Pháp trở lại Việt Nam
Thế chiến thứ hai bùng nổ ngày 3-9-1939. Đức tràn chiến xa tấn công Pháp tháng 5-1940. Thủ tướng Pháp Paul Reynaud, mới cầm quyền ngày 23-3-1940, liền từ chức ngày 16-6-1940. Thống chế Henri Philippe Pétain lên thay, đứng ra điều đình với Đức. Pétain ký hiệp định đình chiến với Đức tại Compiègne ngày 22-6-1940, giao cho Đức khoảng 3/5 nước Pháp ở phía bắc. Từ ngày 2-7-1940, chính phủ Pétain dời đô đến Vichy, quận hạt Allier, vùng Auvergne, miền trung nước Pháp, nên thường được gọi là chính phủ Vichy.
Thiếu tướng Charles de Gaulle, thứ trưởng bộ Quốc phòng (từ ngày 5-6-1940) trong chính phủ của thủ tướng Paul Reynaud, bỏ qua Anh. De Gaulle lên đài phát thanh London ngày 18-6-1940, kêu gọi dân chúng thuộc địa Pháp tiếp tục chiến đấu chống Đức. De Gaulle vận động và thành lập Comité National Français (Uỷ Ban Quốc Gia Pháp) tại London ngày 24-9-1941.
Vì bị Nhật tấn công ở Pearl Harbor (Honolulu, Hawaii) ngày 7-12-1941, Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật ngày 8-12-1941, rồi tuyên chiến với đồng minh của Nhật là Đức, Ý ngày 11-12-1941. Hoa Kỳ thừa nhận UBQG Pháp ngày 9-7-1942, cắt đứt ngoại giao với chính phủ Pétain.
1. PHÁP CHỦ TRƯƠNG TRỞ LẠI VIỆT NAM
Charles de Gaulle qua các thuộc địa Pháp ở Phi Châu hoạt động. Ngày 3-6-1943, Uỷ Ban Giải Phóng Quốc Gia Pháp (UBGPQGP) (Comité Français de la Libération Nationale) được thành lập tại Alger (Algérie). Ủy ban bầu hai tướng Charles de Gaulle và Henri Giraud làm đồng chủ tịch, lãnh đạo kháng chiến Pháp.
Lúc đó, quân đội Nhật đã xâm nhập và thao túng Đông Dương từ 1940, tuy vẫn để nhà cầm quyền bảo hộ Pháp tồn tại. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là đô đốc Jean Decoux, thuộc quyền của chính phủ Pétain thân Đức.
Sau ba tháng thành lập, UBGPQGP chống Đức và chống Pétain, cử tướng René Blaizot phụ trách Đạo quân Viễn chinh Viễn đông (Corps Expéditionnaire d’Extrême-Orient) vào tháng 9-1943, nhắm đến mặt trận Đông Dương. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 145.) Tuy nhiên, mọi việc phải đợi đến sau khi giải phóng xong nước Pháp ra khỏi tay Đức Quốc Xã.
Ngày 8-12-1943, cũng từ Alger, UBGPQG Pháp ra thông báo về chính sách đối với các nước Đông Dương, có đoạn như sau:
“… Với các dân tộc đã biết xác định cùng một lúc tình cảm yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của mình, nước Pháp đồng ý ban hành, trong lòng cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị mới mà, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các nước khác nhau trong Liên hiệp sẽ được nới rộng và xác lập; tính chất tự do rộng rãi của các chế độ sẽ được nhấn mạnh mà không mất dấu hiệu của nền văn minh và truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương, cuối cùng, có thể nhận làm bất cứ công việc gì và chức vụ nào của Nhà nước.
Cùng với sự cải cách quy chế chính trị nầy, sẽ có một cuộc cải cách quy chế kinh tế của cả Liên hiệp mà, trên căn bản tự trị về quan thuế và thuế khóa, sẽ bảo đảm sự phồn thịnh của Liên hiệp và góp phần vào sự phồn thịnh của các nước lân bang...” (Philippe Devillers, Paris Saigon Hanoi, Paris: Gallimard-Julliard, 1988,tr. 23.)
