WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Nguyên nhân chiến tranh 1960-1975

2.   KẾ HOẠCH LIỄU CHÂU: THAM VỌNG CỦA ĐẢNG LĐ

Hội nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là QGVN, VNDCCH (VM), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.

Hội nghị Genève kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành hai giai đoạn:  Giai đoạn thứ nhứt từ ngày khai mạc đến 20-6-1954.  Giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến 21-7-1954.  Giữa hai giai đoạn nầy, trong khoảng thời gian 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi, xảy ra ba sự kiện quan trọng: 1)  Tại Pháp, Mendès France chính thức nhận chức thủ tướng ngày 21-6-1954.  Ông hứa hẹn với dân chúng Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ và sẽ ký kết hiệp ước chậm nhất vào ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt Nam.  2) Tại Việt Nam, Ngô Đình Diệm chính thức cầm đầu chính phủ QGVN ngày 7-7-1954 (ngày Song thất).  3)  Trong thời gian nghỉ họp, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc và là trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Genève, về nước và mời Hồ Chí Minh bí mật hội họp tại thị trấn Liễu Châu (Liuzhou), thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), từ  3 đến 5-7-1954.  Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không biết đến hội nghị nầy.  Nội dung hội nghị nầy không được VNDCCH tiết lộ, mà chỉ được phía Trung Quốc tiết lộ sau năm 1975.

Trong cuộc họp Liễu Châu, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai Việt Nam, đồng thời Châu Ân Lai còn đưa ra kế hoạch cho VM rằng trước khi rút ra Bắc, VM nên kiếm cách phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, để hữu dụng về sau.

Về phía phái đoàn VM, Võ Nguyên Giáp, tháp tùng theo Hồ Chí Minh, đã trình bày trong cuộc họp rằng nếu phải rút ra Bắc, thì VM chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy, có thể từ 5,000 đến 10,000 người.(3) Trong số những người cộng sản gài lại ở miền Nam Việt Nam, có cả Lê Duẫn, bí thư Trung ương cục miền Nam của đảng LĐVN.(4)

Như thế, rõ ràng đảng LĐ đã sắp đặt kế hoạch trường kỳ mai phục, chuẩn bị lực lượng tấn công miền Nam Việt Nam, trước khi ký kết hiệp định Genève vào ngày 20-7-1954.  Vì vậy, đảng LĐ sẵn sàng chà đạp hiệp định Genève để thực hiện chủ trưong của đảng LĐ, xâm chiếm miền Nam Việt Nam.

Muốn tiến đánh miền Nam Việt Nam, cộng sản Bắc Việt rất cần viện trợ Quốc tế cộng sản (QTCS), nhất là Liên Xô và Trung Quốc.  Khi Trung Quốc đưa ra tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, theo đó ranh giới biển  của Trung Quốc là 12 hải lý từ bờ biển, thì ngay sau đó, để lấy lòng Trung Quốc, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, vội vàng viết quốc thư đề ngày 14-9-1958, gởi Chu Ân Lai, thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, nhìn nhận tuyên bố của Trung Quốc.  Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc gồm có 4 điểm trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau:

(1)  Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc.

. . . . . . . . . . . . . .

(4)  Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc...(5)

Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc xác định hai điều: 1) Chiều rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý.  2)  Sau tuyên bố của Mao Trạch Đông năm 1939 xác định Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung Quốc,(6) nay một lần nữa Trung Quốc mặc nhiên khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, thuộc về lãnh thổ Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa] và Nam Sa [Nansha tức Trường Sa].

Thế mà Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng LĐ, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc.  Nguyên văn phần nội dung chính của công hàm như sau:

Chính phủ nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể.” (Bản công hàm của Phạm Văn Đồng quá nổi tiếng, xin miễn chú thích.)

Tán thành bản tuyên cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc có nghĩa là VNDCCH đồng ý điều 4 trong bản tuyên cáo của Trung Quốc là đúng, tức Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc.  Dầu Hoàng Sa và Trường Sa nằm về phía nam vĩ tuyến 17, thuộc quyền kiểm soát của VNCH chứ không phải VNDCCH, nhưng cũng thuộc về tổ quốc Việt Nam.  Đây là một hành vi chẳng những vi phạm Hiệp định Genève, mà còn phản quốc trắng trợn của Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng LĐVN, chỉ vì tham vọng đánh chiếm miền Nam.

Ghi chú:

3. Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27  “Hội nghị Liễu Châu then chốt”.(Nguồn: Internet).

4. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 202.

5. http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm (trích ngày 26-10-2009).

6. Năm 1939, trong một tài liệu của đảng Cộng Sản Trung Quốc, tựa đề là Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã xác quyết: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm An-Nam.” (Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.)  Như thế trong quan niệm của Mao Trạch Đông, An-Nam (tức Việt Nam) là nước phụ thuộc Trung Quốc.

Pages: 1 2 3

4 Phản hồi cho “Nguyên nhân chiến tranh 1960-1975”

  1. noileo says:

    Nói tóm lại thì, hoặc là bịp bợm, hoặc là đần độn, hoặc là bị tẩy não, mà có những luận điệu gọi là “chiến thắng của dân tộc” do các chuyên gia làm chứng gian, aka “trí thức cộng sản & trí thức giải phóng & trí thức dù sao & trí thức tiệm tiến”…, tô vẽ lên cái áo giấy bao phủ che chắn cho cuộc chiến tranh Hồ chí Minh 20 năm người Việt ta theo lời bác Minh,

    -nhà gián điệp Nga cộng,
    -chuyên gia phất cờ đỏ sao vàng vào ngày 19-5-1946, “sinh nhật cụ Hồ”, đón quân Pháp “tốt” vào Hà nội, tái chiém Việt nam làm thuộc địa, đặt Việt nam vào vòng nô lệ “Liên hiệp Pháp”,
    -chuyên gia cắt đôi VN, dâng nạp cho cộng sản,
    -chuyên gian khủng bố “cải cách ruộng đất”,
    -chuyên gia “chuyên chính vô sản” đàn áp & giết hại trí thức miền Bắc,
    -chuyên gia cắt hải đảo Việt nam dâng cho tàu cộng

    đi gieo máu lửa thê lương tang tóc, bắn giết người Việt mình ở miền nam đang yên lành xây dựng cuộc sống tử tế trong thanh bình, để dâng nuớc mình cho cộng sản ác quỷ, làm tàn hại nuớc mình, cuối cùng dâng nuớc mình cho Tàu cộng, kẻ thù truyền kiếp phương Bắc!

  2. TU_NHAN_DAN_ says:

    Rat trung thuc va sau sac… 2 phan hoi : lotxac,Nguyen Hien.
    Dung ! Nguoi Viet Nam muon khong con ChienTranh, khong lam No Le va khong Le Thuoc voi bat cu Quoc gia nao … Thi phai Kien Quyet : Chong Tau Cong , Viet Cong de cuu Dan Toc . Va gianh lai quyen Doc Lap -Tu Do – Dan Chu that su .

  3. lotxac says:

    Tác-giả Tran gia Phung đua ra đề: NGUYEN NHAN CHIEN TRANH VIET NAM 1960-1975 đó chỉ là cái nhìn một góc cạnh nào đó mà thôi; sau nhũ+ng lần đọc nhũ+ng bài viết về Viet-Su khảo luận của một vài tác-giả nhu HCT,TN,DC và ĐT ỏ Pháp.
    Theo tôi thì con cò môì HCM tên thu+à sai của NGA và TÀU đã có chủ truong dùng hiệp-định Genève làm giai-đoạn,và co+-hội tốt để thôn tính phần còn lại của Viet-Nam và Đông-Duong bao gồm: Miên Việt Lào.
    Riêng chính quyền Ngô đình Diệm là do khối Thiên chúa giáo tại New-York mo+ì qua và yểm trọ cho Diệm làm Tổng-Thống VNCH; dĩ nhiên cả hai tên HCM và Ngô đình Diệm đều do nhu+ng tay BÁ-QUYỀN sắp xếp; chú không một tên nào do chính NHAN DAN VN lụa chọn ra lãnh đạo cho họ. Nhung có hai giai cấp thấy rõ: NĐD là con nhà QUAN; có đạo-đúc,và có học; nhung vì cái HAM QUYEN; HAM DANH muôn thủa;nên PHẢN nguoi giao cho mình gánh vác đất nuoc. Mặt khác, Ngô đnh Diệm đã làm mất lòng nguoi miền NAM, triệt hại nhân tài nhu Trịnh minh Thế, bảy Viễn v.v. khiến dân miền Nam là cái ổ cho muu đồ HCM ấp trú+ng,và nuong tụa cho ý đồ xâm luoc , mà hắn đã dụ định theo đuong lối của TQ và NGA.
    Sau chiến tranh thế-gioí thu II chấm dút thì các cuong-quoc chia VN, Đúc, Triều-Tiên,và Trung- Hoa ra làm hai;dù Đài loan là một phần nhỏ của TQ,và Hồng-Kông còn là thuộc địa của Anh. Thế nhung các nuoc bị chia họ đâu cò làm càng nhu HCM chà đạp lên mạng sống của nhân-dân hai miền Nam và Bắc đeể muu đồ cho quyền loị cho mình bất chấp hàng triệu triệu thanh-niên mất đi mạng sống.
    Giả sủ, Tổng-thống NĐD của VNCH nghe thỏa thuận của HCM sau khi có hiệp-uoc Geneve 1954 thì chế độ CSVN đua nhan-dan hai miền chịu cảnh của Bắc-Hàn hoặc CUBA nhu ngày hôm nay chẳng hon chẳng kém, và phaần Đông duong chắc chắn là của TAÙ CỘNG vì họ đã nói: PHAN ĐẤT còn lại của họ đã đuọc THU-HỒI.

