Pháp quyền hay pháp trị?
Xuất hiện từ trong nước ít lâu nay, từ ngữ “pháp quyền” bắt đầu được sử dụng trên các báo của người Việt ở ngoài nước. Lo ngại rằng hiện tượng này có thể gây nên nhiều sự hiểu lầm về những ngữ nghĩa của từ ngữ “pháp quyền” đứng riêng, hoặc đứng chung với từ ngữ Nhà nước trong thành ngữ “Nhà nước pháp quyền”, vào dịp một cuộc hội thảo vào thời điểm thập niên 1980, tôi có đưa ra một số ý kiến về từ ngữ có vấn đề ấy. Dưới đây là bài tham luận của tôi, phần đầu chỉ tóm lược, phần sau có thêm một vài bổ sung nhỏ. Tuy bài dưới đây đã được viết vào một thời điểm đã qua, nhưng vẫn còn giữ được một mức độ tính thời sự cao.
Trần Thanh Hiệp
——————————————————
I. Pháp quyền, pháp trị về mặt “danh” hay là mặt hình thức
“Pháp quyền”, từ ngữ mới
Gần đây, nhân có nhiều trao đổi ý kiến về các vấn đề đa nguyên, đa đảng, dân chủ, đổi mới, v.v… người ta thấy xuất hiện trên sách báo trong nước một từ kép mới, “pháp quyền”. Việc sửa đổi hiến pháp đã buộc các người lãnh đạo, các quan chức cộng sản phải nói tới “pháp quyền“. Năm 1992, Viện Nhà nước và Pháp luật ở Hà Nội đã xuất bản một cuốn sách nhỏ dày hơn 100 trang dưới tựa đề “Tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền“, sáng tác chung của một tiến sĩ, ba phó tiến sĩ khoa học pháp lý và một luật gia. Ngoài ra, một nhân vật trí thức được coi như có xu hướng chống đảng, giáo sư Phan Đình Diệu, công khai lên tiếng cổ võ cho việc thiết lập một “Nhà nước pháp quyền“. Có lẽ thái độ chống đối tuy ôn hòa nhưng ở ngay trong lòng chế độ ấy đã gián tiếp làm cho từ ngữ “pháp quyền” được hội nhập dễ dàng vào ngôn ngữ chính trị của người Việt ở ngoài nước và bắt đầu được lác đác sử dụng trên báo chí hải ngoại. Kết quả là về một thuật ngữ, vì từ ngữ mới “pháp quyền” xen lẫn với những từ ngữ cũ “pháp trị“, “pháp luật“, người đọc không biết là có khác biệt giữa “pháp quyền“, “pháp trị“, “pháp luật” hay không và nếu có thì phải căn cứ vào đâu để nhận biết!
Pháp luật, trước hết là một vấn đề ngôn ngữ vì ngôn ngữ trong pháp luật là sự thể hiện của quyền lực nên phải thận trọng. Dùng “danh” (hay “cái để biểu đạt”, le signiflant) của cộng sản thì phải hiểu rõ “thực” (hay “cái được biểu đạt”, le signifié) của nó là gì. Để tránh tệ trạng chính tà, thị phi đảo lộn, làm mất công sức phục hồi sự thật như thói tục đảo điên trong sinh hoạt chính trị, văn hóa gần hai thập niên qua ở trong nước (như đã được quan sát ở hải ngoại).
Muốn hiểu rõ nội dung chữ “pháp quyền” thì không thể chỉ căn cứ vào nghĩa riêng của hai từ đơn “pháp” và “quyền” rồi kết luận vội vàng và đại khái – nhưng rất sai lầm – rằng “pháp quyền” có nghĩa là pháp luật với quyền cao nhất. Phải đặt chữ này vào trong hệ thống các văn bản qui chuẩn cấu thành chế độ xã hội chủ nghĩa đương hành, trong ý hệ cộng sản mới làm lộ rõ được nội dung đích thực của nó. Nếu làm như thế thì sẽ thấy ngay rằng “pháp quyền” không biểu thị loại pháp luật mà chúng ta biết và chấp nhận – nghĩa là loại pháp luật của các nước dân chủ tự do. Trái lại, nó biểu thị thứ pháp luật riêng của cộng sản hoàn toàn khác tới mức độ trái ngược với pháp luật không cộng sản. Như vậy, không có lý do gì để dùng nó.
Chữ “pháp quyền” ở đâu ra?
Không đi quá sâu vào địa hạt chuyên môn rất phức tạp của luật học, chỉ xin nêu lên một vài cơ sở xét đoán để giải thích tại sao không nên dùng “pháp quyền“. Điều không nên quên là các nhà lãnh đạo, các quan chức, các luật gia cộng sản không dùng pháp luật, pháp trị, lại dùng “pháp quyền“, không phải vì họ không biết đã có các chữ pháp luật, pháp trị mà tại vì họ không muốn nhượng bộ các đòi hỏi dân chủ, vì nhượng bộ thì sẽ bị lôi cuốn vào việc phải chấp nhận và áp dụng thứ pháp luật của các nước tự do dân chủ.