Ngày 1-2-1944, De Gaulle ra lệnh cho tướng René Blaizot thành lập Lực lượng Viễn chinh Pháp tại Viễn đông (F.E.F.E.O = Forces Expéditionnaires Françaises d’Extrême-Orient), gồm 2 lữ đoàn thuộc địa là Madagascar và Cameroun, và một đơn vị khinh binh ứng chiến (Corps Léger d’intervention). Đạo quân F.E.F.E.O được đặt dưới Bộ Chỉ huy Đồng minh tối cao Đông Nam Á do đô đốc người Anh là bá tước Louis Mountbatten điều khiển. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, sđd. tr. 145.)
Trong cuộc họp của UBGPQG Pháp do De Gaulle chủ trì tại Brazzaville ở Congo, được xem là thủ phủ của Pháp tại Phi Châu, từ 30-1 đến 8-2-1944, để thảo luận về các vấn đề thuộc địa sau thế chiến thứ hai, bản tuyên bố vào cuối Hội nghị có đoạn viết:
“ Các mục đích của sự nghiệp thực dân mà nước Pháp thực hiện tại các thuộc địa đã loại bỏ ý định tự trị, mọi khả năng tiến hóa ngoài khuôn khổ đế quốc Pháp: cơ cấu một chính phủ tự trị có thể có tại các thuộc địa dù cho còn lâu mới được thực hiện, phải bị loại trừ.” (Hoàng Hiển, Vua Duy Tân, Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1996, tr. 90.)
Ngày 24-8-1944, trung tướng Philippe Leclerc de Hautelocque (gọi tắt là Leclerc) dẫn quân giải phóng Paris. Chính phủ Vichy của thống chế Pétain sụp đổ. Charles de Gaulle trở về thủ đô Pháp, lập chính phủ lâm thời ngày 10-9-1944. (De Gaulle làm thủ tướng lâm thời đến ngày 20-1-1946 thì từ chức. Chủ tịch quốc hội là Félix Gouin được cử lên thay ngày 24-1-1946.)
Ngày 13-9-1944, chính phủ lâm thời Pháp quyết định chuyển gấp hai sư đoàn cho tướng René Blaizot. Ngày 26-10-1944, tướng Blaizot đến đặt bản doanh tại Kandy (Tích Lan = Ceylon tức Sri Lanka từ 1972), thành lập lực lượng viễn chinh Á Châu. Nơi đây Hoa Kỳ và Anh lập bộ chỉ huy Đồng minh tối cao Đông Nam Á (Supreme Allied Commander South East Asia Theatre) năm 1943, do đô đốc Louis Mountbatten đứng đầu. Pháp muốn nhờ Anh và Hoa Kỳ trang bị và chuyên chở quân sự sang Đông Dương, nhưng hai nước nầy đang lo việc phản công chống quân Nhật, vì lúc đó Nhật còn chiến đấu ở Á Châu.
Tiếp đó, ngày 9-3-1945 Nhật lật đổ nhà cầm quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương, chủ trương để cho Việt Nam độc lập. Vua Bảo Đại công bố bản Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3, làm cho De Gaulle rất tức giận. Gần nửa tháng sau, ngày 24-3-1945 thủ tướng De Gaulle tuyên bố về vấn đề Đông Dương như sau:
“ Liên bang Đông Dương sẽ hợp cùng với nước Pháp và các thành phần khác trong cộng đồng thành Liên Hiệp Pháp, mà nước Pháp sẽ đại diện để đảm trách những quyền lợi ở bên ngoài. Đông Dương sẽ được hưởng nền tự do riêng trong Liên Hiệp nầy.
Những người thuộc quốc tịch liên bang Đông Dương sẽ là công dân Đông Dương và công dân Liên Hiệp Pháp. Với tư cách nầy, họ sẽ được giữ một cách công bằng theo khả năng mọi chức vụ và công việc liên bang ở Đông Dương cũng như trong Liên Hiệp Pháp, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, nguồn gốc.
