WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Tháng 3 Thanh Tâm Tuyển rũ bỏ ký ức

 

Hắn rũ bỏ ký ức, và đi
Prélude Cho Những Chuyến Đi, Về (1982)

Rũ bỏ ký ức – ký ức người
Vài khúc dạo tặng tri âm (1988)

Tới lúc tôi phải viết như không có gì đã xảy ra, như không có gì biến đổi. Đến lúc nào tôi sẽ có thể có được điều như vậy? Để có thể viết trở lại (1993)

*
Thanh Tâm Tuyền sinh tháng 3 [13/03/1936] cũng mất tháng 3 [22/03/2006]

Bài viết ngắn tháng 3 [22/03/2015] này để tưởng nhớ 9 năm ngày mất Thanh Tâm Tuyền.

Thanh Tâm Tuyền tên thật Dzư Văn Tâm, sinh tại Vinh, Nghệ An. Mồ côi cha rất sớm. Đi dạy học từ 16 tuổi, viết truyện đăng trên báo Thanh Niên, TTT sinh hoạt trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội với Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp; cùng chủ trương tập san Lửa Việt. Di cư vào Nam 1954, TTT viết cho tuần báo Dân Chủ, Người Việt và là một trong những cây viết chủ lực tạp chí Sáng Tạo cùng với Mai Thảo, có ảnh hưởng lớn trên văn học Việt Nam khoảng từ 1956-1975 và cả những năm về sau này.

TTT bị động viên từ 1962, cấp bực cuối cùng đại úy. Sau 1975 bị đi tù 7 năm qua nhiều trại giam khắc nghiệt ngoài Việt Bắc. TTT ra tù 1982, ít ai biết mấy năm sau đó TTT đã mất đứa con trai lớn trên đường vượt biển; từ 1986 cho đến khi TTT mất, anh đã không ngừng khắc khoải trong vô vọng lần tìm tin tức và dấu vết đứa con mất tích ấy. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1990, sống trong ẩn dật. TTT mất ngày 22 tháng 03 năm 2006, khi mới bước vào tuổi 70.

Đã xuất bản:

_ Thơ: Tôi không còn cô độc (1956), Liên – Đêm, Mặt trời tìm thấy (1964, Sài Gòn), Thơ ở đâu xa (1990, Mỹ).
_ Truyện: Bếp Lửa (1957); Khuôn Mặt (1964), Dọc đường (1967), Cát lầy (1966), Mù Khơi (1970), Tiếng động (1970).
_ Một số tác phẩm chưa xuất bản trong đó có tiểu thuyết Ung Thư, đã đăng nhiều kỳ trên báo Văn, Sài Gòn, một tác phẩm quan trọng sau Bếp Lửa được TTT nhắc tới trong bài phỏng vấn 1993. (4)

 

Nguyễn Xuân Hoàng trong số báo Văn đặc biệt về TTT, đã viết: “Thanh Tâm Tuyền như ngọn cờ đầu của thơ tự do Việt Nam, người làm mới thi ca Việt Nam.” (2) Đặng Tiến khi viết bài tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền đã bày tỏ ít nhiều tiếc rẻ là “lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế.” Cũng vẫn Đặng Tiến viết tiếp: “bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. (3)

Thanh Tâm Tuyền nơi xứ tuyết

Ngoài những năm tháng tù đầy của TTT, trước và sau 1975, thỉnh thoảng tôi có dịp gặp TTT. Sang Mỹ, phương tiện đi lại dễ dàng nhưng TTT rất ít di chuyển và đi xa. Liên lạc với anh thường bằng thư, có lần qua điện thoại, đôi khi TTT gửi cho tôi cuốn sách mà anh đã đọc và thấy tâm đắc. Cũng để bạn đọc hiểu hơn về cuộc sống nơi xứ tuyết của TTT — như một nhà văn lưu đầy/ writer in exile từ một đất nước Việt Nam mà “tâm thái” anh thì không bao giờ muốn xa rời, sau đây là trích đoạn đôi ba bức thư trao đổi với Thanh Tâm Tuyền, như để chia xẻ với bạn đọc một chút riêng tư. (6)

St Paul 31-12-92

Anh Ngô Thế Vinh thân,

Ở đây trận bão lạnh từ bên ấy đang lùa sang, nhiệt độ xuống thấp hơn hai năm trước nhiều, âm độ F là sự thường, gió lạnh thổi có hôm xuống tới 40 – 50 độ âm, phố xá ướt át trắng xoá. Trước kia tôi cũng tưởng mùa đông chim chóc trốn tuyết hết, nhưng đã ở đây qua ba mùa đông, tôi ngạc nhiên thấy mình lầm. Chim chóc vẫn ở lại: quạ, bồ câu, chim xẻ… Bồ câu, chim xẻ đợi lúc có nắng tìm mồi quanh quẩn tại các công viên. Có lẽ chúng ở lại được với mùa đông nhờ trú ẩn trên những nóc mái của các nhà đều có hơi sưởi. Riêng có một loại cây ở đây không biết tên là gì, mùa đông lá héo chết nhưng bám chặt cành. Anh hãy tưởng tượng cả một lũng rừng khô úa trơ trơ giữa tuyết trắng. Tôi đã hỏi nhiều người và tra cứu nhưng vẫn chứa biết tên loại cây ấy. Khi lá của cây này rụng ấy là lúc mùa Xuân đã tới…

 

Nhận được thư anh năm đó 1992 và cho cả tới bây giờ, tôi vẫn cứ mãi bị ám ảnh mãi về một loại cây không biết tên, mùa đông lá héo chết nhưng bám chặt cành. Cũng là hình ảnh một TTT héo chết, nhưng tâm thái của anh thì vẫn bám chặt với một quê hương Việt Nam mà TTT không muốn xa rời.

 

St Paul 12-14-93

Anh Ngô Thế Vinh thân,

Gửi anh bài dịch của anh Phan Lạc Phúc đăng ở Úc để đọc. Tờ tạp chí Impressions du Sud đăng bài gốc tôi chưa nhận được. Khi có tôi cũng sẽ copy đầy đủ gửi anh xem… Anh cho gửi lời thăm và chúc lành của tôi cho hai người bạn thơ tôi. Nhân dịp đầu năm…

 

Ký giả Lô-Răng Phan Lạc Phúc, nguyên chủ bút báo Tiền Tuyến, là bạn văn trước 75 và cả bạn tù đầy lâu năm của TTT nơi các trại giam ngoài Bắc. Phan Lạc Phúc định cư ở Sydney, Úc châu từ 1991. Tác giả hai cuốn sách Bạn Bè Gần Xa (2000) và Tuyển Tập Tạp Ghi (2002) như một hồi ức về những thảm cảnh mà bản thân Phan Lạc Phúc và các bạn văn của anh đã trải qua. Với bút hiệu Huy Quân, Phan Lạc Phúc đã dịch “Thanh Tâm Tuyền, Thơ trong chiến tranh và trong trại cải tạo”, có xen thêm ý kiến của người dịch [ghi chú của người viết]

 

St Paul 11-12-94

Anh Ngô Thế Vinh thân,

Cám ơn anh về quyển sách anh gửi tặng “để đọc trên xa lộ”. Có lẽ phải chạy “xa lộ xuyên bang” mới thấy cái hữu dụng của loại sách này… Tôi tính sáng nay thứ bảy, sẽ chạy xe ra bờ hồ gần nhà và mở nghe…

Gửi tặng lại anh quyển tiểu thuyết đầu tay của Heny Roth: Call It Sleep. Lâu lắm, có đến mấy chục năm là ít, mới có cuốn tiểu thuyết bắt tôi phải đọc một “hơi”, nói là một “hơi” vậy, chứ cũng phải mất cả tuần lễ, vào những sáng sớm khi thức khoảng 3,4 giờ và những chiều tối… Hồi còn ở Sài Gòn, tôi có đọc trong Express hoặc Nouvel Observateur nói về Henry Roth và quyển sách của ông được tái bản sau 30 năm không được chú ý. Tôi vẫn nhớ lúc bấy giờ ông đang sống bằng nghề “lái vịt” và đối với tôi ông là nhà văn bẻ bút đi chăn vịt. Bấy giờ là đầu những năm 60, Salinger đã bỏ đi đâu biệt tích… Chỉ mong anh đọc và thấy thú vị.

Tiểu thuyết “Call It Sleep” của Henry Roth xuất bản 1934, viết về kinh nghiệm một bé trai lớn lên trong một ghetto cộng đồng di dân Do Thái vào đầu thế kỷ 20 ở New York. Cuốn sách ế ẩm phải 30 năm sau mới bán hết. Nhưng khi sách tái bản 1964, đã trở thành một best seller với hơn một triệu ấn bản, được tuần báo Times 2005 sắp hạng là trong số 100 cuốn sách tiếng Anh hay nhất kể từ 1923 [ghi chú của người viết].