  4. Chống Mỹ cứu nước bây giờ phải đổi lại câu ấy là chống Cộng cứu nước. Nếu bây giờ con người VN không chống VC, thờ ơ với thời cuộc thì chắc chắn không yêu nước. Bây giờ lấy Mỹ đâu mà chống, trái lại VC bây giờ rất thích Mỹ, rất thích đô la, rất thích sống và học ở Mỹ. Như thế, thế hệ chống Mỹ cứu nước là thế hệ bị bịp, nướng mình vào lửa đỏ một cách vô duyên. Cuối cùng dân tộc này chỉ hưởng cuộc sống nô lệ.

    VC giờ đây cứ lải nhải những tuyên truyền lỗi thời như bảo vệ đảo, chúng muốn bịp thế hệ kế tiếp, đem nướng mình vào sự nghiệp không có gì đáng tự hào. Tội nghiệp cho những người tuổi trẻ VN, giờ đây còn cầm súng sống một nơi hoang sơ trên những vùng đảo xa xôi, không có lối thoát. Các anh bộ đội này đâu hiểu cuộc đời mình chỉ làm trò hề cho thiên hạ, chỉ bảo vệ một chế độ thối nát, ngây thơ mơ ước ngày mai VN muôn đời bền vững.

    Những lời đề nghị của VC đối với chế độ miền nam chỉ để lừa phỉnh và rốt cuộc vào tay VC. Miền Nam sống trong tự do, mặc dầu còn non trẻ nhưng người miền nam có nhiều tự do. Ngày nay nước nhà thống nhất độc lập, nhưng những quyền căn bản của con người bị tước đoạt, thế thì tư do ấy có ích lợi gì cho dân tộc. Cám ơn nhà sử học Trần gia Phụng đã đưa ra những lởi để nghị đểu giả của VN để cho thế hệ con cháu sau này thấy rõ: Đừng nghe VC nói, sau 75, toàn dân đã bừng tỉnh nhưng còn một số người còn mơ VC đổi thay nên còn ngóng cổ trông chờ những điều viễn vông không bao giờ có.

    Ngày nào VC còn sống thì dân tộc này không bao giờ có hạnh phúc và họa mất nước phải xẩy ra. Muốn có một ước mơ đẹp, chúng ta phải đoàn kết thực sự, không nên đem quá khứ để bôi nhọ nhau. VN chưa thắng VC vì chúng ta chưa thực sự đoàn kết, còn căm giận nhau vì bị quá khứ đè nặng trong tâm nảo, chưa vứt hết định kiến. Tôn giáo vẫn còn nằm trong vòng khép kín, chưa đưa ra một lối thoát hữu hiệu. Định kiến quá khứ làm chậm lại tiến trình dân chủ hóa đất nước, khi nào sức mạnh đoàn kết dân tộc chưa được đề cao thì lúc ấy VC còn tồn tại, mặc dù chúng sống trong vòng lửa, tứ bề là địch. Dân tộc Iran, một dân tộc cũng có những hành động lở lầm như chúng ta nhưng dân tộc Iran đã biết bỏ những tranh chấp quá khứ, đoàn kết một lòng vì thế dân tộc Iran sẽ có ngày mới. Nếu chúng ta làm được điều ấy, VC sẽ từng bước sụp đổ và dân tộc mình sẽ có ngày hạnh phúc tươi đẹp.

Leave a Reply to Nguyễn Hiền