Những điều kiện theo đó Liên bang Đông Dương sẽ tham gia vào các cơ chế Liên Hiệp Pháp, cũng như quy chế công dân Liên Hiệp Pháp, sẽ được ấn định bởi Hội đồng lập hiến.” (Charles de Gaulle, Mémoires de guerre, Le salut: 1944-1946, Paris: Plon, 1959, tr. 439.)
Đức đầu hàng Đồng minh ngày 7-5-1945. Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô họp thượng đỉnh tại Potsdam (Đức) ngày 17-7-1945. Pháp không được tham dự, nhưng Paris biết ngay nội dung của tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945 của Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa gởi cho Nhật về việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương. Ngày 11-8-1945, bộ Ngoại giao Pháp gởi thư cho Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô và Trung Hoa đề nghị giao việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương cho Pháp. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 241.)
Sau đó, thủ tướng Charles De Gaulle qua Hoa Kỳ thương thuyết với tổng thống Harry Truman trong hai ngày 22 và 24-8-1945. Tổng thống Truman nhận chức thay thế tổng thống Franklin Roosevelt từ trần ngày 12-4-1945. Harry Truman từ bỏ chủ trương International Trusteeship ở Đông Dương của Roosevelt. Trước khi rời Hoa Kỳ, De Gaulle tuyên bố sẽ thiết lập một chế độ mới tại Đông Dương gồm cả người bản xứ và kiều dân Pháp, do một đại diện của chính phủ Pháp chủ trì, sẽ có một nghị viện và một nền kinh tế tự do. Quân đội Pháp sẽ giải giới quân đội Nhật ở Đông Dương. (Chính Đạo, sđd. tr. 250).
Đại sứ Pháp tại Hoa Kỳ đưa đề nghị ngày 28-8 rằng Anh sẽ giải giới quân Nhật trên toàn cõi Đông Dương, hoặc Pháp nhận lễ đầu hàng của quân Nhật ở miền nam vĩ tuyến 16, còn các tướng lãnh Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16 làm lễ đầu hàng ở Trung Hoa. Hai ngày sau (30-8), ngoại trưởng Hoa Kỳ trả lời rằng không thể đi ngược lại quyết định trong tối hậu thư Potsdam, nhưng Pháp có thể dàn xếp riêng với Anh và Trung Hoa. (Chính Đạo, sđd. tt. 248, 250, 252, 254.)
Lúc đó, chiến tranh vừa chấm dứt ở Âu Châu. Hoa Kỳ cần sự hợp tác của Anh và Pháp để thực hiện các kế hoạch hậu chiến, nên Hoa Kỳ uyển chuyển với Pháp, không cản trở việc Pháp kiếm cách trở lại Đông Dương. Hoa Kỳ chuyển trách nhiệm về phía Anh và Trung Hoa.
Có thể do sự mềm dẻo của chính phủ Hoa Kỳ, các thương thuyền Hoa Kỳ đã chở từ 14,000 đến 24,000 quân Pháp đến Việt Nam từ tháng 10 đến tháng 12-1945. (Patricia K. Lane, “Éléments sur la mise en oeuvre de la politique américaine envers l’Indochine, 1940-1945”, đăng trong Les Cahiers de l’Institut D’Histoire Du Temps Présent, Paris: Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng 6-1996, tr. 33.)
2. PHÁP GỞI QUÂN QUA ĐÔNG DƯƠNG
Thủ tướng Charles de Gaulle cử tướng Leclerc làm chỉ huy lực lượng lục quân Pháp ở Đông Dương ngày 16-8-1945. Hôm sau 17-8-1945, De Gaulle ký nghị định thành lập chức cao uỷ Pháp tại Đông Dương (Haut-commissaire de France pour l’Indochine), có quyền hạn của một toàn quyền kiêm chỉ huy hải lục không quân Pháp ở Đông Dương. Ông cử người cộng sự thân tín là đô đốc Georges Thierry d’Argenlieu, gốc linh mục Ky-Tô giáo La-Mã, giữ chức vụ nầy.