Đây là một bức thư viết tay khá dài, phản ánh nỗi thao thức của TTT và ngưỡng tuổi cầm bút. Năm 1994, TTT mới 58 tuổi. Anh viết:

“Hồi trước khi biết phải ngoài 50 tuổi Stendhal mới viết nổi Le Rouge et Le Noir, tôi phục quá. Bây giờ thấy Henry Roth ngoài 70 mới viết trở lại, càng phục hơn, tuy nhiên cứ khoa học mà nói 50 tuổi thời Stendhal thì cũng bằng 70 tuổi thời này, anh có nghĩ vậy không?” Rồi TTT say sưa kể về cuốn sách mới của Roth: “Trong quyển sách mới, xen giữa những đoạn kể là những mẩu ‘độc thoại tự kiểm’ của nhân vật — người kể, dưới hình thức ‘cuộc đối thoại một chiều’ giữa người viết và cái ‘computer’… Vẫn bị ám ảnh bởi Call It Sleep hơn là chính tác phẩm mới — có lẽ bởi đề tài không khác.”

Sang Mỹ, TTT vẫn đọc thật nhiều và tích luỹ, anh cũng tiếp tục “lao động vinh quang” nhưng là trong tự do và tự nguyện, anh đi học và đi làm trở lại. TTT viết tiếp: “Cuối tháng này tôi sẽ bỏ chỗ làm xa về làm việc tại cái trường dậy nghề ở gần nhà, đỡ lo lái xe trong mùa đông và không khí trường ốc cũng hợp với tôi hơn. Nói để anh mừng cho tôi.”

St Paul 7-18-95

Anh Ngô Thế Vinh thân,

Lâu lắm không được tin anh. Gửi anh toàn bài trả lời phỏng vấn năm 93… thân, tâm

Như vậy là cách đây cũng đã 20 năm [ngày 18 tháng 7, 1995], TTT gửi cho tôi toàn bài phỏng vấn anh bằng tiếng Pháp. Thanh Tâm Tuyền giỏi ngoại ngữ tiếng Pháp và cả tiếng Anh. Rất sớm qua tiếng Pháp, anh đã tiếp cận rộng rãi với nền văn học thế giới nhưng có lẽ nguyên bản cuộc phỏng vấn này là bằng tiếng Việt do Lê Hữu Khoá, Université de Provence [Aix-en-Provence] thực hiện và dịch sang tiếng Pháp, sau đó bài được in trong tập La part d’exil: littérature vietnamienne / textes réunis et traduits par Le Huu Khoa; Publication de l’Université de Provence, 1995. (1)

 

Không có bản tiếng Việt gốc, qua Đinh Cường, tôi liên lạc được với tác giả bài phỏng vấn TTT, Lê Hữu Khoá nay đã chuyển sang dạy tại Université de Lille. Qua eMail 3/14/2015, anh Khoá cho biết anh đang đi công vụ đại học, không có mặt ở Âu Châu; bài phỏng vấn tiếng Việt của Thanh Tâm Tuyền nằm trong thư viện của anh tại Nice, rất tiếc là anh không có mặt tại Nice.

Trong khi chờ có được bản tiếng Việt gốc trọn vẹn của TTT, do vẫn muốn có một bài viết đúng vào ngày giỗ chín năm TTT, sau đây là trích đoạn bản lược dịch buổi nói chuyện trao đổi ấy – nhưng lại đi theo một đường vòng: từ bản gốc tiếng Việt của TTT dịch sang tiếng Pháp, nay dịch lại từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, tuy văn phong không phải của Thanh Tâm Tuyền nhưng hy vọng nội dung chuyển tải được những điều mà Thanh Tâm Tuyền thực sự muốn phát biểu, và có lẽ giúp người đọc hiểu tại sao và trong hoàn cảnh nào đã đưa tới sự chuyển đổi của TTT từ một nhà thơ tự do khai phá và cách tân của thập niên 1950-1960 nay cuối đời lại trở về với những thể thơ truyền thống. (1)

THƠ GIỮA CHIẾN TRANH VÀ TÙ ĐẦY
Trích phỏng vấn TTT của Lê Hữu Khóa

Thanh Tâm Tuyền một tên tuổi lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, với hai đóng góp đặc sắc trong đời sống văn học kể từ sau 1945. Về thơ, Thanh Tâm Tuyền đã dứt bỏ với thể thơ truyền thống có vần điệu, và ông là đại diện cho phong trào thơ tự do. Hai tập thơ đầu tiên Tôi Không Còn Cô Độc và Liên, Đêm và Mặt Trời Tìm Thấy đã khai sinh ra một thế hệ “làm thơ / fait de la poésie” và “không còn làm những câu thơ theo vần/ ne fait plus de vers”.

Về văn xuôi, tác phẩm đầu tiên cuốn Bếp Lửa đã đánh dấu một đoạn tuyệt/ point de non-retour so với kỹ thuật kể chuyện cổ điển. Ở Thanh Tâm Tuyền, sự cô đọng của ngôn từ góp phần vào sự tăng tốc nhịp điệu / accélération des rythmes và chủ động trong xúc cảm thẩm mỹ/ maitrise du sens esthétique.

Là tác giả được biết tới nhưng lại ít được giới phê bình nghiên cứu một cách sâu rộng trong khoảng thời gian chiến tranh 1954-1975, và ngay cho tới bây giờ Thanh Tâm Tuyền là tác giả đáng ngại nhất / le plus redoutable cho giới phê bình văn học Việt Nam, do phong cách sáng tạo phức tạp/ démarche créative complexe và cả lý thuyết văn học tổng hợp/ théorie littéraire synthétique của ông. Tất cả trên một cái nền sáng tạo mới của nhạc tính thi ca/ musicalité poétique.

Thanh Tâm Tuyền trong số các nhà văn hiểu rõ sự tàn phá đất nước Việt Nam do chiến tranh, ông cũng nếm trải sự đàn áp của độc tài toàn trị hiện tại. Thanh Tâm Tuyền đã sống nhiều năm trong tù đầy, qua các trại cải tạo dưới sự áp bức của chế độ mới giữa khoảng từ 1975 tới 1990 [Thanh Tâm Tuyền ở tù 7 năm ra tù 1982; ghi chú của người viết].

ttt

Kinh nghiệm văn chương trong chiến tranh 1954 – 1975

Ngoại trừ thơ, tôi [Thanh Tâm Tuyền], đã có hai thời kỳ ghi dấu bởi hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn thứ nhất là Bếp Lửa (1954) mô tả khung cảnh Hà Nội trước 1954, với những người ra đi cũng như những người ở lại, cả hai đều bị giằng co bởi những chọn lựa miễn cưỡng, sự chia ly hay cái chết. Tức thời đã gây phản ứng chỉ trích của mấy nhà văn cách mạng. Trong bài nhận định của tạp chí Văn Nghệ (Hà Nội), một cây bút phê bình đã chất vấn tôi: “Trong lúc nhân dân miền Bắc đang tung toàn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì nhân vật trong Bếp Lửa đang ở đâu ? ” Tôi đã trả lời: “Hắn đi về hướng huỷ hoại của lịch sử”, mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.

Cuốn sách thứ hai, Ung Thư (1970) có thể coi như một tiếp nối của Bếp Lửa. Ung Thư là một hiện hữu mà chúng ta chấp nhận giữa định mệnh phù du và sự lạnh lùng của cái chết. Cuốn sách ấy chưa hề được xuất bản. [tiểu thuyết Ung Thư đăng từng kỳ trên báo Văn từ 1964, là một tác phẩm quan trọng thứ hai của TTT sau Bếp Lửa, ghi chú của người viết]

Tài liệu chuyên đề La Part D'Exil của Đại Học Provence [1995] trong đó có bài phỏng vấn TTT của Lê Hữu Khoá

Tài liệu chuyên đề La Part D’Exil của Đại Học Provence [1995]
trong đó có bài phỏng vấn TTT của Lê Hữu Khoá

 


Kinh nghiệm văn chương trong tù cải tạo 1975 – 1982

Đối mặt với cảnh rối loạn và tình trạng hỗn mang khoảng thời gian sau 1975, tôi nghĩ rằng tôi đã sống hết cuộc đời mình, thời gian còn lại là phần thặng dư, tôi không còn bận tâm nghĩ tới nữa. Mất ảo tưởng toàn diện/ désillusion totale. Năm 1975, chế độ mới bắt tôi vào trại tù cải tạo cùng các bạn “đồng hội đồng thuyền”, chúng tôi rời đồng bằng đi về các miền núi với bình tĩnh và vô cảm, không tuyệt vọng và cũng không hy vọng.