Chính vì thế mà họ đã phải mượn chữ “pháp quyền” – đã có từ trước nhưng với một nghĩa khác – mượn cách Trung Cộng đã dùng chữ này để dịch chữ “droit” của người Pháp. Ông TSIEN Tche Hao, tiến sĩ luật khoa, năm 1980 trong một cuộc hội luậncủa “Trung tâm triết học về pháp luật” ở Paris, cho biết rằng Trung Cộng đã dùng chữ “faquan” (pháp quyền) với nghĩa của chữ “droit”, như khi họ dịch chữ “droit bourgeois” là “zichan faquan, tư sản pháp quyền“. Ông còn nói thêm, “pháp quyền” hiểu theo ngữ nghĩa là quyền do luật định (pouvoir légal)”. Với mọi dự phòng sai, sót và căn cứ vào những tài liệu của chính “Đảng Cộng sản Việt Nam“, tôi xin đưa ra một giả thuyết là chữ “pháp quyền” chỉ mới bắt đầu được dùng công khai, theo nghĩa mới, không sớm hơn năm 1985 (về bằng chứng, xin xem ở dưới). Trước đó, một số từ điển Hán-Việt, Hán-Pháp, Pháp-Hán xuất bản từ những năm 30 đến những năm 60 ở Hồng Kông, Thượng Hải, Hà Nội, Sài Gòn đều có ghi chữ “pháp quyền” nhưng chỉ để đối dịch chữ “juridiction” của Pháp và có nghĩa là “quyền tài phán“, tức là quyền để xét xử. Ở những thời điểm ấy, nó không hề có nghĩa tổng quát ngang với chữ “pháp luật“. Hai cuốn tự điển Pháp-Việt và Hán-Việt của Đào Duy Anh không thấy ghi chữ “pháp quyền“. Cần nhấn mạnh rằng các từ điển Việt Nam xuất bản tại Hà Nội, như “Từ điển tiếng Việt” (1977) hay “Từ điển Pháp-Việt, Dictionnaire français-vietnamien” (1981) đều không thấy ghi chữ “pháp quyền“. Cuốn từ điển thứ hai này đã dịch chữ “droit” là “luật, pháp luật” và chữ “juridiction” là quyền xét xử. Mãi đến năm 1992 cộng sản mới ghi chữ “pháp quyền” vào các từ điển của họ như cuốn “Từ điển tiếng Việt” hay “Từ điển Việt-Pháp” với những nghĩa mới. Từ điển tiếng Việt định nghĩa “pháp quyền” (danh từ) là hệ thống pháp luật tiêu biểu cho quyền lực của Nhà nước, cho bản chất của một chế độ. Còn “Từ điển Việt-Pháp” thì dùng chữ “droit” để đối dịch chữ “pháp quyền” (ngoài ra, chữ này cũng còn có nghĩa thứ hai là quyền xét xử, nghĩa của chữ “juridiction”). Những điều kể trên cho phép kết luận rằng cộng sản đã dùng chữ “pháp quyền” với một nội dung rất xác định để dịch chữ “droit” của Pháp và vì thế không thể coi “pháp quyền” là tương đương với “pháp luật“, quá thông dụng và hầu như đã mất tính cách thuật ngữ để thành khẩu ngữ. Nhưng nội dung cộng sản muốn có là nội dung nào? Điểm này sẽ được quảng diễn ở phần II là phần bàn về nội dung. Xin trích dẫn ba đoạn rất tiêu biểu cho quan điểm cộng sản về pháp luật của họ tức là về “pháp quyền“.
Đoạn trích dẫn thứ nhất liên quan đến “pháp quyền” khi chữ này chưa được chính thức dùng để dịch chữ “droit”:
“Hiến pháp vừa phải ghi lại những thành quả đã đạt được, hợp pháp hóa” các thành quả đó, ổn định các thành quả đó thành “pháp quyền” (tức là được qui định thành pháp luật và được bảo đảm bằng pháp luật) nhưng không thể không đề cập những mục tiêu phải đạt trong tương lai, một tương lai không xa lắm…“ (Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội I985, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, tr.344).
Hai đoạn trích dẫn còn lại cho thấy dưới mắt đảng cộng sản, luật pháp nghĩa là gì:
1. “Luật: văn bản do cơ quan quyền lực tối cao ban hành qui định những phép tắc trong quan hệ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo“ (Từ điển tiếng Việt, Hà Nội 1992, Trung tâm từ điển ngôn ngữ).
2. “Trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, luật hình sự có vị trí rất quan trọng. Nó là công cụ sắc bén của Nhà nước chuyên chính vô sản để bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa…“ (Lời nói đầu, Bộ Luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội 1985, Nhà Xuất bản Pháp lý).
Rõ ràng là một định nghĩa dành riêng cho pháp luật cộng sản với những mập mờ cố ý: cơ quan quyền lực tối cao theo hiến pháp là quốc hội nhưng theo thực tế thì là “Đảng“. Sử dụng chữ “pháp quyền” trong ngữ cảnh ấy như là một chữ tương đương với chữ “droit” thì không thể chủ quan đến mức coi rằng đó là cùng một thứ pháp luật hiểu theo nghĩa của luật học không cộng sản. Nếu trong thâm tâm không chấp nhận luật của cộng sản thì tốt hơn hết là đừng dùng chữ “pháp quyền“. Chữ “droit” xưa nay vốn được dịch là “pháp“, ghép hai từ “pháp“, “quyền” vào nhau cũng vẫn để dịch chữ ấy là vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa là vì đã là pháp thì tất nhiên là có quyền (để chế tài, trừng phạt). Vấn đề là quyền ấy ở đâu ra và phải được hành sử như thế nào (trong trường hợp Việt Nam XHCN, quyền của pháp ở dưới Nghị quyết của Đảng). Như vậy, chỉ nói đến quyền không thôi, là nói thiếu. Và Nhà nước nào cai trị bằng thứ “pháp quyền” ấy cũng không thể là một nhà nước “pháp trị” theo nghĩa quen thuộc của danh từ.
