.
    Chính nghĩa không phải là lý do thắng bại trong chiến tranh, mà nó là lý do khiến người ta không chịu bị khuất phục. 1000 năm VN bị đô hộ là vì người VN không có chính nghĩa hay sao?

  2. tèo says:

    Trong cuộc họp có Mac Cain (cộng hòa) vói những người liên hệ chiến tranh vn 40 năm qua,ong henry kisinger ,91 tuổi ,đã bị một số biểu tình phản đối ,gọi ong là tội phạm chiến tranh vì đã bán đứng vnch ,đòi bắt Ông.Mc Cain thương nghị sĩ CH đã dùng lới lổ mảng đẻ gọi nhũng người biểu tình và gọi cảnh sát QH giải tán họ…
    Có người nói là nếu Nixon không chọn Kiss làm BT/BNG thì có lẻ tình hình VN đã đỏi khác.Tên Do Thái đã bán đứng đồng minh vnch vì phải bênh vực Do Thái ,tổ quốc của y lúc đó cũng đang lâm nguy. Và chính phủ Mỹ lúc đó thiếu sáng suốt và từ đó Mỹ thua vncs và nay phải chịu khốn đốn vói TC…
    Cuối buổi họp ,hai nười đàn bà,tay đỏ như máu,tiến sát bàn của kissinger và liền bị cs quốc hội bắt đi !
    (đọc hết bãn tin ở báo “người việt ” hoặc gỏ chử “biểu tình chống Henry Kissinger”

    Cuộc chiến vừa qua là giữa cs xâm lược theo lênh QT Đỏ. và qgvn.Hai bên đều co bạn bè giúp đở…Đây không thể coi là cuộc nội chiến như TNphân tranh.
    Cho nên vai trò của Kis trong vụ này là rất xứng đáng được goi là “Kiss:tội ác chiến tranh”
    Tác giã vào coi đẻ biết vì sao Ông THiệu “nuốc mắt đoanh tròng” và tuyên bố “đánh VC tới cùng ,dù chĩ cón quân phí 700 hoạc chĩ còn 300.” Nghĩa là Đanh theo kiểu nhà nghèo,đánh đến cùng “kẽ xâm lược” ,nhuôm đỏ VN: những người cs không tim óc : Bọn TAM VÔ ác ôn côn đò ,bán nước cầu vinh…
    Gần đay thủ tướng do thái lại qua Mỹ vận động .TT Obama lơ (không tiếp) .QH Mỹ (Công Hòa) mời Do Thái ra điều trần trước QH…
    Không khéo lại chia ĐNA cho Tàu “quản lý’ còn Mỹ quay lại với Do Thái (như khi xưa) nếu đãng CH lên nắm quyền năm 2017.
    Đó là chưa kể những gì Obama đã đang làm cũng có thể Biến Mất vì đãng của anh nhà giàu này. (Tin tức/NV.)
    (t.)

  3. Trích “Bốn mươi (40) năm sau cuộc thất thủ của miền Nam, nhiều người Việt còn rất cay đắng vì những lý do đưa đến sự thôn tính miền Nam của Bắc Việt.”
    Thưa ông Nguyễn Khoa Thái Anh, chỉ có những tên đón gió trở cờ mới không cay đắng vì việc CS Miền Bắc xâm lăng thôn tính Miền Nam. Chúng tôi không đổ lỗi cho ai, chúng tôi đã làm tất cả những gì một người lính có thể làm được vào những năm tháng ấy. Còn ông , ông đã làm gì vào những tháng năm ấy? để ngày hôm nay ông mỉa mai những người cay đắng.Chỉ có con chó mới không cay đắng khi phải rời bỏ quê hương vì cộng sản.
    Tôi không bênh ông VVL, vì ông ấy cũng gần giống như ông, nếu người ta giao cho ông ta cái việc mà ông làm trong cuốn phim này thì ông ta cũng giống ông mà thôi.