Ngày 17-8, Leclerc rời Paris qua Đông Dương. Trên đường đi, Leclerc ghé Kandy (Tích Lan) ngày 22-8 theo lời mời của đô đốc Louis Mountbatten, chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh ở Đông Nam Á. Trong cuộc gặp gỡ, bá tước Mountbatten cho Leclerc biết rõ nội dung tối hậu thư Potsdam.
Mountbatten cho biết hy vọng thủ tướng De Gaulle, đang viếng thăm Hoa Kỳ (từ 22-8-1945), có thể sẽ thuyết phục tổng thống Harry Truman xem xét lại các thỏa ước và hy vọng Truman sẽ áp lực với Tưởng Giới Thạch, để giao cho Pháp việc giải giới quân Nhật. Leclerc liền điện về cho chính phủ Pháp, nhưng quyết định Potsdam vẫn không được sửa đổi. (Philippe Devillers, sđd. tt. 149-150.)
Leclerc yêu cầu chính phủ Pháp gởi ngay quân sang Đông Dương. Tuy nhiên Pháp thiếu phương tiện chuyên chở. Lelerc phải nhờ đến Anh và Hoa Kỳ. Mountbatten tận tình giúp máy bay, tàu đổ bộ, nhiên liệu, vũ khí, thiết bị thay thế, thuốc men, thực phẩm …
Trước khi quân đội Nhật Bản chính thức tuyên bố đầu hàng (14-8-1945), bộ chỉ huy Pháp ở Calcutta (Ấn Độ) ra lệnh cho người Pháp nhảy dù xuống Đông Dương ngày 13-8-1945, kể cả những nhân viên dân sự. Nhiều toán người Pháp được thả xuống ở Bắc và Trung Kỳ. Đa số bị giết hoặc bị bắt giam.
Tối 22 rạng 23-8-1945, Pierre Messmer, uỷ viên Cộng Hòa Pháp ở Bắc Kỳ và hai đồng sự là Brancourt (dược sĩ, đại úy) và Marmot (trung sĩ truyền tin) nhảy dù xuống gần Phúc Yên, bị bắt cả toán. (Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California: University of California Press, Berkely, 1980, tr. 260.) Về sau Messner trốn thoát được một cách khó khăn. (Philippe Devillers, sđd. tr. 150.)
Từ Côn Minh hay Kunming (Vân Nam, Trung Hoa), một người Pháp khác là trung tá hải quân Blanchar, nhảy dù xuống Hải Phòng ngày 16-8, đi lên Hà Nội ngày 22-8 bằng đường bộ. Blanchar cùng bốn đồng đội bị quân Nhật bắt, và chuyển đến Hà Nội ngày 23-8-1945.
Hôm trước (22-8), Jean Sainteny, trưởng phái bộ quân sự Pháp tại Trung Hoa (trở thành ủy viên Cộng Hòa Pháp ỏ Bắc Kỳ từ 2-10-1945 thế Messner), cùng bốn đồng đội được A. Patti, thiếu tá tình báo nhóm O.S.S. 202 (Hoa Kỳ), đưa từ Côn Minh đến phi trường Gia Lâm (Hà Nội) trên chiếc Dakota của Không lực Hoa Kỳ.
Jean Sainteny vào ở dinh toàn quyền Pháp cũ, liên lạc với giới dân sự Pháp, tìm cách nhận lại những tù binh chiến tranh Pháp bị quân Nhật bắt. Ngày 27-8-1945, Võ Nguyên Giáp, đại diện Uỷ ban Giải phóng của Việt Minh, đến thăm xã giao, nhưng sau đó, Sainteny cùng đồng đội bị giam lỏng trong dinh toàn quyền dưới sự kiểm soát của người Nhật, không liên lạc được với ai cả. (Philippe Devillers, sđd.tr. 151.)
