WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Cách mạng dân chủ tại Việt Nam, khoảng cách và hy vọng

Trong bài thơ Giấc mơ nhỏ của tôi có một đoạn nói về sông Bến Hải và sự xa cách giữa người Việt vẫn còn đang chảy trong lòng:

Chào anh công nhân dệt từng tấm vải
Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay
Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải
Nối lòng người vời vợi cách xa nhau.

Bài thơ viết sau 1975, nghĩa là thời gian đất nước đã “thống nhất” bằng xe tăng và đại pháo, bằng sân bắn và nhà tù. Tôi không chỉ viết ra mơ ước của mình thôi nhưng đã nhiều lần làm con thoi nhỏ. Thay vì những buổi gặp gỡ nặng về hình thức, nếu có cơ hội tôi thường mang những người một thời đã tìm đủ mọi cách để giết nhau, ngồi lại bên nhau.

Một lần cách đây cũng khá lâu, tôi mời hai người thuộc giới cầm bút đến nhà chơi. Một nhà văn miền Bắc và một nhà văn miền Nam. Cả hai đều may mắn sống sót sau cuộc chiến. Tên tuổi hai nhà văn không nằm trong danh sách hơn hai triệu người Việt gởi xác ở Trường Sơn, Hạ Lào, Quảng Trị, An Lộc, Thường Đức, Tam Quan, Bình Giã v.v… Nếu tính theo số lượng bom đạn do Mỹ, Liên Xô và Trung Cộng cung cấp và số người chết trên một quốc gia có địa lý nhỏ hẹp, dân số không đông như hai miền Việt Nam trước 1975, chiến tranh Việt Nam có thể được xem là một trong những cuộc chiến tranh có mức độ tàn phá cao nhất trong lịch sử nhân loại.

Chiều hôm đó, chúng tôi ngồi thành ba góc quanh chiếc bàn tròn nhỏ sau vườn. Một buổi chiều êm ả hiếm hoi của mùa hè nóng bức. Hai nhà văn tôi mời đến đều nghe tên nhau từ lâu lắm, đọc văn nhau nhưng chỉ gặp nhau hôm đó lần đầu. Họ rất ngạc nhiên khi nghe tôi giới thiệu tên. Bắt tay mừng rỡ. Những tiếng “Thì ra, thì ra…” dồn dập. Ánh mắt họ sáng lên niềm cảm động chân thành vì chẳng bao giờ họ nghĩ có ngày gặp nhau trên xứ Mỹ này. Nhà văn miền Bắc kể lại hành trình gian nan của anh từ Bắc vào Nam. Những đêm di chuyển đầy nguy hiểm, những ngày tránh bom B52 trải thảm dọc Trường Sơn. Những trường hợp thoát chết trong đường tơ kẻ tóc khi quân đội miền Nam hành quân qua khu vực anh đang trú ẩn. Nơi anh đóng là vùng tranh chấp. Ban ngày Quốc Gia, ban đêm Cộng Sản. Người dân sống dưới hai chế độ. Ban đêm khi lính rút về đồn, anh lại ra hoạt động. Dù sao anh chỉ là nhà văn, nhà báo, không trực tiếp tham dự các trận đánh lớn nên không có những tình tiết gay go hấp dẫn.

Nhà văn miền Nam thì khác. Anh là người lính chiến dạn dày trận mạc. Anh kể lại vài trận đánh đáng nhớ mà anh từng tham dự. Có một lần tiểu đoàn của anh được trao trách nhiệm như một “cục đường để dụ kiến”. Vừa đổ quân xuống ngọn đồi không bao lâu, đào công sự chưa xong, các cuộc tấn công liên tục của phe nhà văn miền Bắc đánh vào. Mở đầu là những cơn mưa pháo. Pháo liên tu bất tận. Pháo không ngừng nghỉ. Pháo ngày đêm. Phe nhà văn miền Nam bị thiệt hại khá nặng. Anh tiểu đoàn trưởng hy sinh ngay trong trận pháo đầu. Sau vài ngày pháo kích, các đơn vị của phe nhà văn miền Bắc từng đợt tấn công. Quá đông. Tỉ lệ có thể nói là mười đánh một. Đơn vị của nhà văn miền Nam phải chọn cái sống trong cái chết, và chống đỡ là con đường duy nhất. Bằng mọi giá phải giữ ngọn đồi. Mà cho dù có muốn rút lui cũng không rút được. Cuối cùng, phe nhà văn miền Nam giữ được ngọn đồi. Như đã tính toán, sau đó, các phi đoàn mở ra hàng loạt các cuộc oanh tạc và pháo binh của phe nhà văn miền Nam tập trung bắn nát chẳng những chung quanh ngọn đồi mà cả các khu rừng bên ngoài “cục đường”. Chung quanh ngọn đồi nhỏ ngập đầy xác chết. Sau trận đánh, những chiếc xe ủi đất của công binh đào một đường mương dài, đủ sâu để khỏi hôi thối và xúc hàng trăm xác chết của phe nhà văn miền Bắc đổ vào trong đó. Phe nhà văn miền Nam cũng chẳng hơn gì. “Cục đường” đen đã chảy thành những vũng máu đỏ. Những công sự, những căn hầm bị pháo sập trở thành những ngôi mộ chôn xác đồng đội của anh. Những chiếc trực thăng tải thương hạ cánh mang theo xác anh tiểu đoàn trưởng và rất nhiều bạn bè mới chia nhau điếu thuốc hôm qua nay đã nghìn thu cách biệt. “Nếu lúc đó không giữ được ngọn đồi thì sao?” Nhà văn miền Bắc hỏi. “Thì chết hết chớ sao, cục đường mà”. Nhà văn miền Nam trả lời. Anh cười, một nụ cười mang ít nhiều chua chát.