    • tudo says:

      Cám ơn….Đoàn Trọng Hiếu . Rất cãm phục …cãm phục . Nhửng Người..! (ngộm…!!! ) Họ bị bệnh nặng khó chửa lắm… .

  4. Pham Minh says:

    Phải công nhận đây là bài viết về hình thức thì luộm thuộm từ câu cú, diễn ý đến bố cục. Về nội dung thì hời hợt đầy cảm tính lẫn định kiến. Nếu không nói tác giả có ý đồ “lăng ba vi bộ” thì qua một số phát biểu về cuộc chiến Việt Nam cho người đọc thấy, vấn đề quá tầm của tác giả rồi.
    Nếu bàn luận hay phản biện để khai tâm được nhận thức của tác giả về cuộc chiến VN , chắc phải mất nhiều giấy mực và thời gian. Mà cũng chưa chắc được và chắc không ai có tham vọng này.

    Tôi còn nhớ mấy năm trước, có một sĩ quan cấp úy viết bài chửi ông Vũ Văn Lộc và những sĩ quan, lãnh đạo cao cấp VNCH đã hèn, làm mất miền Nam VN. Trong bài trả lời ông Giao Chỉ có một câu tôi nhớ đại khái: ‘… chửi nữa đi em .Đàn anh các anh ngày đó hèn quá đã làm mất nước. Thật đáng chửi lắm. Chửi đi em. ” Xin phép ông Giao Chỉ cho tôi thêm: Chửi đi em, “giậu đổ thì bìm leo” mà. Ngày đó em có trốn quân dịch hay theo đám phản chiến, ăn bả của VC, xuống đường biểu tình phá nát hậu phương miền Nam, khiến cho các anh, thù trong giặc ngoài đỡ không nổi. hay ngày nay em có muốn/đang “theo đóm ăn tàn” cũng được. Dù sao thì lỗi cũng ở “qwa” mà.
    Trở lại câu TT Thiệu nói v/v viện trợ 300 triệu, 700 triệu trong ngày bàn giao chức vụ TT cho ông Trần Văn Hương. Tôi xác nhận là TT Thiệu có nói câu đó. Lúc đó tôi đang có mặt ở Saigon và nghe từ đầu đến cuối bài phát biểu này. Việc nước mắt ông có đoanh tròng hay không tôi không thấy nhưng lời phát biểu của ông có nghẹn ngào khác với lời lẽ hùng hồn thường ngày. Nước mắt ông có đoanh tròng thì người lương thiện hiểu rằng ông thấy việc HK cúp viện trợ, rút bỏ VN thì VN sẽ mất về tay cs và những ngày tới không biết số phận của quân dân miền Nam sẽ ra sao? Kẻ địch và người thiếu lương thiện thì suy diễn khác. Tùy tâm địa của mỗi người.
    Thú thật khi nghe ông Thiệu trách TT Nixon không giữ lời hứa, nay viện trợ 300 triệu đánh theo kiểu 300 triệu v.v… tôi có bị shock. Lúc đó tôi là một sĩ quan trẻ mới ra trường, còn nhiểu “lửa” nên thực sự có nãn lòng về vị TTL của mình. Nhưng chỉ thời gian ngắn sau thôi, trong trạị “cải tạo”, qua trao đổi với anh em “cải tạo viên” thuộc các đơn vị tác chiến, tôi được biết từ những ngày đấu năm 1975, nhiều phi cơ, tàu bè của miền Nam đã không còn đủ xăng, dầu để tuần tiểu, tham chiến. Quân chủ lực mà pháo hay súng cá nhân cũng không còn đủ đạn để bắn, cứ sử dung như là quân du kích. Miền Nam cũng như miền Bắc đâu có bên nào chế được đạn dược, xăng dầu? Miền Nam thì nhờ Mỹ viện trợ, miền Bắc thì TQ và LX viện trợ. Những ngày cuối Mỹ rút ra, LX thì gia tăng viện trợ gấp 4 lần trước kia, quyết “ta-pi” đánh vỗ mặt Mỹ để rửa hận thì miền Nam chịu sao nổi? Nếu tiếp tục đánh, miền Nam hết vũ khí, hết cơ phận thay thế, hết đạn dược, xăng dầu thì đánh được bao lâu? Tầm vong vạt nhọn và đưa lưng ra đỡ đạn hay sao? Viện trợ 300 triệu thì đánh kiểu 300 triệu nghĩa là đánh rất kiệm ước để cầm cự chờ chết . Viện trợ 700 triệu thì rộng rãi hơn một chút nhưng rồi cũng sẽ hết. Lấy gì đánh nữa. Nếu nói, phát biểu như vậy là tùy thuộc vào Mỹ, là lính đánh thuê, trả cho bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu ! Vậy thì các vị quân sư này cho cao kiến đi. Lúc đó các vị đang ở đâu và đang làm gì? Và, giả sử như bây giờ qúy vị là TT Thiệu thì qúy vị sẽ làm gì? Ngày đó, tôi đã hiểu được ý của câu nói này là thực tế với tình hình chiến sự lúc bây giờ, có thể do “bức xúc” trong tình huống lúc đó mà TT Thiệu đã phát biểu không khéo, để cho địch và kẻ xấu cố tình khai thác, xuyên tạc chứ tôi không nghĩ là phát xuất từ bản chất hèn, ỷ lại hay đánh thuê.
    Được đi ra ngoài sống ở các nước văn minh, học được chút kiến thức rời rạc rồi quay ngược lại để nhận xét phê phán việc làm của những người trách nhiệm từ 40 năm trước, trong hoàn cảnh ở một nước mới phát triển trong chiến tranh suốt 20 năm . Mọi thứ đều giới hạn, trói buộc chủ quan cũng có, khách quan cũng có, cá nhân tôi cho rằng những người nặng lời phê phán này chỉ là thứ “giậu đổ bìm leo” thôi. Học đòi làm người cao kiến. Chả ra gì.
    Những ngày gần đây cảm thấy “lười” ghé vào quán ĐCV rồi. Cũng thấy buồn buồn.
    PM