Ngày 29-8-1945, Leclerc đáp máy bay qua Nhật, đại diện Pháp, ký vào hiệp ước đầu hàng của Nhật ngày 2-9-1945 trên chiến hạm Missouri, thả neo trong vịnh Đông Kinh (Tokyo). Chỉ huy trưởng lực lượng Hoa Kỳ ở Nhật Bản, tướng Douglas Mac-Arthur đã nói với Leclerc: “ Nếu tôi được khuyên ngài, thì ngài hãy đem theo [qua Đông Dương] nhiều quân sĩ, nhiều nữa, càng nhiều theo sức ngài.” (Nguyên văn lời của Mac-Arthur: “Bring troops, more troops, as many as you can.”). (Philippe Devillers, sđd. tr. 150.)
Như thế, rõ ràng cả Hoa Kỳ và Anh đều khuyến khích và tạo điều kiện cho Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 23-08-2015)
© Đàn Chim Việt
TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI VIẾT SỬ
Lịch sử là những sự kiện chính trị xã hội trọng đại đã qua nên có khi người sau nếu thiếu tài liệu khách quan đầy đủ khó biết đâu là thực chất hay sự thực của chúng. Bởi vậy tính cách của người viết sử, cung cấp sử liệu, hay nghiên cứu lịch sử luôn cần tuyệt đối trung thực, chính xác, ngay thẳng, đó như là một nghĩa vụ, trách nhiệm khoa học và đạo đức thiết yếu nhất. Cho nên nếu bóp méo sự thật quả luôn là điều đáng chê trách, thấp kém và bậy bạ nhất.
Bài viết của ông Trần Gia Phụng “Pháp trở lại Việt Nam” ngay sau khi thế chiến thứ hai kết thúc như trên đây quả thật rất đáng khen và rất cần thiết để giúp mọi người hiểu rõ thêm về sự kiện và ý nghĩa của những biến cố thời cuộc liên quan lúc đó. Đây chính là dấu mốc hay giai đoạn quan trọng nhất cho mọi sự diễn tiến về sau này cho tới nay của đất nước, nên cần có thêm nhiều người khác quan tâm và hiểu biết về giai đoạn lịch sử quan trọng này cần tiếp tục lên tiếng làm rõ hơn nữa.
Ông Phụng viết “Như thế, rõ ràng cả Hoa Kỳ và Anh đều khuyến khích và tạo điều kiện cho Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương” là một chi tiết quan trọng. Và đoạn trên ông viết “Pháp chủ trương trở lại Việt Nam”, đồng thời “ngày 9-3-1945 Nhật lật đổ nhà cầm quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương, chủ trương để cho Việt Nam độc lập. Vua Bảo Đại công bố bản Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3, làm cho De Gaulle rất tức giận”. Đây cũng đều là những chi tiết quan trọng không kém.
Như vậy rõ ràng sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, Pháp mới giành lại được nền độc lập của mình từ người Đức. Nhưng khi được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Quốc xã Đức, Pháp không hề có ý định từ bỏ Đông dương, là do quyền lợi tự nhiên cũng như sĩ diện của nước Pháp. Song trước tình hình mới của thế giới lúc ấy, Pháp buộc phải chuyển hướng chính sách chính trị, tự từ bỏ chính sách thuộc địa cũ và hường theo quan điểm mới là thành lập liên bang Đông Dương có Việt Nam, Cao Miên, Lào, như là một thành phần tự trị trong Liên Hiệp Pháp. Điều này hoàn toàn ngược lại với ý nguyện tuyên bố một nước Việt Nam độc lập của nhà vua Bảo Đại lúc đó sau khi Nhật bại trận và thật sự muốn trao quyền độc lập vĩnh viễn lại cho Việt Nam.
Vậy nên lúc ấy ở đây chỉ còn lại ba sự nghịch lý quan trọng : Khuynh hướng quốc gia dân tộc của hoàng đế Bảo Đại, khuynh hướng khối tự trị Liên bang Đông dương trong LHP của người Pháp, khuynh hướng cách mạng cộng sản quốc tế của ông Hồ Chí Minh.