II. Pháp quyền và pháp trị về mặt “thực” hay là mặt nội dung
Pháp trị và Nhà nước pháp trị
Như trên đã nói, “pháp quyền” chỉ là một nhãn hiệu cộng sản dùng để dán vào “pháp luật” tự do dân chủ mà thực chất khác xa pháp luật cộng sản. Lấy “pháp quyền” để dịch thành ngữ État de Droit là “Nhà nước pháp quyền” thay vì “Nhà nước pháp trị” là còn làm lớn thêm hơn nữa khoảng cách giữa hai thứ pháp luật ấy. Có thể nói, khoảng cách một trời một vực vì thêm vào sự khác biệt của hai thứ pháp luật, lại còn có sự khác biệt của hai loại nhà nước!
État de Droit, tiếng Đức Rechtsstaat, (Nhà nước pháp trị) là một đề tài luật học không đơn giản như nhiều người tưởng, nhất là nếu chỉ hiểu Nhà nước pháp trị qua định nghĩa sơ sài của pháp trị là “căn cứ vào pháp luật để trị lý quốc gia“. Cần nhấn mạnh ngay rằng “nhà nước pháp trị” nói tới ngày nay không phải là loại “nhà nước pháp trị” thuở xa xưa trước Công nguyên, vào thời của các pháp gia nổi tiếng như Quản Trọng (nước Tề), Tử Sản (nước Trịnh), Công Tôn Ưởng (nước Tần), Thận Đáo (nước Triệu), Lý Tư (nước Tần), Hàn Phi Tử (một pháp gia kiệt xuất không có dịp thi thố tài năng nhưng đã bị giết chết vì tư tưởng pháp trị của mình), v.v…
Với một quá trình hình thành và biến đổi, ngày càng hoàn mỹ, dài trên năm thế kỷ, Nhà nước pháp trị là thành quả của nhiều cuộc cách mạng vừa đổ máu vừa ôn hòa, là nơi tàng trữ những giá trị văn hóa phương Tây, là tinh hoa của văn minh phương Tây và trước thềm thế kỷ 21, đã trở nên kiểu mẫu lý tưởng tổ chức xã hội cho nhân loại.
Miêu tả đầy đủ ở đây các loại nhà nước pháp trị là điều không làm được vì khó mà bao quát hết, dù chỉ phác họa sơ qua hình thế (configuration) của tất cả các nhà nước pháp trị đã hiện hữu ở phương Tây. Tuy nhiên, để tiện việc so sánh nhà nước pháp trị với “Nhà nước pháp quyền“, tưởng cũng nên nêu lên những đặc tính chung của các nhà nước pháp trị:
1. Nhà nước pháp trị là nhà nước sinh ra để chống chuyên chế và vì vậy có bản chất chống chuyên chế, bắt đầu bằng việc chống thần quyền, quân quyền tuyệt đối.
2. Nhà nước pháp trị là sự biểu lộ khát vọng của loài người muốn chinh phục phẩm giá, quyền lực cho “con Người ” (l’Homme, la Personne) nạn nhân của thần thánh, vua chúa, thiên nhiên, đồng loại, v.v…
3. Nhà nước pháp trị, do đó, là nhà nước của mọi con dân trong một nước (nghĩa là của quốc dân) và bởi thế nó được coi như là nhà nước của quốc gia dân tộc (la Nation) không phải của riêng của một cá nhân, một giòng họ, một tôn giáo, một giai cấp, một đảng phái, một tập đoàn cầm quyền nào, v.v…
4. Nhà nước pháp trị, để tồn tại mà không mất bản chất, đã thiết lập và thượng tôn một trật tự xã hội dựa trên pháp luật, trật tự pháp lý (ordre juridique)(**); trong hệ thống pháp luật (pháp chế) của trật tự pháp lý này, các quy phạm có đẳng cấp trên dưới rõ rệt (hiến pháp, luật, văn bản dưới luật, v.v…) không ai có thể tùy tiện đảo lộn hay xóa bỏ.
5. Nhà nước pháp trị, bởi vậy, đã phải phân chia quyền hành minh bạch (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và hành sử các quyền này theo đúng kỷ cương, có sự kiểm soát nghiêm mật để tránh lạm quyền, bảo đảm cho các “nhân quyền”, thành văn hay không thành văn, được thực sự tôn trọng, để cho con người, mọi người, có cơ hội hành sử tự do của mình, để cho có đa nguyên về tư tưởng, về tổ chức, v.v… Nhà nước pháp trị là nhà nước có đặc điểm nổi bật “ít nhà nước“.
6. Nhà nước pháp trị, kể từ thập niên 50, ngày càng có xu hướng mạnh mở rộng ra ngoài biên cương của quốc gia phạm vi hoạt động của mình (Liên Hiệp Quốc) và đến thập niên 90 thì các hệ thống pháp luật riêng đã bắt đầu có sự điều hành chung, đang có cơ đi tới thống nhất làm nền tảng cho một trật tự pháp lý toàn cầu.
7. Nhà nước pháp trị, nói tóm lại, là dấu tích mà loài người đã và đang lưu lại trên bước đường tiến hóa xa dài đã qua và còn đang đi tới của mình.
8. Nhà nước pháp trị, như lịch sử đã chứng minh, cho đến nay là nhà nước của dân chủ tự do (démocratie libérale), những nhà nước chuyên chính cũ để trở thành nhà nước pháp trị đều tự hủy diệt mầm mống chuyên chính, như Liên Xô cũ và các nước ở Đông Âu. Trung Quốc, Việt Nam (Cuba, Bắc Hàn chắc cũng vậy?) không nói pháp trị, chỉ nói “pháp quyền” là để tiếp tục duy trì chuyên chế (chuyên chính).