Tôi đã nghĩ tới “biến mất/ disparaitre” không hy vọng trở về, như thứ cặn bã bị cuốn đi bởi cơn lụt của lịch sử/ l’inondation de l’histoire. Nhưng tôi đã lầm. Họ đưa chúng tôi ra Bắc, tới những cánh rừng già cô lập với thế giới bên ngoài, bỏ mặc tôi với thiên nhiên, tự do với “mục tiêu đi đốn gỗ mỗi ngày”, tôi đã tập leo và trượt núi chờ cơ hội đào thoát. Nhưng rồi mỗi ngày tôi chỉ tìm thấy con đường trở về trại.

Tại sao tôi gọi đó là trở về ? Có phải “chẳng còn hy vọng”, hay là sự vỡ mộng của con người bị ruồng bỏ, của con người tuyệt vọng ? Vào lúc này, tôi thực sự sống trong hy vọng không hiện hữu/ l’inexistence, trong một vùng bất khả xâm nhập, một tình trạng không còn liên hệ/ non-relation. Điều ấy không rõ ràng với tôi. Rồi tôi được thuyết phục rằng tôi đã được hồi sinh/ ressuscité, có nghĩa là thi ca đã trở lại, tôi hạnh phúc sung sướng. Tôi cũng đã bẽn lẽn như hồi còn trẻ, với những bài thơ đầu tiên, tôi dấu các bạn trong trại, tôi không dám đưa ra.

Khi anh sống vô cảm ngày qua ngày, không nghĩ gì tới tương lai, không hoài niệm quá khứ, không ưu tư với hiện tại, anh còn lại gì ? Vẫn còn cái gì đã hiện hữu trong anh, và điều ấy vẫn hiện hữu cho dù anh muốn hay không.

Để qua đi những ngày ảm đạm, với mưa, với hè nóng cháy, với sương giá, với bão tố, với những mùa thay đổi, tôi tìm niềm vui trong những thứ ấy, trong tôi, thứ duy nhất mà tôi mang theo, luôn luôn ở trong tôi.

Trong tôi còn lại gì ? Gia đình, bạn hữu. Những bài thơ, đã đọc và nhập tâm/ intériorisés, dĩ nhiên. Một khoảnh khắc tới, ký ức chuyển vận mau chóng, đọc những bài thơ cho riêng tôi. Nơi ấy anh có thể gặp những ánh sáng kỳ lạ. Thời gian của những tàn lụi/ le temps des ruines tăng sức cho thi ca.

Đằm mình trong thời gian “phi lịch sử/ sans histoire” hay đúng hơn không lịch sử từ bên ngoài/ sans l’ histoire de l’extérieur, người ta khám phá ra rằng những ngày, những tháng trong cuộc sống không định hướng, không mục đích, trần trụi. Tuyệt đối trần trụi. Không hiện hữu của đời sống/ inexistence de la vie đem tới sự thanh thản nội tâm/ paix intérieure. Trạng thái thơ thanh bình này/ état poétique paisible ngự trị trên một vũ trụ tĩnh lặng.

Từ đó mỗi bài thơ là một thời gian đóng kín/ temps clos, tách rời khỏi vận động của cuộc sống. Thời gian của lo âu bỗng trở thành thời gian cô đọng/ temps condensé, không có sự khác biệt nào giữa [thời gian] ngưng đọng và trôi qua.

Làm thơ trong trại tù cải tạo, cũng là trở về với thi ca truyền thống dân gian/ la poésie de tradition populaire. Chế độ làm việc trong trại là một ngày căng thẳng tám tiếng, không có cuối tuần; mỗi tù nhân có một vũ trụ riêng: một manh chiếu, năm sáu chục tù nhân trên dưới hai tầng giường, khoảng hơn trăm người trong một lán dưới một mái che. Viết là một xa xỉ: một chỗ ngồi, thời gian viết. Với nhịp độ áp đặt trên đám tù nhân trong rét lạnh, đói… ai còn dám nghĩ tới sáng tạo ? Ngay cả một thiên tài, một năng lực siêu nhiên cũng không thể vượt qua được những “ức chế” như vậy.

Tuy nhiên, trong tiếng Việt, người ta nói “làm thơ” chứ không ai nói “viết thơ”. Như vậy, người ta có thể làm thơ khắp nơi, trong bất cứ vị trí nào: khi đang đi, đứng, nằm, ngồi, khi tỉnh thức… Thi ca tới với bạn không hẹn trước, không định ngày, định giờ. Người ta không thể tìm vì không biết nó ở đâu. Chỉ còn là một công việc đơn giản: đón nhận và trao đổi với nó. Thơ đòi hỏi ở bạn một điều duy nhất: giữ cho được tiếng nói thuần khiết/ parole pure và sau đó tiếng nói ấy sẽ quyết định đời sống của chính nó.

Thơ thường kín đáo, đôi khi nó đi vào bằng cửa chính, đôi khi bằng con đường nhỏ, bạn lắng nghe và chú ý. Thơ chuộng sự ẩn mặt/ se masquer, che dấu/ se voiler, do đó nếu trí nhớ bạn không tỉnh thức, bạn sẽ không thể nhận diện nó.

Trong lúc bạn “lao động vì mục tiêu cách mạng”, thơ tới với bạn. Bất ngờ, giữa cánh đồng, giữa rừng rậm… Thơ tới, thơ bắt bạn dừng lại. Bạn bắt đầu thấy bầu trời và rồi quên đi những cử động máy móc. Thơ sớm đưa bạn tới một trạng thái nội tâm thanh tịnh. Sự tự-hiện-sinh/ autoexistence ấy đem tới niềm vui. Bởi vì khi thi ca buông anh ra, anh trở lại cuộc sống mà anh đã dám chối bỏ. Anh thấy cuộc sống này tự chuyển đổi thành tiết điệu của các câu thơ. Chỉ làm việc với đôi cánh tay, trong khi đôi tai đuổi theo những tiết điệu, nhạc tính của bài thơ. Sự hoà điệu này đem lại cân bằng cần thiết giữa giới hạn lao động trong những động tác và ký ức đang tích luỹ/ stocke.

Nhưng thực tế làm thơ trong trại cải tạo, sự khó khăn vẫn có đó. Vì không thể nào viết sửa/ rédiger những bài thơ, như trạng thái hạn chế cuối cùng của sáng tạo: niềm vui cao giọng đọc thơ và chia xẻ với bằng hữu xung quanh. Thơ phải được đọc và nghe/ la poésie doit être lue et écoutée, đó là số phần cuối cùng của thơ. Số phận của tiếng nói nhưng cũng là số phận ký ức của nhiều người.

Sau khi được trả tự do, trên đường trở về, việc đầu tiên mà tôi đã làm là tự thu mình và viết xuống những bài thơ trong trí nhớ của suốt thời gian bị giam cầm. Tôi là người sống sót, nhưng tôi không còn muốn là một nhà văn, như tôi đã từng luôn luôn ao ước bấy lâu; Tôi đã ghi trong ký ức tù cải tạo : “Tới lúc tôi phải viết như không có gì đã xảy ra/ comme si rien s’était passé, như không có gì biến đổi/ comme si rien n’était modifié.”
Và bây giờ tôi tự nhủ : “Đến lúc nào tôi sẽ có thể có được điều như vậy ?” Để có thể viết trở lại/ pour re-écrire.

Hết phần trích dẫn
Thanh Tâm Tuyền, La poésie entre la guerre et le camp
Propos receuillis et traduit par Lê Hữu Khóa

Đọc thơ Thanh Tâm Tuyền 1956 – 1990

Phục Sinh [1956] là bài thơ tự do nổi tiếng của Thanh Tâm Tuyền trong thời kỳ đầu của Sáng Tạo:

 

Mẫu bìa tập thơ  Tôi không còn cô độc, Nxb Người Việt, Sài Gòn 1956

Mẫu bìa tập thơ
Tôi không còn cô độc,
Nxb Người Việt, Sài Gòn 1956

Phục sinh

tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu

tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng bên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang

tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh
từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh

tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi
tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật.
TTT 1956

Bài thơ 7 chữ Ngã Trên Núi Việt Hồng [1979], TTT làm trong tù 23 năm sau:
xa

Ngã Trên Núi Việt Hồng
ở yên báy khi đi vác nứa

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu

Duỗi soải chân tay gối trên nứa
Ngó trời nhá nhem nghe mưa mau
Tưởng chừng thi thể ai thối rữa
Hồn viển vông chẳng chút oán sầu

Mưa giăng tấm lưới trắng dầy khít
Làng xóm dưới núi ở phương nào ?
Gió lạnh tái tê bó liệm chặt
Lả thiếp người quên bẵng sước đau

Ðầm mình trong hạnh của ẩn mật
Mắt hoen nhòa hứng giọt thiên thâu
Dò dẫm lối về đêm tối mịt
Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?
Yên Báy, 1979

 

Năm 1986, đã ra khỏi những trại tù Việt Bắc, nhưng vẫn còn phải sống trong một nhà tù lớn Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền đã làm một bài thơ Khóc Muộn Tuyết Ngưu Vũ Khắc Khoan, [Vũ Khắc Khoan mất 12 tháng 9, 1986.
Khóc Muộn Tuyết Ngưu Vũ Khắc Khoan

Cõi tối biếc, quãng đồng trắng xoá
Rừng phong bát ngát tuyết mưa khoả
Bông lạnh tả tơi rối đêm ngày
Cầm chân Tuyết Ngưu đắp rét say

Trợn mắt dòm bão trận sinh tử
Bủa muôn trùng ánh thép hoa bay
Khốn kiếp cổ đại thời băng lũ
Tuyệt bóng dị thú hoang địa bày
TTT 1986

 

Thanh Tâm Tuyền rất thân với Vũ Khắc Khoan, và hai người có điểm giống nhau ở cách viết rất khó khăn theo cái nghĩa cách viết cô đọng với chữ nghĩa sâu và hàm súc.