    • Kha says:

      Tôi cũng đã nghe TTThiệu nói câu này trong tâm trạng xúc động của ông lúc đó và sau này tù chung với các anh em từng làm Tiểu Đoàn Trưởng các tiểu đòan tác chiến,anh em cũng cho biết tình trạng đạn dược thiếu thốn như trên.Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định và phê phán của PM.
      Những kẻ ra đi quá sớm năm 1975 và những kẻ không biết gì nhiều về cuộc chiến Việt Nam rất dễ bị lèo lái bởi những bài báo và sách vở một chiều của Mỹ làm cho sai lạc.
      -Một người quen biết với tôi,cựu nhân viên sở Mỹ trước 1975,tới Mỹ năm 1975,trong một lần nói chuyện cách nay gần 20 năm đã thốt ra một câu với tôi:”Cái Quân Đội VNCH đó chẳng chịu chiến dấu gì cả!”(SIC).Tôi đã gần như nổi điên khi nghe câu nói này và phản ứng lại rất gay gắt!
      _Vì phải tìm tài lieu cho một thằng cháu rể người Mỹ về cuộc chiến Việt Nam tôi đã phải mày mò vào Google để phải đọc một số bài viết của người Mỹ.Tuyệt đại đa số họ coi như đó chỉ là cuộc chiến giữa Mỹ và Bắc Việt.Có vẻ như người Việt không có mặt trong cuộc chiến đó!Nếu có đề cập đến thì là những chuyện tiêu cực.Phim ảnh cũng vậy.
      Loại người nói trên hiểu về cuộc chiến và vai trò QLVNCH qua lăng kính đó!
      Chán lắm!