Nhà nước hiện nay ở VN không phải là Nhà nước pháp trị
Đến đây, có thể nêu lên hai câu hỏi. Thứ nhất, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay tuy mang nhãn hiệu “Nhà nước pháp quyền” có phải là Nhà nước pháp trị không? Thứ hai, nếu là không, hay chưa, là nhà nước pháp trị thì trong tương lai nó có thể trở thành nhà nước pháp trị được không?
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, không thể căn cứ vào quyển “Tìm hiểu về Nhà nước pháp quyền” mặc dù rằng nó là sản phẩm của Viện nhà nước và pháp luật và Nhà xuất bản pháp lý “được phép” xuất bản. Trước hết vì đó không phải là tiếng nói chính thức của Đảng. Thứ đến, dù cho là tiếng nói của Đảng chăng nữa thì tiếng nói ấy cũng chỉ là một luận điệu trong nhiều luận điệu tuyên truyền, luận điệu dành cho dư luận ngoại quốc và quảng cáo cho trò đổi mới kiểu “Vũ như Cẩn“ ! Sau hết, tuy một mặt phải khen năm tác giả của cuốn sách đã cố gắng tỏ ra khách quan, dám nói tới một số ý kiến trước đây vẫn bị kết án là tư sản phản động nhưng mặt khác lại không thể không phiền trách họ đã đơn giản hóa quá mức các kiến thức về nhà nước pháp trị và đôi khi cố ý hay vô tình, gây một cảm tưởng rằng “nhà nước pháp quyền” là nhà nước pháp trị và nội dung cả hai chỉ có bấy nhiêu, nghĩa là như đã được “tổng thuật” trong cuốn sách của họ.
Muốn có cơ sở chắc chắn để quyết đoán rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là loại nhà nước gì, có phải là nhà nước pháp trị gọi theo ngôn ngữ cộng sản mới, “nhà nước pháp quyền” không, thì phải dựa vào những tài liệu gốc, xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin, các nghị quyết của Đảng, các sách, báo chính thống của Đảng.
Cái gọi là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa chính thức được Đại Hội IV cho ra đời sau khi Đảng Cộng sản cưỡng chiếm xong được miền Nam, đã phát hiện đầy đủ cả về mọi mặt bản chất của nó. Các tài liệu chính thức của Đại Hội này đã cho thấy từ Hiến pháp đến tất cả pháp luật xã hội chủ nghĩa đều qui về một mối duy nhất, đúc kết qua những đoạn trích dẫn dưới đây:
“Nội dung hệ thống pháp luật bao gồm các thể chế có mối liên lạc hữu cơ với nhau, bổ sung lẫn nhau và làm điều kiện cho nhau nhằm cuối cùng xây dựng và thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Hệ thống pháp luật của ta phải thể hiện rõ chế độ tập trung dân chủ trong quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội…
Tóm lại, hệ thống pháp luật mà chúng ta xây dựng phải thể hiện tính nguyên tắc nhất quán, nội dung qui phạm năng động, mềm dẻo nhưng chặt chẽ, rõ ràng, bảo đảm sức mạnh của chuyên chính vô sản…” (Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ Việt Nam, Tập II, Bình luận, Hà Nội 1985, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, tr. 360-361).
“Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một biện pháp quan trọng nhằm tăng cường chuyên chính vô sản… ” (Trường Chinh, Tham luận tại Đại Hội Đảng lần thứ IV).
Quảng diễn ý kiến của Trường Chinh, các luật gia được giao chức vụ chính thức của Đảng đã nói về pháp luật (nghĩa là pháp quyền) xã hội chủ nghĩa như sau:
“Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại Hội lần thứ IV Của Đảng, chúng ta khẳng định rằng: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa là Nhà nước chuyên chính vô sản trên phạm vi cả nước” (Tạ Như Khuê, Những vấn đề pháp lý qua Nghị quyết Đại Hội lần thứ IV của Đảng, tr.33, Hà Nội 1978, Viện Luật học, Nhà xuất bản khoa học xã hội).
“Giữa nhà nước chuyên chính vô sản và Đảng có mối tương quan chặt chẽ. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản là đảng nắm chính quyền và như mọi người đều biết, vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Đảng không thể lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội nếu không có Nhà nước. Ngược lại, Nhà nước không thể làm tròn nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, không thể phát huy được mạnh mẽ và đầy đủ các chức năng của mình nếu không có sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước sẽ không phải là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nếu không do Đảng cộng sản lãnh đạo, nếu hoạt động của nó không dựa trên đường lối Mácxít-Lêninnít của Đảng. Sự lãnh đạo của đảng là bảo đảm cao nhất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa” (Ngô Hướng Đàm, Sách đã dẫn, tr. 45).
Quan điểm, chủ trương về Nhà nước ở trên là sự thực thi tư tưởng Mác-Lênin:
“Đảng lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện… Không một vấn đề quan trọng nào về chính trị hoặc về tổ chức được cơ quan Nhà nước ở nước cộng hòa chúng ta giải quyết mà không có ý kiến lãnh đạo của Đảng “ (Lênin Toàn tập, tập 41, tr. 31, Ngô Hướng Đàm trích dẫn trong sách đã dẫn).