Tuyết điểu TTT và Giấc Mộng Lớn

Năm 1982, khi mới ra tù, không sao quên được hình ảnh một TTT tiều tuỵ, trông anh già đi, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt rét kinh niên. Khó có thể tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua suốt bảy năm tù đầy ngày nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí ấy ở các trại giam Miền Bắc. Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa đâm xuyên đùi không giải phẫu thuốc men nhưng anh vẫn sống sót, trong tù chống rét anh tập hút thuốc lào, không giấy bút anh vẫn làm thơ qua trí nhớ. (5)

Cũng để thấy rằng, những năm sau 1975, TTT đã sống với "giờ thứ 25/ la vingt-cinquième heure" [tên tác phẩm của C.V. Gheorghiu] của đất nước; chất liệu ấy đủ cho TTT viết một Gulag Archipelago [tên tác phẩm của A.I.Solzhenitsyn] Việt Nam. Nhưng anh dứt khoát không có một chọn lựa như vậy. TTT muốn đoạn tuyệt, muốn xoá tất cả khoảng thời gian ấy ra khỏi ký ức. Năm 1982, sau ngày ra tù, ngay từ Sài Gòn, TTT viết:

Prélude Cho Những Chuyến Đi, Về:

Hắn rũ bỏ ký ức, và đi

Trong bóng tối ruỗng im quái gở

Lúc dứt lặng trận chiến man rợ

Hắn rũ bỏ ký ức, và đi

Trong rừng sâu thẳm cây trút lá

Ngọn gió mông muội thổi tràn trề

Bấy giờ hồi trằn trọc lịch sử

Lịm từng cơn ảm đạm ê chề

Sớm hay khuya không biết đâu nữa

Thời khắc tự huỷ hoại vắng tanh

Giòng nước suối chảy không tiếng vang
Giữa bờ bến đắm chìm lấp lú

Những cơn trốt quặn thắt huyền bí

Xoay quanh sự thế vui trầm ngâm

Hắn đưa chân theo bước khôn cầm

Trên lối u mê mờ hoặc

Mọi nỗi niềm đều giấu mặt

Mọi sự thực đều lang thang

Hắn đi như thế, không thể khác.
TTT 1982

Năm 1986, bốn năm sau ra tù, TTT trong một bài thơ khác, vẫn là một phủ nhận quyết liệt, một chối từ quá khứ với điệp khúc “rũ bỏ ký ức” ấy:
Vài khúc dạo tặng tri âm

Rũ bỏ ký ức – ký ức người
mông muội đắm mình
không thể khác

Ngậm tanh tiếng sơ sinh
khốn kiếp
lạnh bất trắc.

Nuốt chọng điếm nhục
Thế giới xa xăm vừa tận số
không trung vô hạn sóng điêu linh
Mây lửa ứa nghẹn thất thanh.

Và đi. Làm kẻ phản phúc
bị lăng mạ
đoạn tuyệt mọi thề thốt gắn bó

Đứt hết ràng buộc
Chốn ở nào đâu
Chốn đến không
Có thể nào khác

Biệt trí nhớ khuất ngoài tích sử.

2.
Trời một bãi đầm lầy man rợ
Đêm vẫn đêm cố cựu bao quanh
Tịch mịch trong ngoài
Câm nín mai một

Nghe như rừng thẳm cây trút lá
Mùa gió bạo ngược lộng tràn trề

Cắt chuỗi khoảnh khắc mạch vỡ lở
Cấn thai hàm hỗn mộng truỵ băng
Thổ huyết dữ bằn bằn đen đúa

3.
Si cette nuit est une nuit de destin
Bénédiction sur
elle jusqu’à l’apparition de l’autore
Chantent les chameliers tartares
dans la nuit du désert.

4.
Như chim chao liệng chưa hừng đông
trên hoang phế cuối đêm thảm hoạ
buột tiếng kêu vô vọng thinh không

Như con nước cuồng lưu mùa lũ
Trắng xoá bão gông mù mịt nguồn
Trôi giạt bến bờ đất khốn đoạ
TTT 1988

Khúc 3: đọc trong Le Temps du Mépris của A. Malraux

Năm 1993, cũng vẫn là một TTT nhất quán dứt khoát “rũ bỏ ký ức” khi đã trả lời cuộc phỏng vấn của Lê Hữu Khoá: “Tới lúc tôi phải viết như không có gì đã xảy ra, như không có gì biến đổi” (1)

Chọn lựa của Thanh Tâm Tuyền, “Rũ bỏ ký ức – ký ức người” khiến không thể không liên tưởng tới ECT/ Electroconvulsive Therapy, một phương pháp điều trị trong y khoa, đưa dòng điện qua sọ não, tạo một thay đổi hoá chất não bộ/ brain chemistry để xoá bỏ ký ức người bệnh trong một số trường hợp bệnh lý, thường là trầm cảm khi điều trị thuốc men không còn hiệu quả, đó là một quá trình đau đớn phải thực hiện trong gây mê. Rất biểu tượng, một TTT trầm cảm và khắc kỷ đã tự chọn cho mình một chặng đường xoá bỏ ký ức đau đớn đó và không có gây mê.

Những người bạn gần và hiểu TTT đều nghĩ rằng thái độ sống ẩn dật, từ chối những tiếp xúc và khép kín của anh có lý do của một TTT đang tự lột xác, lặng lẽ tích luỹ, TTT vẫn đọc rất nhiều và không ngừng đi tìm cái mới, với “giấc mộng lớn” để rồi khi tái xuất hiện là một TTT hoá thân, đó sẽ là một TTT khác, một TTT phục sinh để anh có thể viết trở lại/ re-écrire. Nhưng rồi, như một định mệnh, TTT đã không còn thời gian.

Hai mươi năm sau ngày mất Vũ Khắc Khoan [1986], tám năm sau ngày mất của Mai Thảo [1998], Thanh Tâm Tuyền Tôi Không Còn Cô Độc đã ra đi lúc 11 giờ 30 ngày 22 tháng 3 năm 2006 tại thành phố Saint Paul, Minnesota Hoa Kỳ. Minnesota cũng là nơi định cư từ 1975 của Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa. Khiêng linh cữu đưa Tuyết Điểu Thanh Tâm Tuyền tới huyệt mộ là những bằng hữu trong đó có Tô Thuỳ Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Cao Đàm, Cung Tiến.

“Mùa đông chiếc lá héo chết khô nay đã lìa cành, cũng là lúc mùa Xuân tới với Thanh Tâm Tuyền, nhưng là ở một thế giới khác.”

Bài viết này như một tưởng niệm nhân ngày giỗ chín năm gửi tới anh TTT và gia đình. Rồi bỗng cũng không thể chạnh nghĩ, từ quan điểm y khoa, liệu có bao nhiêu phần liên hệ của bảy năm ròng rã hút thuốc lào chống rét chống đói trong tù của TTT và căn bệnh ung thư phổi như nguyên nhân cái chết của anh khi mới vừa bước vào tuổi 70.