Cả ba khuynh hướng này sau đó tiếp tục chiến đấu nhau cho mãi đến năm 1954 thì ông Hồ Chí Minh chiến thắng được nửa nước, Pháp hoàn toàn thua.
Tiếp theo đó các đồng chí đồng đội của ông Hồ Chí Minh tiếp tục chiến thắng được cả nước năm 1975, khi lực lượng Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam và đồng minh Hoa Kỳ của họ thua và phải hoàn toàn rút chạy.
ĐẠI NGÀN
(16/9/15)
Thưa,
Tôi hoàn toàn phản đối ý kiến của Ngàn cũng như của Trần sử gia cho rằng Hoa Kỳ ủng hộ Pháp quay lại L’indochine vì :
1. Tôi biết rất rõ hội nghị Teheran 1943 giữa Staline, Rossevelt và Churchill. Cả ba đã thừa nhận toàn bộ vùng Đông Nam Á là do Hoa Kỳ quản lý. Cho nên thuộc địa của Pháp tại L’Indochine làm Hoa Kỳ như người đang nuốt bị mắc xương.
2. Tôi cũng biết rất rõ Hoa Kỳ lôi kéo Tưởng vào miền Bắc Viet Nam để tăng viện vũ khí cho Hồ nhằm đủ sức kháng cự quân Pháp đang dưới danh nghĩa đồng mình theo tàu HQ Anh quay trở lại Indochine . Để đổi lại, Hồ lật đật tiến hành tuần lễ vàng để cuộc trao đổi vũ khí được suông sẽ.
3. Tôi cũng biết rất rõ Hoa Kỳ rất ghét đường lối thuộc địa bảo thủ của Âu châu mặc dù bề ngoài cười tươi hoan hô Pháp vào L ‘indochine. Pháp vào L’Indochine rồi Hoa Kỳ tìm đủ cách phá Pháp để hất Pháp ra khỏi nơi này.
Đã có nghi vấn từ các sử gia tại sao HQ Anh chậm trể khi đưa quân Pháp đổ bộ trở lại Indochine để Hồ có đủ thời giờ thanh toán và truất phế cả Vua Bảo Đại cũng như chính phủ của ông Trần Trọng Kim.
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa hiểu tại sao không quân của Hoa Kỳ không tiếp sức cho Pháp tại Điện Biện mặc tình cho quân Pháp trơ trọi đối chọi với chiến thuật biển người của Trung Cộng, kiệt quệ đạn dượt để đầu hàng dẫn đến mất khả năng kiểm soát Đông Dương sau này.
Nay Ki’nh – NTrD
ĐẠI TƯỢNG VÀ TIỂU TIẾT
Người làm khoa học khách quan nói chung dù thuộc lãnh vực nào cũng cần phân biệt hai khía cạnh quan trọng : tổng thể và chi tiết. Hai khía cạnh này quan liên nhau và cùng tạo nên ý nghĩa và giá trị cho nhau.
Như vậy thực tế VN sau khi thế chiến thứ hai kết thúc là như thế này :
1/ Người Pháp muồn quay trở lại nước ta bằng hình thức mới, hợp thời và không ngoan hơn : thay thế chế độ thuộc địa bằng chính sách chính trị khối Liên Hiệp Pháp cũng giống như người Anh khi đó đi theo đường lối thiết lập Cộng đồng Anh đối với các nước thuộc địa cũ của Anh.
2/ Quyết tâm và mục đích cao nhất của ông Hồ Chí Minh là thiết lập chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam. Đây là mục tiêu tối hậu của ông Hồ, cho dù các chiến lược chiến thuật về các mặt của ông ta có thể tùy tình hình mà mềm dẽo hay thay đổi khác nhau.