“… một nguyên tắc tối quan trọng là bộ máy Nhà nước phải phục tùng và thực hiện mọi đường lối, chính sách và chỉ thị của Đảng… như Lênin đã viết. Cần sử dụng mọi lực lượng để đạt được một cách vô điều kiện sự phục tùng hoàn toàn của bộ máy Nhà nước đối với chính sách Đảng” (sách đã dẫn, tr. 48).
Lời kết luận không thể rõ rệt hơn của một luật gia khác, một luật gia “hộ Đảng”, Nguyễn văn Thảo, về Nhà nước xã hội chủ nghĩa là:
“Toàn bộ đường lối, chính sách của Đảng ghi trong Đại Hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng và các Nghị quyết tiếp theo của các phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các chỉ thị của Bộ chính trị và Ban bí thư mà nội dung cơ bản, chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước…” (Nguyễn văn Thảo, Hiến pháp…, sách đã dẫn, tr. 263).
Sau khi đọc hết mấy đoạn trích dẫn trên, ai là người đủ can đảm để nói rằng “Nhà nước pháp quyền kiểu cộng sản Việt Nam là Nhà nước pháp trị kiểu phương Tây?
Nhà nước ấy trong tương lai cũng không thể trở thành Nhà nước pháp trị được
Để trả lời câu hỏi “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có thể trở thành một Nhà nước pháp trị được không? Quả thật không khó khăn gì. Năm 1992, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sửa đổi hiến pháp và không nói tới chuyên chính vô sản nữa. Nhưng không nói, không phải là sẽ không có chuyên chính vô sản nữa. Năm 1945, “cụ Hồ” đã công khai và chính thức tuyên bổ giải tán Đảng Cộng sản, rốt cuộc Đảng vẫn tiếp tục hoạt động và hoạt động mạnh để năm 1975 chiếm quyền trọn cả nước bằng chủ nghĩa Mác-Lê và Đảng. Mặt khác, cái khung của chuyên chính vô sản vẫn còn, Đảng vẫn nắm quyền lãnh đạo, nghĩa là nắm quyền sinh quyền sát ở trong tay, Nhà nước chỉ là công cụ cai trị của Đảng. Có gì bảo đảm và ai dám bảo đảm rằng Đảng đã tự giác ngộ, đã đi vào con đường dân chủ, nghĩa là đã từ bỏ chuyên chính, nhất là Đảng vẫn khư khư ôm lấy điều 4 của biện pháp giành cho riêng mình độc quyền lãnh đạo chính trị, vẫn thẳng tay đàn áp những người dân chủ ôn hòa như Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Văn Thuận, Đoàn Thanh Liêm, vẫn lũng đoạn nội bộ các tôn giáo, trói tay văn nghệ sĩ, bưng miệng báo chí, v.v….? Chừng nào không có bằng chứng rõ rệt thì không thể không coi cái gọi là “Nhà nước pháp quyền” hiện đang cầm quyền là Nhà nước gốc chuyên chính vô sản, nhưng đã được pha chế để thị hiện đưới những hình thức ngụy trang mà thực chất đều hoàn toàn “phản dân chủ”.
© Trần Thanh Hiệp
© Đàn Chim Việt
TRỞ LẠI KHÁI NIỆM PHÁP QUYỀN VÀ PHÁP TRỊ
Khái niệm pháp quyền (từ Hán Việt 法 權) và pháp trị (法 治), chủ yếu là chữ “pháp” (法). Khi ghép với chữ quyền (權) nó là ý niệm pháp quyền. Khi ghép với chữ trị (治) nó là ý niệm pháp trị. Nó hoàn toàn ngược lại hay khác hẵn với khái niệm nhân trị (từ Hán Việt 人 治). Pháp trị là dùng luật pháp để trị. Nhân trị là dùng con người để trị. Nhân trị có thể hiểu là bằng con người, qua con người. Nhưng nhân trị cũng có thể hiểu là lòng nhân (仁), nó khác hẵn với chữ pháp (法) có nghĩa là quy định, luật lệ. Thế thì pháp là quy luật thành văn hay bất thành văn có tính ổn định, nhưng máy móc, khách quan. Còn nhân là chủ thể tác động, con người, hay kể cả lòng nhân, đều có tính thun dãn, không thống nhất hoặc chủ quan. Pháp trị có nghĩa xã hội dùng văn bản pháp luật để quản lý con người, điều hành xã hội. Nhân trị có nghĩa chính con người dựa vào pháp luật nhằm quản lý, xử sự nhau sao cho đúng đắn. Dĩ nhiên pháp trị hay nhân trị đều là “trị” cả. Đó là cái nghĩa ngày xưa của từ ngữ. Trị là xử lý công việc. Như trị dân, trị thủy. Nhưng rồi người ta hiểu thành đơn giản, thô lổ hơn, trị là cai trị, quản trị. Kiểu như trị vì, thống trị. Trong tiếng châu Âu, trị (reign, govern, rule, administer). Chỉ có từ reign (trị vì) nó mang tính quân chủ, vua chúa. Còn các từ govern, rule, administer đã hoàn toàn trở nên dân chủ. Govern nó gần với quản lý, quản trị hành chánh. Đó là ý nghĩa của chữ government là chính phủ, chính quyền. Từ administer (the law) thì nó gần với hành chánh, nền hành chánh, thực thi pháp luật. Đấy gom chung lại, ý