NGÔ THẾ VINH
California, 22-03-2015

© Đàn Chim Việt

————————————————————–

THAM KHẢO:
1/ 003708225 : La part d’exil [Texte imprimé] : littérature vietnamienne / textes réunis et traduits par Le Huu Khoa ; préface de Geneviève Mouillaud-Fraisse ; posface de Trinh Van Thao / Aix-en-Provence : Publication de l’Université de Provence, 1995
2/ Nguyễn Xuân Hoàng; Văn bộ mới số đặc biệt Tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền 1936-2006: số đôi 113&114 tháng Năm & Sáu, 2006. California
3/ Đặng Tiến: Thanh Tâm Tuyền

http://elib.quancoconline.com/ui/viewcontent.aspx?g=42728

4/ Giai phẩm Văn chủ đề Thanh Tâm Tuyền, tháng 10 năm 1973
Phụ bản đặc biệt của Thư Quán Bản Thảo, Trần Hoài Thư tranhoaithu@yahoo.com
5/ Ngô Thế Vinh, Bốn Mươi Năm Dương Nghiễm Mậu và Tự Truyện Nguyễn Du

http://damau.org/archives/35745

6/ Jane Katz Phỏng vấn nhà văn Mai Thảo; Bản tiếng Việt của Tâm Bình
Artists in Exile, American Odyssey; Stein & Day Publishers, NY 1983

http://hopluu.net/p131a2396/mai-thao-jane-katz

 

 

22 Phản hồi cho “Tháng 3 Thanh Tâm Tuyển rũ bỏ ký ức”

  1. Mắng Sĩ says:

    Con chiên chien đẻ (CCCĐ)TuDo.com, Non Ngàn Tiền Heo.com, CCCĐ Phạm Chính Thiên và các CCCĐ khác, lâu nay tung hấng nức nở và lom khom đi theo Thi sái 3 Nguyễn Trọng Dzỗm để hở ra một cái là cúi xuống “ngậm bi” Thi sái 3 khen ngợi nức nở, thì nay sau cái hợp đồng tác chiến giữa MS và ThécMéc Thư Sinh, lật mặt nạ NTDz chuyên đi ăn cắp thơ văn của người làm của mình, nghĩa là thiên tài thi ca của những CCCĐ này bấy lâu ca ngợi “Đại Ca Ca” của mình, thì thật ra chỉ là một tên chuyên đi chôm chỉa thơ của người khác mà thôi.
    Thì những CCCĐ nịnh nọt này sẽ chỉ còn được thi sái 3 NTDz thưởng cho ngậm những loại bi viên bằng cơm nguội và cứt chuột vì chuyến này thi sái bị “phá sản” mẹ nó rồi còn đâu? Híc híc…Buồn năm phút!

  2. THI NGÀN says:

    THI CA

    Thi ca như dòng nước
    Cứ chảy mãi không ngừng
    Lớn lên theo lịch sử
    Có bao giờ lại ngưng

    Giờ đọc thơ tiền chiến
    Nhiều khi thấy tưng tưng
    Nhưng nói ra lại kẹt
    Vì có triệu người ưng

    Hay nói thơ tự do
    Lại càng thấy léng phéng
    Nhiều thơ không ra thơ
    Lại càng thêm teng tẽng

    Nói qua thơ cách mạng
    Trước sau chỉ đỏ lòm
    Hầu như toàn nịnh nọt
    Kiểu Tố Hữu không oan

    Nên thôi ta chỉ thích
    Thơ cổ điển Việt Nam
    Luôn giá trị toàn bích
    Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du …

    Bởi thơ cũng là người
    Cùng ý nghĩa nghệ thuật
    Tính cách kẻ tầm thường
    Làm sao thơ hay được

    ĐẠI NGÀN
    (16/4/15)

  3. Nguyễn Trọng Dân says:

    Lai rai uống trà ngâm thơ chơi…
    ****************************

    Nền thi ca Tiền Chiến ( trước 1945 ) ở miền Bắc rộ lên ầm ỷ bốn bài thơ của nử sĩ mang tên TTKH

    Theo như anh em bè bạn cho rằng nàng gốc người Nam Định , đã chết vì bệnh ho lao năm 1953-1954. Khách làng thơ thì nhất mực cho rằng nàng TTKH sống Hà Nội , phố Sinh Từ .

    Cộng Sản trong thời gian đánh phá văn hóa lãng mạn để thay thế thơ ca Tố Hữu , ” giết giết nữa bàn tay không ngừnng nghĩ ” , BỐN BÀI THƠ CỦA TTKH , CŨNG VÌ VẬY , THEO PHẬN SỐ NƯỚC NON MÀ CHÌM ĐI suốt mấy mươi năm ( mãi đến 1994 mới nhắc lại )

    Thơ của TTKH xuất hiện lần đầu trên Phụ nữ Thời đàm Hà Nội , & Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Theo cụ Vương Hồng Sển, thì Tiểu Thuyết Thứ Bảy đăng đầu tiên

    Thôi thì trích ra đây thơ người Hà Nội thời Tiền Chiến , như là lòng ngưỡng mộ của khách chơi Nam Kỳ đối với người tài hoa mai danh ẩn tánh

    HAI SẮC HOA TY GÔN

    Mỗi mùa thu trước , mỗi hoàng hôn
    Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
    Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
    Tôi chờ người đến với yêu đương

    Người ấy thuờng hay ngắm lạnh lùng
    Giải đường xa vút bóng chiều phong
    Và phương trời thẵm mờ sương cát
    Ta vít dây how trắng cạnh lòng

    Người Ấy thuờng hay uốt tóc tôi
    Thở dài những lúc thấy tôi vui
    Bảo rằng : ” Hoa giống như tim vỡ,
    Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi ! ”

    Thuỡ đó nào tôi đã hiểu gì
    Cánh hoa tan tác của sinh ly
    Cho nên cười đáp “màu hoa trắng
    Là chút tình trong chẳng biến suy”

    ĐÂU BIẾT LẦN ĐI MỘT LỠ LÀNG
    DƯỚI TRỜI ĐAU KHỔ CHẾT YÊU ĐƯƠNG
    NGƯỜI XA XĂM QUÁ! TÔI BUỒN LẮM
    TRONG MỘT NGÀY VUI PHÁO NHUỘM ĐƯỜNG

    (Chú: Tuyệt!)

    Từ đấy thu rồi thu lại thu
    Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
    Chồng tôi vẫn biết tôi thuơng nhớ
    Người ấy , cho nên vẫn hững hờ

    Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
    Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
    MÀ TỪNG THU CHẾT , TỪNG THU CHẾT
    VẪN GIẤU TRONG TĂM MỘT BÓNG NGƯỜI

    Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
    Thấy ai cũng ví cảnh hoa xưa
    Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ
    Và đỏ như màu máu thắm pha

    Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
    Một mùa thu trước rất xa xôi
    ĐẾN NAY TÔI HIỂU THÌ TÔI ĐÃ
    Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi

    ( Chú : sau năm 1975 , dân Sài Gòn thuờng xuyên ngâm câu…” ĐẾN KHI TÔI HIỂU THÌ TÔI ĐÃ ..” khi nói chuyện ngầm ý nói đến cảnh Quá Độ tang thuơng do Cộng Sản gây ra. )

    TÔI SỢ CHIỀU THU PHỚT NẮNG MỜ
    CHIỀU THU HOA ĐỎ RỤNG. CHIỀU THU
    GIÓ VỀ LẠNH LẼO CHÂN MÂY VẮNG
    NGƯỜI ẤY SANG SÔNG ĐỨNG NGÓNG ĐÒ

    ( Chú: Đoạn thơ viết in trên được coi tuyệt tác của thi ca , không chàng nào đương thời làm lại )

    NẾU BIẾT RẰNG TÔI ĐÃ CÓ CHỒNG
    TRỜI ƠI! NGƯỜI ẤY CÓ BUỒN KHÔNG?
    CÓ THẦM NGHĨ ĐẾN LOÀI HOA VỠ
    TỰA TRÁI TIM PHA TỰA MÁU HỒNG

    ( Chú : Đoạn thơ trên không những được coi tuyệt tác của thi ca, mà còn rất phổ biến trong giới bình dân ở Sài Gòn , sau được giới bình dân sửa lại như sau:

    Nếu biết rằng em đã có chồng
    Anh về lấy vợ thế là xong
    Vợ anh không đẹp bằng em mấy,
    Cũng đẹp xem xem…Mạc Việt Hồng

    ( tha hồ điền tên người mình cho là lẹp (đẹp) , thí dụ như…MVH chẳng hạn))

    BÀI THƠ ĐAN ÁO

    Chị ơi, nếu chị đã yêu
    Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
    Đã xa hẳn quãng đời hương
    Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng.

    Hay chăng chị mỗi chiều đông
    Đáng thương những kẻ có chồng như em
    Vẫn còn giá lạnh trong tim
    Đan đi đan lại áo len cho chồng.

    Con chim ai nhốt trong lồng
    Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
    Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
    Hay đâu gió đã sang bờ ly tan.

    Tháng ngày miễn cưỡng em đan
    Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
    Như con chim nhốt trong lồng
    Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao.

    Ngoài trời hoa nắng xôn xao
    Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
    Ai đem lễ giáo giam em
    Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời.

    Lòng em khổ lắm chị ơi
    Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
    Quang cảnh lạ, tháng năm dài
    Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.

    BÀI THƠ THỨ NHẤT

    ( Chú : tuy là bài thơ thứ nhất nhưng lại được đăng sau 2 bài trên )

    Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
    Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
    Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
    Êm ái trao tôi một vết thương.