  5. Nguyễn Khoa Két Mậu Thân says:

    Qua có nhớ hình như thằng NKTAnh này từng theo rửa đít cho mụ Vc Côn tằng tôn Ninh, dòng giống của những thằng chó đẻ như Hoàng phủ ngọc Phan/Tường, N đắc Xuân, v.v…thì phải?

    Nguyễn Khoa Két Mậu Thân

  6. TT says:

    Mời NKTA đọc thêm để mắt sáng hơn

    Chuyện Tù Cải Tạo Của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia VNCH

    Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

    Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

    Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

    Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị
    phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.

    Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

    Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

    Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

    Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

    Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo dài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

    Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

    Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

    Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị
    chuyển tới trại Long Thành.

    Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù
    rải rác ở đâu.

    Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

    Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

    Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

    Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi
    vào bẫy sửa sai không ra thoát.

    Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão.
    “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

    Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

    Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

    Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

    “Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

    Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

    Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

    Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

    Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

    Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

    Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

    “May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

    “Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

    Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

    Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

    Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

    Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

    Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

    Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến
    được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

    “Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

    Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

    Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà
    chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

    Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

    Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

    Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

    Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt
    được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng
    Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
    Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm chất xám như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?

    Trần Đỗ Cung

    • NÚI NGÀN says:

      ĐỌA ĐÀY

      Tại sao đày đọa con người
      Hòa bình lập lại đúng đời phải vui
      Bắt đi cải tạo mút mùa
      Thật là khiếp đảm lòng người từ đây
      Bao nhiêu mỹ ngữ rõ hay
      Khi thành thực tế mới bày hết ra
      Đời sao bao nỗi xót xa
      Tình người đến thế quả là kiểu chi
      Chỉ vì lòng dạ thị phi
      Nhìn người nào có khác chi giặc thù
      Chẳng qua ý thức âm u
      Mới thành đày dọa con người thế kia
      Tạo nên lịch sử ê chề
      Mai sau chắc hẳn người đời vạch ra
      Khác nào kiểu chuyện tà ma
      Miệng hô cách mạng rõ là hư danh
      Nhân quần ý nghĩa tinh anh
      Đọa đày kiểu đó dạ đành ghê thay
      Hỏi ai trách nhiệm chuyện này
      Ô danh lịch sử sau này vậy thôi
      Chiến tranh dẫu đã hết rồi
      Hận thù tiếp nối thảy đều ra chi

      BÓNG NGÀN
      (03/02/15)

    • tudo says:

      Con mắt đả…vì…? nên tâm phải như ….?? lý trí của ? tội nghiệp lắm….!!! ; còn lão H.Kiss phải sống…để nhận nhửng Oan Hồn ! đeo đuổi theo đến cuối đời…!!!! .

  7. vybui says:

    Tôi chưa coi phim “Last Day in Vietnam” dù có đọc bài báo cuả ông Vũ Văn Lộc trên Cali Today News, nên không đủ dữ kiện để nói nhận định của ông Lộc về cuốn phim, nhưng tôi có thể căn cứ vào ý tưởng, lập luận cuả Nguyễn Khoa Thái Anh qua bài chủ, để nói với anh đôi điều:

    1) Khi có một công dân Mỹ lên tiếng chỉ trích TT Obama về cung cách điều hành quốc gia (đối nội, đối ngoại) trong những tháng gần đây, không biết rằng Văn Phòng Báo Chí toà Bạch Ốc có trả lời người dân kia giống như luận điệu cuả NKTA trả lời ông VVL: ” Có giỏi thì ra làm TT đi để chứng tỏ tài kinh bang tế thế, hà cớ gì lại bới móc chuyện cuả “người khác”!