niệm dân chủ chỉ mang tính cách bình đẳng, đồng thuận, quản lý. Trong khi đó tính cách độc tài thì đi gần với cai trị, thống trị, chuyên chế (chuyên chính). Trong chữ pháp và chữ trị, chúng ta đều thấy bộ thủy. Thủy là nước, tức ý nghĩa mềm dẽo, linh hoạt, mát mẽ, giúp nuôi sống vạn vật. Trong khi đó chữ quyền, chúng ta thấy bộ mộc, cái cây cứng cõi, có thể dùng làm vũ khí, đập đánh người, làm cho người sợ, chế ngự, bắt phải tuân phục. Khổng tử, Mạnh tử ở Á đông, trong thời quân chủ, dĩ nhiên chủ trương tôn quân, nhưng ý thức dân chủ, tự do trong nội dung, ý thức của con người cũng như trong cộng đồng xã hội, hoàn toàn thể hiện rất sâu xa và rõ nét. Ai từng đọc Luận ngữ, Mạnh tử một cách tinh tế đều nhận thấy rất phong phú, cao vời, sâu sắc về các ý nghĩa này. Ở châu Âu, sau giai đoạn Ánh sáng, tư tưởng dân chủ tự do đã được xây dựng tương đối vững vàng và hoàn chỉnh. Thế nhưng đến Các Mác, ông ta sổ toẹt tất cả. Mác chủ trương luật pháp chỉ là thượng tầng kiến trúc. Đó là công cụ bóc lột của giai cấp tư sản thống trị. Nên ông ta yêu cầu chuyên chính vô sản để đi đến xã hội xóa bỏ luật pháp, xóa bỏ chính quyền, bởi chính quyền theo Mác chỉ là công cụ thống trị xã hội. Quả thật là những tư tưởng quái dị, ngược đời, nên ngày nay hầu Hội đồng Nghị viện châu Âu lên án cũng phải bởi trong thực tế nó mang lại quá nhiều quái trạng đã dẫn tới sụp đổ, mà Pôn Pốt trước kia, và bây giờ nhiều điều ở Bắc Triều Tiên cũng cho thấy rõ. Thế thì rút gọn lại, pháp quyền là quyền chung của toàn xã hội, trong đó có yếu tố quyền và pháp, tức yếu tố ý chí cộng đồng, và văn bản rõ ràng minh bạch về pháp luật, để khỏi tùy tiện, lộn xộn. Còn pháp trị chẳng qua là thực hiện pháp quyền bằng bộ máy hành chánh quản trị một cách tự do, dân chủ, trong tổ chức theo quy tắc khoa học, hiệu quả. Bởi pháp luật là thượng tôn, nó ràng buộc mọi người không phân biệt. Luật phải do Hiến pháp dân chủ mà ra, không do bất kỳ nguồn nào khác. Hành chánh là quản trị theo kỹ thuật pháp lý, không liên quan trực tiếp đến chính trị. Đó là hệ thống quản lý chung xã hội, chính trị có thay đổi nó vẫn không thay đổi về cơ bản. Trong khi đó Mao Trạch Đông lại hợm hĩnh vô lối bảo chính trị là thống soái. Có nghĩa đưa sự độc tài lên đến hoàn toàn tùy tiện, tột đỉnh. Mác cũng thế, ông ta chủ trương giai cấp là chính mà không phải chỉ là con người nhân loại nói chung. Cho nên pháp luật theo Mác là pháp luật của giai cấp (cho dầu ở đây giai cấp vô sản thật sự do ông huyễn hoặc và thổi phồng ra mọi ý nghĩa lịch sử có tính chủ quan của nó). Thế nên ở những nước theo chủ nghĩa Mác, đúng ra không có pháp quyền hay pháp trị theo nghĩa thông thường như trên đã nói, nhưng là “nhân trị”, tức Tổng bí thư và Đảng cầm quyền. Nhân ở đây cũng không phải con người tự nhiên, bình thường, mà nhân ở đây là con người đảng viên đảng mác xít theo hệ thống tư tưởng hay ý thức hệ do chính Mác đặt ra.
Võ Hưng Thanh
(30/01/12)
Khi những người dân Anh tranh đấu đòi vua Anh phải hành xử theo pháp luật thì họ cũng đòi việc làm luật phải có đại diện của dân. Dân có đại diện trong quốc hội để làm luật thì luật đó mới bảo vệ cho quyền lợi của dân. Nếu dân không tham gia vào việc làm luật mà chỉ có một nhóm cầm quyền tự chuyên làm luật thì luật đó sẽ phục vụ cho quyền lợi của nhóm nắm độc quyền làm luật.
Sự khác nhau giữa Pháp Trị của nhà Tần và Pháp Trị của các nước dân chủ ngày nay là ngày nay dân tham gia vào việc làm luật, còn Pháp Trị của nhà Tần thì luật là do triều đình làm ra, dân không có quyền tham gia trong quá trình làm luật cũng không có quyền bàn tán, phản đối luật.
Thời xưa lối cai trị của nhà Tần gọi là Pháp Trị, ngày nay chế độ CSVN gọi là chế độ Pháp Quyền. Dù cách gọi khác nhau nhưng chế độ CSVN hiện nay và chế độ nhà Tần giống nhau ở chỗ không cho dân tham gia vào việc làm luật mà chỉ có một nhóm thiểu số ở trên độc quyền làm luật. Dù gọi là Pháp Trị hay Pháp Quyền mà dân không được tham gia làm luật thì luật đó chỉ phục vụ cho quyền lợi của những kẻ cầm quyền. Đại biểu quốc hội của chế độ CSVN không phải là đại biểu của dân mà là đại biểu của đảng CSVN.