    Tai ác ngờ đâu gió lại qua
    Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
    THỔI TAN TÂM ĐIÊU DU DƯƠNG TRƯỚC
    VÀ TIỄN NGƯỜI ĐI BẾN CÁT XA

    ( Ghi chú : Hai câu trên rất ứng với cảnh dân miền Nam đi Học tập hay Kinh tế Mới )

    Ở lại vườn Thanh có một mình
    Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
    YÊU TRĂNG LẶNG LẼ RƠI TRÊN ÁO
    YÊU BÓNG CHIM XA NẮNG LƯỚT MÀNH

    ( Ghi chú : Quá Tuyệt ! Nguyễn Bính cũng phải thở dài )

    Và một ngày kia tôi phải yêu
    Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
    NHỮNG CÔ ÁO ĐỎ SANG NHÀ KHÁC
    GIÓ HỠI LÀM SAO LẠNH RẤT NHIỀU !

    ( Ghi chú : Hai câu trên rất phổ biến trong giới bình dân )

    Từ đấy không mong không dám hẹn
    Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
    Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
    Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.

    Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
    Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
    Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
    Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.

    Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
    Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
    Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
    Thì ai trông ngóng chả nên chờ.

    Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
    Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
    “Cố quên đi nhé câm mà nín
    Đừng thở than bằng những giọng thơ”.

    Tôi run sợ viết lặng im nghe
    TIẾNG LÁ THU KHÔ XIẾT MẶT HÈ
    NHƯ TIẾNG CHÂN NGƯỜI LEN LÉN ĐẾN
    Song đời nào dám gặp ai về.

    ( Ghi chú : TUYỆT TÁC ! Xuân Diệu sợ xanh mặt đoạn thơ trên)

    Tuy thế tôi tin vẫn có người
    Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
    Biết đâu tôi một tâm hồn héo
    Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

    BÀI THƠ CUỐI CÙNG

    (Ghi Chú : Tuy là bài thơ cuối cùng nhưng là một tuyệt tác mà mấy bố Xuân Diệu , Nguyễn Bính phải chào thua)

    Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
    Một mùa thu cũ một lòng đau
    Ba năm ví biết anh còn nhớ
    Em đã câm lời có nói đâu.

    Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
    Càng khơi càng thấy lụy từng khi
    Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
    Mà viết tình em được ích gì?

    Chỉ có ba người đã đọc riêng
    Bài thơ đan áo của chồng em
    Bài thơ đan áo nay rao bán
    Cho khắp người đời thóc mách xem.

    Là giết đời nhau đấy biết không?
    Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
    GIẬN ANH EM VIẾT DÒNG DƯ LỆ
    LÀ CHÚT DƯ HUƠNG , ĐIỆU CUỐI CÙNG

    Từ đây anh hãy bán thơ anh
    Còn để yên tôi với một mình
    Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
    Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

    NGANG TRÁI ĐỜI HOA ĐÃ ÚA RỒI
    TỪNG MÙA GIÓ LẠNH SẮC HUƠNG RƠI
    BUỒNG NGHIÊM THỜ THẪN HỒN EO HẸP
    ĐI NHỚ NGƯỜI KHÔNG MUỐN NHỚ LỜI

    ( Tuyệt!)

    Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
    Tôi run sợ viết bởi rồi đây
    Nếu không yên được thì tôi chết
    ĐÊM HỠI LÀM SAO TỐI THẾ NÀY?

    Năm lại năm qua cứ muốn yên
    Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
    Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
    Lại chính là anh, anh của em.

    Tôi biết làm sao được hỡi trời
    Giận anh không nỡ nhớ không thôi
    Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
    Sợ quá đi anh, có một người …
    *******************

    Trà đã “vơi”…..thôi ki’nh
    Mong huơng hồn nữ sỉ ảo hóa chút niềm say.

    NTrD

    • Tudo.com says:

      @NTrD:
      “Nếu biết rằng em đã có chồng
      Anh về lấy vợ thế là xong
      Vợ anh không đẹp bằng em mấy,
      Cũng đẹp xem xem…Mạc Việt Hồng
      ( tha hồ điền tên người mình cho là lẹp (đẹp) , thí dụ như…MVH chẳng hạn))”

      Hí hí. . .hí hí. . .
      Được tổng bí. . .thơ Nguyễn Trọng. . . .Dân (hên qúa thắng kịp, chứ Lú là ổng tán cho phù mỏ luôn) bỏ điều 4 hiến pháp. . .Chó Ngủ Xó Hè làm máu Xó Hè Chữ Nghĩa của em nổi. . .dzậy:

      Nếu biết rằng em cỗm. .Pu. .tìn
      Anh về dớt đại. .Ố..ba..ma
      He is no “lẹp” bằng Trọng Lú
      Nhưng bảnh hơn anh. . .Tập Cận Bình

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Thưa ,

        Huynh đúng là dân chơi bất cần thân thể đó nha. Lợi hại thiệt ! Cười quá đã . Thôi xin đáp lễ lại huynh TuDo.com bằng bài thơ mọn này .

        Cúp nước

        
Đất vẫn còn đây Nước cúp hoài

        Xánh xô đi hứng xếp hàng dài

        “Đĩnh cao trí tuệ ” cần ráng sức
,
        Gánh Nước triền miên mới có sài
!
        Dự án đầu tư nâng cấp mãi
        
Kinh tế vĩ mô đợi đường dài

        Vợ con ngứa ngáy tha hồ gãi

        Thuơng Nhà yêu Nước vẫn xưa nay

      • Tudo.com says:

        Nếu biết Đảng Viên “bề” Mắng Sĩ
        Việt Hồng đuổi hết đám Còm đi
        Để cho hai đứa nầy mặc sức
        Thỏa thích mần nhau. . .lụt ngập Hồ

  4. Nguyễn Trọng Dân says:

    Tình em rộng mở quá mênh mông
    Đời tôi lại nặng gánh long đong
    Nước nhà chao đảo -thân người lính
    Biết lấy gì đây tặng má hồng ?

  5. Nguyễn Trọng Dân says:

    Anh về

    “Anh về Suối Máu một hôm
    Trăng rơi đỏ ối sinh tồn vỡ toan
    Lắng nghe sinh thú kêu oan
    Đá rêu xương vụn điêu tàn cội thô
    Đây rồi , anh thấy nấm mồ
    Đạn còn kẹt giữa xương khô dính bùn”

    Cỏ cây sững sốt hãi hùng
    Hồn về tìm xác , trùng phùng thuơng đau.

    • Trình Bội Ngọc says:

      Ghê ! Ớn lạnh cả xương sống !

    • THẮC-MẮC says:

      Thơ của ai vậy ? Nghe lắm thương-đau. Riêng tôi, không làm thơ được, nhưng nghe nỗi đau thật nhiều. Đoạn thơ trên nhắc tôi thời-gian ở Suối Máu, những tháng đầu năm 1976 khi bọn CS cướp miền Nam VN, xử bắn 2 chiến-hữu của chúng ta. Rồi tháng 3/1976, tôi thuộc số tù đầu-tiên xuống tàu thủy ra Bến Thủy, rồi từ đây bị nhốt trong các toa tàu bít-bùng, khóa kín – vốn để chở súc-vật – ra Bắc. NTD thật hay ! Lý-luận cũng thông, thơ- ” thẩn ” cũng khá. Chỉ có điều 4 chữ ” sinh thú kêu oan ” không hợp với phong-độ của đại-đa-số cựu chiến-sĩ VNCH bị tù, bị giết bởi bọn CSVN tàn-ác. Cảm ơn NTD.

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Xin thưa với THẮC MẮC như ri răng rứa , rằng thì mà là

        “Sinh thú ” ở đây là tượng trưng cho cỏ cây , Rừng , trăng , CẢNH VẬT XUNG QUANH , bởi thấy HỒN BẠN TA về tìm xác mình coi xem sao nên sợ bị coi là ĐỒNG LÕA giết người ngày hôm ấy cho nên mới kêu oan –

        HỒN BẠN TA ( tức là chử “ANH ” đầu bài thơ ) mới “lắng nghe sinh thú kêu oan ” là thế

        Hai câu cuối , vì sợ người đọc không hiểu , mới phải viết…để giả thích thanh minh thanh nga thêm cho người đọc

        “Cỏ cây sững sốt hãi hùng
        HỒN VỀ TÌM XÁC , trùng phùng thuơng đau.”

        Cho nên nguyên bài , nếu giảng văn ra sẽ như sau :

        “Anh về Suối Máu một hôm
        Trăng rơi đỏ ối sinh tồn vỡ toan
        Lắng nghe sinh thú kêu oan
        Đá rêu xương vụn điêu tàn cội thô
        Đây rồi , anh thấy nấm mồ
        Đạn còn kẹt giữa xương khô dính bùn”

        Cỏ cây sững sốt hãi hùng
        Hồn về tìm xác , trùng phùng thuơng đau.