    2)NKTA đã để mình rơi vào cái vũng lầy do anh tạo ra (như anh vừa thách thức ông VVL) khi lên án những người lãnh đạo VNCH là tồi, dở, là chỉ biết tin tưởng vào “đồng minh” mà không lo “tự lực cánh sinh”. Chỉ thấy NKTA ” nói leo” chứ không thấy anh cho biết làm cách nào để khỏi phải lệ thuộc, dùng chính sách nào để tự lực, tự cường. Dù cuộc chiến đã kết thúc 40 năm với những đào xới qua sách báo, phim ảnh, qua những bạch hóa cuả các cơ quan liên hệ trong chính quyền Mỹ, dư luận quốc tế cũng như cuả người Việt cũng chỉ đua nhau trách cứ lãnh đạo VNCH như NKTA đang làm chứ chưa ai vạch ra được là trong hoàn cảnh thực tế đó, những lãnh đạo kia nên và phải làm gì để thoát khỏi cảnh lệ thuộc, ngoài một cách nói chung chung là phải “tự lực, tự cường”. Mà nên tự lực, tự cường như Đệ Nhất Cộng Hoà ư? Chỉ mới manh nha có ý định dùng chính tài nguyên cuả đất nước ( gỗ rừng) để có một cái quỹ hầu tạm dùng trong một vài trường hợp, trong một vài lãnh vực nhỏ, sau khi thấy thái độ cuả anh nhà giàu ỷ tiền, thì đã bị chính người BẠN QÚY qua truyền thông nước bạn “vu vạ” cho là cho người trong gia đình “kinh tài”, tham nhũng!

    3) Không cứ gì ông VVL lên án HK, đồng minh cuả VNCH, “bỏ rơi” VNCH mà dư luận thế giới và chính giới (một số) HK cũng công nhận điều này. Mà chỉ có VNCH bị bỏ rơi đâu? Gần và thân cận với VN là Cam Bôt, là Trung Hoa Dân Quốc đều đã “ngậm bồ hòn làm ngọt”, có điều THDQ may mắn hơn khi bị “bỏ rơi” thì Trung Cộng không đủ khả năng để lao vào một cuộc chiến mới, cũng như đã rút được bài học chiến tranh Triều Tiên. Nào có phải chỉ Nguyễn Văn Thiệu “cay đắng” với đồng minh, ông Sirik Matak, Thủ Tướng (?) Cam Bốt trong lá thư ngày 16/4/1975 gưỉ lời cám ơn ông Đại Sứ Mỹ đã chẳng tự đấm ngực ăn năn vì đã “quá tin” vào HK đó sao, có điều khác là ông ta từ chối di tản và cùng toàn gia đình chịu chết dưới tay Khơ Me Đỏ. Nếu Nguyễn Văn Thiệu và lãnh đạo VNCH cũng can đảm như thế thì đã bớt lý do cho NKTA dè bỉu là không biết tự trách mình trước (tiên trách kỷ)!

    4) Ai là “đồng minh “cuả ai cũng đáng quan tâm lắm theo cái nhìn cuả NKTA, bởi vì đây là cuộc chiến cuả VN, chống Cộng là do VN chống. Do đó VN “chọn” Mỹ làm đồng minh, chứ có phải cuộc chiến chống Cộng là cuả “thế giới tự do” mà Mỹ là đầu tầu đâu mà cần phải dùng VN như một đồng minh? Dưới mắt cuả NKTA thì làm gì có cuộc chiến nào gọi là “ủy nhiệm” mà đổ vấy cho HK là bỏ rơi ‘đồng minh”?
    Chả lẽ một ông dù là ‘giáo làng” cũng không phân biệt được cách dùng chữ đồng minh là để chỉ những những nước, những lực lượng có cùng một mục tiêu hay cùng một chiến tuyến chống cùng một kẻ thù hay sao mà phải “chẻ chữ” cho rạch ròi?
    Nếu chỉ có VN cần đồng minh Mỹ vì đó là cuộc chiến cuả (riêng) VN thì NKTA và những người có cùng ý nghĩ như anh phải cần bao nhiêu nước bọt để nhổ vào sự thực?