3/ Mỹ là nước theo quan điểm tự do và kinh tế thị trường phải bị kẹt giữa thực trạng thế giới mới và thế giới cũ. Thế giới mới là nổ lực Liên Hiệp Quốc mà Mỹ đang cố găng thực hiện, thế giới cũ là chủ nghĩa quốc xã Đức, chủ nghĩa phát xít, quân phiệt Nhật, Ý, chủ nghĩa cộng sản của Stalin (Liên Xô), chủ nghĩa thuộc địa thực dân Pháp, mà lúc ấy Mỹ đang bị mắc nghẹn chưa thể nào nuốt hết cùng lúc được cả thảy để tiêu hóa theo ý mình.
4/ Thực tế xót xa của phần lớn dân VN khi ấy là dân trí nói chung còn thấp, sự hiểu biết khoa học chính trị và chính trị thế thế giới chưa cao, do đó mọi sự tuyên truyền không đứng đắn theo hướng chủ quan hay ý đồ riêng nào đó đều đưa toàn thể đất nước dân tộc vào con đường cụt, bế tắt, lẫn con đường nguy hiểm cho tiền đồ chung mà lúc ấy đất nước hoàn toàn tăm tối chưa định hình hay chưa định hướng được một cách hoàn toàn hiệu quả và sáng suốt, do vậy mọi hiệu quả về sau đều diễn ra theo chính tính cách thực trạng và thực tế này.
Do vậy mọi người VN ngày nay dù bất kỳ trong xu hướng chính trị này cần phải hiểu một cách đích thực mọi điều trên thì mới mong trở thành một con người hiểu biết, đúng đắn, khách quan, trung thực, mới có lợi được cho mình cũng như cho đất nước và đân tộc ta nói chung.
ĐẠI NGÀN
(22/9/15)
Trong cuốn sách “The March of Folly: From Troy to Vietnam”, sử gia Barbara W. Tuchman viết :
Tổng thống Hoa kỳ Roosevelt chống đối chế độ thuộc địa, và muốn nó chấm dứt ở Á chậu. Tháng giêng năm 1943, ông nói với bộ trưởng ngoại giao Codell Hull rằng chế độ thuộc địa của Pháp , trong vòng gần một trăm năm qua, đã làm cho cuộc sống của 30 triệu người Việt còn tồi tệ hơn là trước khi người Pháp đến Việt nam . Và ông muốn người Pháp phải chấm dứt chế độ thuộc địa ở Đông Dương .
Năm 1943, ở hội nghị Cairo, nhật ký của tướng Stiwell ghi lại rằng Roosevelt đề nghị đặt Việt nam dưới chế độ ủy trị quốc tế ( international trusteeship) trong 25 năm sắp tới cho đến khi người dân Việt có thể tự lực cánh sinh. Và Roosevelt hỏi dò Tưởng Giới Thạch ” Có muốn trông coi Đông Dương không ?”, thì nhận được câu trả lời ” Hoàn toàn không “.
MỖI NGƯỜI
Mỗi người cần góp một tay
Biết chi nói nấy mới hay cho đời
Chớ còn như chỉ tịt ngòi
Bảo sao hay vậy biết đời nào khôn
Than ôi thế sự nước non
Chỉ toàn xuyên tạc thì còn gì đâu
Khiến cho lịch sử càng rầu
Vì sai sự thật bởi do tuyên truyền
Cuộc đời mà lắm đảo điên
Chỉ làm dân tộc triền miên dại khờ
Càng khờ vì tưởng lên đời
Hay đâu xuống cấp mới thời vô duyên
Nên mau thức tỉnh liền liền
Càng lâu càng đọa rồng tiên còn gì
Gian ngoa nào có ích chi
Phải vì sự thật mới thì vinh quang
PHIẾM NGÀN
(17/9/15)
Ý tưởng “Chế độ ủy trị quốc tế cho Việt Nam” gặp phải sự chống đối của Pháp và Ạnh . Và nó đã trôi vào quá khứ sau khi tổng thống Roosevelt qua đời .