THẾ NÀO MỚI LÀ LÒNG YÊU NƯỚC, YÊU DÂN THẬT TÌNH
Người ngoài đến cướp nước, tất nhiên họ không thể yêu nước yêu dân sở tại. Bởi mục đích của họ không phải để làm điều đó. Nhưng người lãnh đạo của một đất nước tự chủ, độc lập, luôn luôn phải có tinh thần yêu dân, yêu nước thật sự. Bởi vì nếu không như thế, thực chất họ cũng không phải là người lãnh đạo. Vậy yêu nước yêu dân thật sự là gì ? Đó là lo cho cái bụng và cái trí của dân. Lo cái bụng là lo cho kinh tế sung túc. Lo cái trí của dân là nâng cao trình độ dân trí, nhận thức, lo cho dân quyền dân chủ, tự do. Điều này có nghĩa không được tuyên truyền không đúng sự thật bất cứ điều gì đối với dân, cũng không thể o ép dân để khiến họ mất các quyền tự do dân chủ. Có nghĩa người lãnh đạo phải luôn đứng sau dân. Người lãnh đạo nào đứng sau dân, mới thật sự là người lãnh đạo. Người lãnh đạo nào đứng trước dân, đó chỉ là người cầm đầu, người xỏ mũi dân. Có nghĩa quên mình vì dân, đó mới thật là người lãnh đạo chân chính. Còn nếu chỉ nhớ mình mà quên dân, tất không phải là người lãnh đạo chân chính. Quên mình, thì không sợ điều chi cả, dám nói lên sự thật, và làm đúng sự thật. Không quên mình, tức cần tự bảo vệ mình, thì chỉ có thể làm điều ngược lại. Như vậy, người lãnh đạo cũng luôn luôn phải ở trên dân một cái đầu về năng lực nhận thức. Nhưng lại phải đứng sau dân một bước về mặt thực tế. Nếu không có cái trí hơn dân, thì về nguyên tắc không thể lãnh đạo dân. Nếu không chịu đứng sau dân một bước, thì về nguyên tắc cũng giống như vậy. Tức lãnh đạo dân là phải phục vụ dân một cách thật sự, nhưng không phải chỉ là đóng kịch. Phục vụ dân, thì không thể nhân danh bất kỳ cái gì, ngoài quyền lợi thực tế của đất nước và của nhân dân. Bởi cái gì mình muốn, chưa chắc dân đã muốn. Cái gì riêng mình thấy hay, đúng, chưa chắc dân đã thấy hay, đúng. Vậy muốn biết người dân có thật muốn điều gì hay không, cần phải hỏi họ. Không những phải hỏi họ, mà còn để họ bày tỏ một cách thoải mái, tự do, dân chủ, không hề có chút sợ sệt nào hết. Bởi vậy, chỉ luôn cho mình là hơn dân, cho chỉ mình mới đúng, thì đã đi ngược lại nguyên lý lãnh đạo thật sự. Nên ói chung có hai cách lãnh đạo. Lãnh đạo chủ quan và lãnh đạo khách quan. Lãnh đạo chủ quan, là cho chỉ có mình mới hay, mới đúng và bắt dân phải làm theo hướng nào mình muốn. Đó là cách lãnh đạo kiểu độc doán, độc tài. Lãnh đạo khách quan, thì chỉ theo ý của dân mà không thể theo ý của mình. Mình chỉ có thể làm được điều gì theo ý của mình, khi chính dân cũng muốn như vậy. Đó chính là sự lãnh đạo theo tinh thần tự do dân chủ. Mà lãnh đạo theo tinh thần tự do dân chủ, thì không bao giờ có tiền đề, dù là bất kỳ tiền đề nào. Còn lãnh đạo không theo tinh thần và mục đích tự do dân chủ, thì vẫn thường có vô số tiền đề, hoặc cũng chỉ đã bị mắc bẫy trong vô số các thứ tiền đề đó. Lãnh đạo theo nguyên tắc đích thực chỉ là phục vụ, mà không phải là quyền đứng đầu. Vì đứng đầu là làm vua mà không phải là lãnh đạo theo đúng nội hàm của ý nghĩa dân chủ và hiện đại.
VHT
Pháp quyền: Quyền lực được quy định bởi pháp luật – Rule of law. Nhà nước đứng dưới pháp luật.
Pháp quyền: Cai trị dân chúng bằng pháp luật – rule by law. Nhà nước đứng trên pháp luật
Không nên căn cứ vào tiếng Pháp để chuẩn hóa tiếng Việt, mà nên dùng tiếng Anh. Điều đó bởi vì văn minh Pháp thua xa văn minh Anh – Hoa kỳ. Nhất là về lĩnh vực hành chính – Luật. Đã học thì cứ thầy giỏi nhất mà theo.
Thiên Kim
“Nhà nước pháp quyền” được áp dụng như vầy đây:
[trích]
Hầu hết 34 hộ dân tại huyện Vĩnh Hưng (Long An) đều khiếu nại việc đất do gia đình khai phá từ trước giải phóng được đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã, mục đích công cộng những năm 1980. Nhiều hộ dân thắc mắc: khi các tập đoàn sản xuất giải thể, sao Nhà nước không giao lại cho người dân đã khai phá, nếu không cấp lại thì phải có hình thức hỗ trợ. Bà Âu Thị Phú, khu phố Bàu Sậy, thị trấn Vĩnh Hưng, nêu ý kiến: “Tôi muốn cấp lại 5 ha trước đây đưa vào tập đoàn, sau đó lại cấp cho các cán bộ khác trong khi bản thân tôi không có đất sản xuất. Gia đình tôi có chín người con đều không có đất sản xuất”. Bà Võ Thị Hà, thị trấn Vĩnh Hưng nêu: “Tôi đề nghị tỉnh xem xét cấp đất cho gia đình tôi vì gia đình tôi phải mua đất nền để cất nhà chứ địa phương không cấp gì”.