    5) Cho đến bây giờ sau 40 năm, tôi cũng chỉ nhớ mang máng là có nghe ông Nguyễn Văn Thiệu tối 21/4/1975 trên truyền hình tố cáo Mỹ nhân khi ông ta tuyên bố từ chức. Bị cơn giận lấn át, và không theo sát bản văn, ông ta đề cập đến chuyện 700 triệu, 300 triệu (tôi có xem lại một đoạn ngắn được chiếu lại trong blog cuả Lê Mai, không rõ tay này là cựu thứ trưởng ngoại giao CS hay tay này là một nhà văn, nhưng đoạn này họ (CS) cũng không nói gì đến lời ông NVT nói về chuyện 700 triệu thì “ta” đánh theo 700 triệu, nếu chi 300 triệu thì đánh theo 300 triệu, mà NVT chỉ “than” là HK chi tiêu 300 tỷ mà không thắng được CS, nhưng lại cò kè và chỉ viện trợ cho VN 300 triêu để tiếp tục cuộc chiến thì có khác gì tiêu 30 đồng để chi dùng cho một cuộc nghỉ ngơi ở khách sạn 5 sao).

    Giả sử như ông NVT có nói như vậy thì cũng cần phải đặt câu nói kia vào trong bối cảnh cuả nó. Xin nhớ là trong bài diễn văn này ông ta có đề cập đến chuyện rút khỏi quân khu I và II (gây nên một sự đổ vỡ không thể biện hộ được), cho nên câu nói “tự phát” đó thay vì nói theo sự xuyên tạc cuả CS với hàm ý “đánh thuê” thì những người có công tâm nên diễn dịch như thế nào? Có nên là câu nói vói hàm ý “LIỆU CƠM GẮP MẮM”? Chúng ta chỉ có 300 triệu viện trơ thì phải (đánh) điều hành cuộc chiến trong phạm vi eo hẹp đó bằng cách thu gọn lãnh thổ, bỏ những vùng xa xôi hay it quan trọng để tập trung vào duyên hải miền Trung và những vùng quan trọng, trù phú như quân khu 3 , quân khu 4. Nếu có được 700 triệu chúng ta sẽ “đánh” theo cách có 700 triệu, có nghĩa là sẽ giữ những vùng có ưu tiên thấp hơn. Đáng tiếc rằng trong một bài nói có thêm vào những đoạn tuỳ hứng tối nghiã đã để cho CS xuyên tạc và những người như NKTA hí hửng trích dẫn và lấy làm…đắc ý!

  8. Trúc Bạch says:

    Trả lời “phản hồi” của tác giả NKTA và (đồng thời) cũng trả lời phản hồi của ông độc giả Lữ Út .

    Trước hết là cám ơn ông NKTA đã có trả lời – nhưng câu trả lời của ông thật không xứng với một “cây bút” có trách nhiệm, vì khi ông “trích dẫn” một câu nói của ai đó – đặc biệt là những người của công chúng – thì nhất định người viết (có tư cách) phải chuẩn bị kỹ càng những tài liệu khả tín, và chỉ viết lên báo, khi nào chắc chắn tài liệu mà minh trích dẫn đó là gốc, và không bị diễn dịch theo kiểu bẻ cong – như cách mà bọn bồi bút, văn nô của CS vẫn thường dùng .

    Việc ông NKTA trích dẫn một câu nói mà ông “nếu nhớ không lầm…” của một người đã chết – có nghĩa là một người không còn cơ hội để “tự minh oan” thì thiết nghĩ , dù là một Đọc giả bình thường như tồi cũng vẫn có quyền chất vấn hay đòi hỏi ông phải giải bày cho có ngọn nguồn, mà không cần phải Minh Danh

    Việc một tác giả có tên tuổi đòi hỏi đọc giả bình thường như tôi phải cho biết căn cước với lời lẽ thách thức như ông Nguyễn Khoa Thài Anh thì rất giống với thái độ của các ông nhà báo viết trong các bào CAND (công an nhân dân) hay ANTG (an ninh thê giới) của đảng CSVN .