        Câu 1 câu 2 :

        “Anh về Suối Máu một hôm
        Trăng rơi đỏ ối sinh tồn vỡ toan ”

        HỒN BẠN TA về lại Suối Máu , mọi sinh tồn xung quanh hoảng sợ

        Câu 3 câu 4 :

        “Lắng nghe sinh thú kêu oan
        Đá rêu xương vụn điêu tàn cội thô”

        Như đã ní giải ở trên , cảnh vật xung quanh sợ mình mang tội đồng lõa nên kêu oan trước HỒN BẠN TA, cố lộ lòng đau xót hối hận

        Câu 5 câu 6:

        “Đây rồi , anh thấy nấm mồ
        Đạn còn kẹt giữa xương khô dính bùn”

        HỒN BẠN TA ( “anh”) thấy xác mình giữa rừng , nay viên đạn còn dính trong xương dù xác đã rã

        Hai câu cuối :

        “Cỏ cây sững sốt hãi hùng
        HỒN VỀ TÌM XÁC , trùng phùng thuơng đau.”

        Đóng ngoặc kép mấy câu trên , xuống hàng cho hai câu cuối để giải thích chử “ANH ” là tượng trưng cho HỒN BẠN TA để người đoc có thể hiểu

        Bởi vậy , HỒN BẠN TA OAI PHONG LẪM LIỆT , nay quay về Suối Máu, CẢ RỪNG NÚI PHẢI SỢ HÃI MÀ KÊU OAN .

        THẮC-MẮC so với anh Dâm TiêN thì thiệt là không có “nhạy ” được bằng anh DâM đó nhá.

        Dài dòng quá , thôi lại cám ơn DCV cho đăng – Merci DCV

        Nay Kính – “ô rờ voa”

    • THẮC-MẮC says:

      Bạn NTD – Cảm ơn giáo-sư quốc-văn ” giáo-khoa-thư ” đã giảng văn tường-tận ” kẻ răng, kẻ tóc “. Học trò đệ thất, đệ lục ngày xưa đọc cả bài, đều hiểu ngay nội-dung bài thơ – chắc không cần giảng-giải dài-giòng. Ở đây không liên-quan gì đến ” nhạy cảm ” cả. Tôi đã thường tự xưng là không biết làm thơ, dĩ nhiên so với Ý-Yên làm sao được. Duy vấn-đề tôi ” thắc-mắc ” chỉ nhắm vào 4 chữ ” sinh thú kêu oan “. Giải-thích chủ-quan theo cách của NTD là quyền của tác-giả, nhưng người đọc có thể hiểu một cách khách-quan. Tác-giả không thể cấm độc-giả suy-nghĩ, phân-tích. Vậy, anh là ai mà hồn anh về tìm xác khiến mọi sinh-thú ” sửng-sốt, hãi-hùng “. Như thế, hoặc hồn anh rất quyền-năng, hoặc hồn anh đi theo một đấng rất quyền-năng.
      Từ đây vấn-đề càng đi xa hơn. Nếu độc-giả là một Cơ-đốc-nhân, vấn-đề rất đơn-giản : nếu anh là một tín-đồ thật-sự tin Jesus Christ, khi anh chết, hồn anh ở với Christ Jesus trên thiên-đàng. Chỉ lúc tận-thế, hồn anh theo Christ Jesus tại tòa phán-xét thế-gian, bấy giờ ” thế-gian ” mới có thể sửng-sốt hãi-hùng “. ” Sinh thú kêu oan “, ” sửng-sốt hãi-hùng ” chỉ là sự biểu-lộ của riêng con người mà thôi : niềm-tin Cơ-đốc không đặt thú-vật, cỏ cây, trăng sao, v.v…vào bình-diện thể-hiện tâm-tư, tình-cảm đó. Tôi không thể trình-bày chi-tiết hơn, vì đây không phải diễn-đàn tôn-giáo.

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Thưa “mục sư ” THẮC MẮC , thân tiên mà máu Việt

        Hồn ở đây là ẩn dụ cho CÔNG LÝ, chẳng có dính dáng gi đến linh hồn cả…

        Đây là lối (cách thức ) làm thơ ẩn dụ giống như xưa , hình như là LÝ BẠCH , rồi sau đến Cao Bá Quát viết thơ có câu như sau :

        “Quân bất kiến: Hoàng Hà chi thủy thiên , thuợng lai , bôn lưu , đáo hải bất phục hồi ”

        Nghĩa là :

        ” Anh không thấy sao : Hoàng Hà chãy từ trời cao , qua thuợng nguồn , xuôi dòng ra đến biển rồi không quay trở lại ”

        Nhìn bề ngoài lời thơ chỉ là miêu tả cảnh bình thuờng một dòng sông , bắt đầu thuợng nguồn , chảy xuống hạ nguồn rồi đi ra biển , không chảy vòng về nữa – Thơ có vẻ chán phèo nhưng cớ sao ông ba ta mở miệng ra là ê a ngâm mãi có vẻ đắc ý …

        ….Nhưng ngụ ý của kẻ làm thơ thì khác…, thâm sâu…..chẳng có dính dáng gì đến giòng sông Hoàng (Hà) cả.

        Dòng Hoàng Hà là TƯỢNG TRƯNG ( ẩn dụ ) cho TUỔI ĐỜI CỦA CON NGƯỜI , trôi qua rồi thì không còn trở lại nữa

        Bởi thế cho nên các cụ xưa mới tâm đắc câu thơ này là vậy

        HỒN ở bài thơ đây cũng thế , chẳng dính dáng gì đến linh hồn cả ,

        HỒN đây là ẩn dụ cho sức mạnh của CÔNG LÝ- HỒN quay về tìm xác là ngụ ý nói CÔNG LÝ QUAY VỀ XÉT XỬ vụ giết người năm xưa ở Suối Máu bởi Cộng phỉ tàn nhẫn ra tay thực hiện

        CÔNG LÝ NGHIÊM MINH tới mức cỏ cây , cảnh vật chung quanh cũng phải hoãng sợ bị kết tội là đồng lõa với cộng phỉ giết người nên kêu oan (trước CÔNG LÝ)

        Cho nên là người đọc , muốn suy diễn qua loa rơ măng hay in phê răng sâu sắc thế nào cũng được nhưng NÊN HIỂU HẾT , HIỂU ĐÚNG Ý BÀI THƠ trước cái đã.

        ( Chịu phạt hít đất hai mươi cái chưa , phạt thêm ba ly rượu cognac XO …hehehe…)

        Xin cám ơn THẮC MẮC thay thế cụ Ý làm bia đạn cho mạt Dân phá phách đở buồn

        Lại cái tật dài dòng sông Hậu sông Tiền , thôi xin Merci DCV vậy .

        Nay Kinh -

    • THẮC-MẮC says:

      Trước hết cảm ơn BBT/ĐCV posted các comments của tôi, tuy không liên-quan nhiều lắm về thi-sĩ TTT. Lẽ ra tôi phải viết và bình thơ TTT, nhất là khi TTT cũng có mặt tại Yên Báy (và có thể
      ” tham-quan ” thêm vài địa-điểm khác tại miền Bắc VN, để gia-tài thơ của ông có thêm những bài như bài ” Ngã trên núi Việt Hồng “, 1979.
      Trở lại với NTD, tôi muốn kết-thúc ” ân-oán giang-hồ ” với bạn :
      (1) Bạn trích thơ ” Tương tiến tửu ” của Lý Bạch, nên lưu-ý : phần cốt lõi không phải ” quân bất kiến …bất phục hồi “, đó chỉ là phần dẫn-nhập, mà chính là phần sau bắt đầu từ ” triêu như thanh ti mộ như tuyết … “.
      (2) Những điều bạn giải-thích cũng đúng thôi, và như tôi đã nói rằng đó là quyền giải-thích của bạn. Tuy nhiên độc-giả cũng có quyền giải-thích theo lối khác, miền là hợp-lý. Hồn có được nhân-tính-hóa, nhất là trong thi-văn, thì cũng là thường thôi. Hồn hiểu sát nghĩa, là linh-hồn (soul, spirit, mind), ở đây tôi không thể đi sâu vào giải-thích về mặt thần-học của hồn, linh, v.v… Nhưng hồn, theo bạn, là cách dùng – không phải là ẩn-dụ như bạn viết – tượng-trưng cho ” công-lý “, thì tôi e rất it người dùng. Nhưng ai có quyền xét-đoán, phân-xử đây ? Lỗ Tấn có nói ” Đường vốn không có, người ta đi nhiều thành đường ” (Cuồng nhân nhật ký). Vậy, khi một người như bạn dùng hình-thức đó một lần, rồi bạn dung lần thứ hai, rồi người khác bắt-chước dung lối đó, dần dần thành nếp, v.v…Vì thế tôi không bắt-bẻ bạn.
      (3) Tôi ao-ước người bạn già của tôi, cụ Dâm, lên tiếng. Trước kia tôi nghe người ta nói cụ DT giăng mùng trên diễn-đàn này, nay sao im hơi. NTD, tôi thách bạn đánh thức cụ Dâm dậy. Cụ ấy ngủ mê quá. Không lẻ tôi lại phải email cho cụ ấy, hay gọi phone, thì e làm phiền cụ.
      (4) Nhiều người khen bạn rồi, tôi không khen thêm .