Ông Nghiêm Sĩ Minh – Phó Cục trưởng Cục III Thanh tra Chính phủ giải thích: “Những năm 1980, Nhà nước thực hiện chính sách đưa đất dân khai hoang vào tập đoàn để nhường cơm sẻ áo. Biết là người dân có thiệt thòi nhưng mong bà con thông cảm với chủ trương chính sách của Nhà nước. Luật Đất đai hiện hành quy định là không xem xét trả đất cũ”. Ông Dương Quốc Xuân – Chủ tịch tỉnh nói rõ: theo Luật Đất đai năm 1993 thì đất cũ vô tập đoàn trước đây cũng không được trả lại. “Tôi làm lãnh đạo tỉnh mà dân không có đất sản xuất thì cũng ray rứt lắm. Địa phương luôn cố gắng giải quyết những trường hợp không có đất sản xuất. Tuy nhiên, đất vô tập đoàn trước đây thì theo luật không giải quyết được”.
[hết trích]
“pháp quyền” chỉ là một nhãn hiệu cộng sản dùng để dán vào “pháp luật” tự do dân chủ mà thực chất khác xa pháp luật cộng sản. Lấy “pháp quyền” để dịch thành ngữ État de Droit là “Nhà nước pháp quyền” thay vì “Nhà nước pháp trị” là còn làm lớn thêm hơn nữa khoảng cách giữa hai thứ pháp luật ấy. Có thể nói, khoảng cách một trời một vực vì thêm vào sự khác biệt của hai thứ pháp luật, lại còn có sự khác biệt của hai loại nhà nước!”
Cám ơn Ls Trần Thanh Hiệp đã chỉ ra xảo ngữ của nhà cầm quyền CSVN!
PHÁP QUYỀN VÀ PHÁP TRỊ
Trong cả hai khái niệm này, đều có chữ “pháp”. Pháp là luật, thì ai cũng biết. Mọi xã hội không thể không có pháp luật. Nhưng pháp luật đó được dùng ra sao và cho mục đích gì ? Đó mới chính là cốt lõi của vấn đề. Pháp luật theo nghĩa đen, là kỹ thuật điều hành, quản lý xã hội. Đã nói đến kỹ thuật, cũng là nói về cái gì khách quan, hiệu quả. Nó không thể chỉ phụ thuộc vào tính chủ quan của con người. Điều này hoàn toàn trái với quan niệm nhân trị. Nhân ở đây không phải là đạo đức, lòng nhân, mà lại là ý thức chủ quan của con người cai trị. Ý thức của con người cai trị thì luôn chủ quan, đặc thù, không thể chính xác, nên cần phải pháp trị là như thế. Như vậy, đã là pháp trị đúng nghĩa thì phải có sự tự do dân chủ thật sự. Vì nếu không có sự tự do dân chủ cách khách quan, có nghĩa vẫn còn chủ quan, thì tức là còn theo lối nhân trị. Mọi cá nhân sinh ra đều bình đẳng. Đó là nền tảng của mọi chế độ pháp trị. Còn nếu quan niệm có sự khác biệt nào đó giữa cá nhân hay giai cấp, là đã phủ nhận sự bình đẳng về nguyên tắc, tức là nhân trị mà không phải là pháp trị nữa. Nhưng pháp luật nhằm để làm gì ? Là nhằm để phục vụ tốt con người, phục vụ tốt xã hội. Song cái gì làm nên xã hội ? Đó vẫn chỉ có thể là các đơn vị cá nhân con người. Như thế, ý nghĩa của pháp luật nói chung cần phải lấy con người làm mục đích tối hậu, mà không phải là xã hội. Bởi xã hội tuy rằng một thực thể, nhưng thực chất vẫn chỉ là thực thể vô danh, trừu tượng. Và cũng bởi sự hiểu mơ hồ này về con người và xã hội, thấy xã hội trọng hơn con người, nên mới thành ra gây nhiều hậu quả, gây lắm cớ sự. Vậy nên chỉ có bản thân cá nhân con người mới thật sự có ý nghĩa nhân bản căn cơ nhất. Ý nghĩa nhân bản về xã hội chỉ là phái sinh ra từ đó. Ý nghĩa nhân bản đó, tức là nhân quyền, là quyền làm người tự nhiên của mọi con người. Tức đó là cái gì không giả tạo, không do con người tự đặt ra, thế mới là tự nhiên, là khách quan, còn nếu không thì sẽ ngược lại. Tức là, yếu tố nhân bản và nhân quyền, đều là cái gì tự nhiên nhất. Nó không do cá nhân nào đặt ra cả, mà nhất thiết phải được mọi người buộc thừa nhận chung. Vậy nên nói tóm lại, xã hội pháp trị đích thực, phải là xã hội khách quan, lấy con người làm trung tâm, lấy nhân bản làm mục đích, lấy kỹ thuật hiệu quả làm giá trị, mà không vì bất kỳ điều gì chủ quan khác. Có nghĩa mọi người bình đẳng họp lại với nhau trong ý nghĩa dân chủ, tự do đích thực, mà làm ra luật để chi phối lại chính mình, tức mọi người, đó chính là pháp trị. Và thật ra, pháp quyền cũng không gì hơn là QUYỀN PHÁP TRỊ của chính con người hay xã hội con người.
VHT