    Thưa ông NKTA, nếu báo DCV này yêu cầu hay buộc độc giả phải minh danh mới cho góp ý kiến, thì tôi nhất định sẽ minh danh; Còn việc ông “xin” tôi cho biết tên thật thì tôi từ chối lời “xin” này của ông, vì thấy không cần thiết .

    Thưa ông Nguyễn Khoa Thái Anh, Câu viết trước của tôi không hề có đụng chạm (theo nghĩa tiêu cực) đến giòng họ của ông – ngược lại – điều ước ao của tôi là sẽ mãi mãi được kính trong tất cả những người mang họ Nguyễn Khoa, chứ không hy vọng có trường hợp ngoại lệ nào nữa (vì tôi đã đặt một trường hợp ngoại lệ với người có tên Nguyễn Khoa Điềm rồi) .

    Phần trả lời cho đoc giả Lữ Út .

    Ông Lữ Út viết :

    “Tôi xin xác nhận dùm cho NKTH về đoạn trích dẫn ở trên. TT Thiệu trong bài diễn văn từ nhiệm ( trực tiếp truyền hình ) trao quyền lại cho PTT Trần Văn Hương đã nói như vậy.”

    Thưa ông Lữ Út, câu nói này (nếu có) của Nguyễn Văn Thiệu , thì dù hiểu theo nghĩa tích cực là :

    - Hãy tiếp tục “đánh”, dù phải “đánh” trong thiếu thốn, dù phải “dánh” trong ngân sách viện trợ eo hẹp (chỉ còn 300 triệu thay vì 700 triệu như trướdc) thì vẫn phải “đánh” ….

    Hoặc hiểu theo nghĩa tiêu cực như bọn bồi bút, bưng bô CS vẫn diễn dịch để bội nhọ VNCH là:

    - Nếu chủ cho 300 triệu thì chúng ta đánh theo 300 triệu, nếu chú cho 700 triệu thì chúng ta đánh theo 700 triệu …(Nguyễn Văn Thiệu dù sao cũng là ngưới có chút học thức, ông ta nhất định sẽ không nói một câu có ý nghĩa ngu xuẩn như thế này) .

    Vậy thì thưa ông Lữ Út, câu nói ấy phải được nói ra từ miệng của một người còn đang, và sẽ tiếp tục đánh (dù đánh để vệ quốc hay đánh….thuê), Một người có chút đầu óc phải hiểu ngữ nghĩa của cau nói ấy không phát ra từ miệng của một người sắp mất quyền “đánh” và đang (nhục nhã) trao quyền “đánh” cho người khác .

    Thêm một chi tiết nữa là theo ông NKTA thì ông Thiệu nói câu này mà “nước mắt doanh tròng”, có nghĩa là ông Thiệu biết rằng sẽ khó mà “đánh” nhưng vẫn phải quyết tâm đánh và tiếp tục “đánh” , thái độ này (nếu thực) của ông thiệu) là thái độ của người đang chiến đấu để bảo vệ tổ quốc chứ không phải là thái độ của người “lính đánh thuê”, vì với một ngưới lính đánh thuê thì tình thần của họ sẽ là “đúng giá thì đánh, không đúng giá thì ông zí vào” chư không tội vạ gì mà phải “biết chết vẫn cứ đánh” rồi thì “nước mắt doanh tròng” .

    Nếu họ không là kẻ thù, thì xin một chút lương tâm với người đã chết !