AI CŨNG BIẾT
Ai cũng biết máu của nước Pháp trước kia là máu của chính sách thực dân thuộc địa. Máu của Anh mà máu của tư tưởng bảo thủ, thường thủ thân và ích kỷ. Chỉ có máu của Mỹ là máu cao bổi, tức tự do, phóng khoáng, mã thượng, rộng rãi và bao dung hơn cả hai anh trên. Như vậy Roosevelt qua đời cũng là sự thiệt hại cho VN khi đó. Còn sự chống đối của Pháp và Anh về qui chế ủy trị quốc tế cho VN lúc ấy chẳng qua cũng chuyện tự nhiên. Có điều chính Tưởng Giới Thạch khi ấy không chịu đứng ra nhận lãnh bảo trợ cho VN theo quy chế này mặc dầu có lời đề nghị của các nước ở hội nghị Potsdam, cho thấy Trung Hoa dân quốc lúc ấy chưa màng tới VN khác hẳn với Mao Trạch Đông sau này đã toan dùng VN làm bàn đạp nhằm tiến xuống khuynh loát mọi nước khác ở Đông Nam Á.
Ấy là chưa nói ở hồi đầu của thế chiến thứ nhất, mặc dầu Đức Quốc Xã và Liên Xô là hai nước không thể đội trời chung vì ý thức hệ chính trị hoàn toàn trái ngược nhau. Thế như cả hai lại ký hiệp ước bất tương xâm vào buổi ban đầu. Nhưng khi thế chiến thứ hai kết thúc, dĩ nhiên các cường quốc phương Tây đều thấy sự nguy hiểm của Liên Xô hay chủ nghĩa CS đối với họ. Và điều này hẳn nhiên Mỹ phải là nước thấy trước nhất và thấy rõ nhất. Và đây có lẽ cũng chính là lý do tại sao Anh lại hỗ trợ phương tiện cho Pháp trở lại VN, cũng như tại sao Mỹ đã can thiệp vào miền Nam sau khi Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ cũng như mãi đến tận năm 1975.
Mỹ sở dĩ bỏ VN là bởi vì đã thấy tiền đồ tan rã của chủ nghĩa CS trên toàn thế giới, không còn cần dung VN làm tiền đồn chống Cộng nữa, thấy TQ lúc đó đã chuyển hướng về kinh tế thị trường dưới thới Đặng Tiểu Bình, nên thực sự kết thúc chiến tranh VN sau năm 1975 đã thực sự mở màn ngay sau cuộc giao hữu bóng bàn đầu tiên của Mỹ Trung lúc đó xảy ra ở Trung Quôc đươi thời cầm quyền của Đặng.
PHƯƠNG NGÀN
(18/9/15)
Cuộc chiến Việt – Pháp không còn là cuộc chiến của người Việt Nam nữa. Tính quốc tế đã hiển hiện rõ rệt . Chỉ thị ngày 14-3-1950 của Tàu cộng Lưu Thiếu Kỳ gửi các cơ sở đảng Cộng Sản Trung Quốc: “Sau khi cách mạng chúng ta chiến thắng, việc giúp đỡ bằng mọi cách để các đảng Cộng Sản và nhân dân các quốc gia bị áp bức tại Á Châu giành thắng lợi là trách nhiệm quốc tế mà đảng Cộng Sản và nhân dân Trung Quốc không thể thoái thác.”
Nghị quyết đại hội V Đệ Tam Quốc Tế tháng 6-1924: “Điều mà chúng ta bắt buộc các đảng Cộng Sản phải làm là tìm cách vận dụng các phần tử dân tộc… Dĩ nhiên chúng ta không bao giờ chấp nhận các phần tử dân tộc … mà chỉ lợi dụng sự bất mãn của họ để phục vụ cuộc cách mạng vô sản”.
Thực thi nghị quyết này, Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội – tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập tại Quảng Châu -đã nêu một tâm niệm trên báo Thanh Niên ngày 20-12-1926: “Dân tộc chỉ là màu sắc chứ không phải bản chất và chủ nghĩa ái quốc là một điều nguy hiểm”.