      • Nguyễn Trọng Dân says:

        Thưa ,

        Thấy THẮC MẮC xuất hiện nên làm bài thơ…”Suối Máu” khều nhẹ vậy thôi…

        Lại thấy THẮC MẮC hiền hiền nên Qua nhào vô ăn hiếp cho đỡ buồn….hehehe

        Nay THẮC MẮC tính kêu cụ Ý thức giấc để viện binh cho mình thì lật đật mạt Dân …bỏ chạy cho chắc ăn … ( Râm ta có nghề phục kích ven rừng ghê lắm , mạt Dân không thể sơ suất…)

        Have a great weekend !

        Nay Ki’nh

    • Tudo.com says:

      “Đạn còn kẹt giữa xương khô dính bùn”

      Nghe mà nổi cả da gà ông ơi!!!

    • Khổng Khuyết says:

      @ Thư Sinh con ,

      Sao con lại đi chưởi cha cụ Hồ nhà ta thế.

      Sau cái vụ “làng huơng” , mấy anh em con từ Mắng Sĩ , Tư Võ Sĩ bị tên Trọng Dân cờ Vàng đá đít đau quá !

      Hóa ra tên này gài sẵn bẫy cho mấy anh em con nhào vô , hết một bầy bị tên Trọng Dân nó đập nào là thơ cổ , hò cổ , báo hại mấy em anh con , từ Mắng Sĩ , Tư Võ Sĩ…. cứ gọi là nghẹn cổ tắt tiếng , biết con mẹ gì mà cãi bây giờ.

      Mấy anh em con từ Mắng Sĩ , Tư Võ Sĩ …..vốn toàn là dân…LẤY CÂY THỌT LỖ ĐÍT..”LỢN” dốt biện chứng có giấy tờ…biết cái con mẹ gì mà cải với tên Trọng Dân này.
      *************************
      @NTD

      “Làng huơng sớm tối đi về
      Câu thơ Lý Bạch , lời thề Khuất Nguyên”

      ( Hay quá , ông Dân à )

      Mà suy cho cùng , tổ tiên mình xưa khi làm thơ , bê nguyên xi thơ Đường thơ Tống vào trong bài thơ mình , có cụ nào chú giải ở dưới là bê từ thơ của thi sĩ nào bên Đường bên Tống đâu , các cụ cứ cho rằng hể ăn học thì phải biết các cụ bê thơ người nào vào mới là ghê.

  6. THẮC-MẮC says:

    Cảm ơn tác-giả bài này nói về TTT – Nhỏ hơn TTT vài tuổi, có đọc vài bài thơ của ông vào giữa thập-niên 50 – thú thật tôi bấy giờ không hiểu nỗi, nhưng tự-nhiên thấy thích. Cũng đã gần 60 năm qua, về thơ của TTT, tôi chỉ còn nhớ mỗi 2 câu thơ trích từ thơ TTT của một tác-giả bài báo viết về cuộc nổi dậy của dân chúng Hung-gia-lợi đưa đến sự can-thiệp của quân-đội Liên-xô …” Hãy cho anh khóc bằng mắt em, Những cuộc tình-duyên Budapest “. Chỉ đơn-giản vậy thôi. Tôi không có duyên-nợ với văn-chương, thi-phú, vì đời tôi thuần là binh-nghiệp ngay từ cuối thập-niên 50, và tôi cũng quên bẳng TTT. Nay, TTT được nhắc lại, tôi không khỏi ngậm-ngùi.
    Rất không đồng-ý với nhiều Ngàn hai điều : – không thể ví TTT như ” kiểu vè thơ Tố Hữu “, – hầu như cả bài thơ của THƠ NGÀN cực-lực chỉ-trích thơ tự-do, có thật vậy không , MANY NGÀN ?

    • THI NGÀN says:

      TỰ DO VÀ THƠ

      Tự do mới thật con người
      Thơ hay quả đúng từ người tự do
      Anh Tố Hữu chỉ làm vè
      Suốt đời nô lệ cúc cung Bác Hồ

      Vậy thì thơ phải tự do
      Ra ngoài vần điệu vẫn là thơ hay
      Nhưng thơ vẫn phải luôn thơ
      Tự do theo kiểu lơ mơ quý gì

      Thanh Tâm Tuyền rồi qua đi
      Một thời phá lối lấy gì mà hay
      Phải thơ như kiểu Nguyễn Du
      Như Đoàn Thị Điểm hẳn là muôn năm

      Vậy nên thơ nhạc hài hòa
      Kết cùng tư cách mới là nên thơ
      Quý hồ tư tưởng tự do
      Quý hồ nghệ thuật mới say lòng người !

      TRĂNG NGÀN
      (4/4/15)

      • THẮC-MẮC says:

        Tư-tưởng tự-do, hay nghệ-thuật chưa đủ nói hết ” tư-cách của thơ “, THƠ NGÀN à ! Phải là ” hồn thơ “. Thơ phải có hồn. Tôi không làm thơ nhưng thích thơ. Tôi đọc thơ và cảm-nhận được thơ nào có hồn. Thanh Tâm Tuyền ” một thời phá lối ” theo cách nói của bạn, thì tôi không biết, và cũng không cần-thiết để ý – nhưng điều tôi nhận thấy khi đọc một số bài thơ của ông, tôi thấy có hồn. Tuy nhiên tôi cũng nịnh bạn một chút : Tôi cũng đọc những thơ của bạn trên ĐCV trong các comments của bạn. và cũng không thể phủ-nhận rằng bạn viết thật với ” tư-tưởng tự-do ” và có hồn.
        Tôi thấy bài viết này có giá-trị, nhất là cho việc tham-khảo. Tiếc là các Còm-sĩ chen-chúc vào những đề-tài khác ” nóng-bỏng ” hơn. Khi đọc xong bài này, thấy chỉ có comments (2) của bạn, nên vừa để có ý-kiến về bạn, vừa mong có người có chút tâm-ý về văn-chương, thi-phú để tôi học-hỏi thêm.

  7. SUỐI NGÀN says:

    Xin đọc : “Thơ thành cục đất đang rơi khác nào !”
    MÂY NGÀN (2/4/15)

  8. TRĂNG NGÀN says:

    THƠ TỰ DO

    Tôi thú thực rất ghét thơ tự do
    Cho dẫu thơ ấy do ai làm ra cũng vậy

    Thơ tự do là gì ?
    Hoặc anh không có tài thi ca
    Hay nơi anh tài thi ca quá ư siêu việt !

    Anh không có tài thi ca
    Nên phải cần dùng đến thơ tự do
    Như kiểu cái khiên cái mộc
    Chỉ cốt để nhằm tránh né điệu vần !

    Còn như nơi anh
    Tài thi ca quá ư siêu việt
    Nên anh coi thường cả thi ca
    Và đã trở thành kiểu thứ tên lêu lổng !

    Và như vậy
    Anh cũng đã phản bội lại chính mình
    Phản bội lại với cả chính điệu vần
    Trở thành một loại con tim gian dối !

    Bởi thơ là gì ?
    Thơ chẳng phải tiếng nói bình thường
    Mà thơ chính là điệu khúc
    Hay nhạc tính của tâm hồn bay bổng !

    Vậy nên anh phải tự hỏi lại mình
    Nếu thơ mà không hề có chút điệu vần
    Thì liệu thơ ấy có đúng là thơ ?

    Nên nếu thơ chỉ tầm thường
    Bằng lời nói nôm na
    Như kiểu vè thơ Tố Hữu

    Hay thơ lại bất chấp cả điệu vần
    Như loại thơ mới hay thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền

    Thì tôi xin thú thật
    Quả tình chỉ đều ngao ngán đến tận xương !

    Cho nên cứ theo tôi thường suy nghĩ

    Thơ luôn vẫn phải là thơ
    Điệu vần không có lơ mơ khác gì !

    Thể thơ dẫu có thế nào
    Điệu vần như cánh chim chao lưng trời !

    Điệu vần thiếu vắng hởi ơi
    Thơ thành cục đất đang rơi khác gì !

    Trừ khi thơ vượt điệu vần
    Tự do kiểu ấy triệu lần mới thơ !

    THƠ NGÀN
    (01/3/15)

Leave a Reply to Khổng Khuyết