  9. Todo.com says:

    NKTA:”Thiết nghĩ nếu chịu khó nghiên cứu người ta có thể đào ra vô số những yếu tố đưa đến sự thất thủ của miền Nam, nhưng không ai với một thái độ bình tĩnh và từ tốn sau khi xem phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ của bà Rory Kennedy và những nỗ lực tìm đến cộng đồng Việt Nam của bà qua những dự án như: trình chiếu phim tài liệu này (có phụ đề Việt ngữ do người viết dịch) ở nhiều vùng trên nước Mỹ và hoàn toàn miễn phí. . . .
    “Có giỏi thì chính mình tự làm nên cuốn phim của mình hà cớ gì lại bới móc chuyện người ngoại cuộc!”
    (hết trích)

    Tôi chưa xem phim đó và có lẻ không cần nghiên cứu, vì một trong những yếu tố quan trọng đã làm cho VNCH lọt vào tay CS là nhiều kẻ ngốc trong thế giới tự do ăn phải cái Bã phân tuyên truyền của CS đã và đang tự phơi bày. Điển hình nhất là chị Mỹ: Jane Ponda. Còn miền Nam thì nào là Lý Chánh Trung, Ngô Công Đức, Nguyễn Ngọc Lan, Thích Trí Quang, Vũ Hạnh, Thích Nhất Hạnh. . . .miền Bắc thì ôi thôi. . . cả bầy không thể nào mà kể !

    Nói không cần nghiên cứu vì nhiều người biết tiền “bảo trợ” cho bà Rory Kennedy làm cuốn phim đó khó có ai mà nghiên cứu nổi vì thuộc vào loại “bí mật quốc gia”! Hy vọng nó không phải.
    Còn việc phụ đề Việt ngữ được tác giả làm giúp. . .hoàn toàn miễn phí. . . . .thì quả thật là một việc “từ thiện” khó có ai có lòng như vậy!
    Về chuyện bình tĩnh thì đúng 100%. Vậy đọc giả vui lòng nghe theo lời khuyên trên, nên bình tĩnh liếc qua liếc lại những đoạn Nhấn, Nhá, Kết, Nối. . .của phim và của Cả bài viết rồi cuối cùng từ tốn sẻ thấy lòi ra một cái Bã.

  10. NON NGÀN says:

    VÒNG QUAY LỊCH SỬ

    Lịch sử như con quay
    Nó quay bao nhiêu bận
    Tới khi tàn hơi sức
    Con quay phải bổ nhào !

    Rồi vòng quay lặp lại
    Như bao thứ trên đời
    Chẳng có gì cùng tận
    Chỉ khởi thủy lại thôi !

    Tại bao anh mù quáng
    Không nhìn rõ cuộc đời
    Cho địa đàng tối hậu
    Thành ảo ảnh lên ngôi !

    Bây giờ quả rõ ràng
    Việt Nam khởi điểm lại
    Từ kinh tế thị trường
    Hội nhập để tiến tới !

    Vẫn trong vòng quay lớn
    Của nhân loại thế thôi
    Chỉ do anh Các Mác
    Sử bậy hại cuộc đời !

    Nhưng quá khứ rồi qua
    Tương lai sẽ phải đến
    Hiện tại dẫu nhập nhòa
    Đêm xong trời lại sáng !

    Bởi màn đêm tri thức
    Dần dần cũng hé ra
    Mặt trời chân lý mọc
    Ánh sáng lại chói lòa !

    Nên thôi đừng nói Diệm
    Hãy thôi đừng nói Hồ
    Cũng thôi đừng nói Mỹ
    Và thôi đừng nói Nga !

    Chuyện đời chẳng đứng đó
    Lịch sử luôn dần qua
    Vấn đề là hiện tại
    Nằm trong tay chúng ta !

    Nếu thông minh tiến tới
    Còn ngu tối mù lòa
    Lớp sau hơn lớp trước
    Cây đời lại trỗ hoa !

    ĐẠI NGÀN
    (31/01/15)

Leave a Reply to Kha