Nhưng rồi anh nói tiếp: “Chắc là anh nghĩ tôi lúc đó căm thù ghê gớm lắm phải không?” Có, nhưng không ghê gớm lắm đâu. Các anh bắn tôi và tôi bắn anh. Mà cho dù các anh không bắn tôi thì tôi cũng bắn các anh. Chiến tranh mà. Xong thì thôi. Lòng căm thù chế độ Cộng Sản trong tôi chỉ lên cao độ khi sống trong nhà tù Cộng Sản và chịu đựng những cực hình đày đọa, những đối xử bất nhân, những tháng ngày đói khát”.

Trời sắp tối, hai anh đều có chuyện phải đi. Họ bắt tay từ giã nhau. Không ai xin lỗi ai. Không ai tha thứ ai. Nhưng qua buổi tâm sự tôi biết, họ đã hiểu nhau hơn, đã thấy được nhu cầu của một Việt Nam hôm nay và ngày mai phải thoát ra khỏi chiến tranh, nghèo đói, độc tài và đi cùng nhân loại hòa bình, ổn định, tự do và giàu mạnh.

Không phải ai cũng có may mắn có dịp trang trải tấm lòng như nhà văn miền Bắc và nhà văn miền Nam sau vườn nhà tôi lần nọ. Đó đây vẫn còn nhiều cái nhìn khắt khe đối với những người đang tranh đấu cho tự do dân chủ với một quá khứ liên hệ với đảng Cộng Sản. Cuộc chiến quá dài, ân oán quá sâu, không phải dễ dàng gì thay đổi hết được. Người Ý, người Ba Lan khi giong buồm, nhổ neo rời cảng, họ để lại quá khứ bên bờ biển chỉ mang trên vai ước vọng về một tương lai tốt đẹp hơn cho họ và con cháu họ. Người Việt Nam thì khác. Người Việt ra đi mang theo cả cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt. Nhiều trong số chú bác anh chị đến được bến bờ tự do khi chiếc vết thương trên da thịt vẫn còn đang mưng mủ sau bao năm tháng tù đày. Xiềng xích không còn, bom đạn đã thôi rơi nhưng tiếng khua, tiếng thét như vẫn còn nghe trong giấc ngủ quê người. Thái độ, dù khắt khe, quyết liệt hay cực đoan đi nữa cũng có lý do riêng của nó. Như nhà văn miền Nam phát biểu, chính sách của đảng CSVN từ 1975 đến nay là nguyên nhân trực tiếp của sự căm thù sâu thẳm trong lòng nhân dân Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng, đối với chế độ CS và là mầm mống của sự phân hóa, chia rẽ, hoài nghi trong cộng đồng người Việt. Nhưng dù lý do gì, các chú bác anh chị vì tương lai con cháu mình, nên suy nghĩ lại và chọn những hình thức đấu tranh hữu hiệu, thích hợp với thời đại ngày nay.

Con đường cách mạng dân chủ Việt Nam, vì thế, khác và khó khăn hơn nhiều so với con đường đã diễn ra tại Bắc Phi và tiến trình chuyển hóa dân chủ đang diễn ra tại Miến Điện.

Điều kiện ra đời và tồn tại của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản tại Việt Nam không giống các chế độ độc tài cá nhân như Muammar Gaddafi tại Lybia, Augusto Pinochet tại Chile, Mobutu Sese Seko tại Zaire hay độc tài phe nhóm quân sự (Junta) Miến Điện, Argentina, Peru, Nigeria, El Salvador và cũng không giống như các chế độ Cộng Sản chư hầu chùm gởi của cây đại thụ Liên Xô một thời tồn tại ở Đông Âu.

Phần lớn các chế độ độc tài quân sự, dù cá nhân hay phe nhóm, hình thành do kết quả của các cuộc đảo chính, lật đổ các chính phủ tiền nhiệm, nhiều khi cũng rất độc tài. Cơ hội đã đưa một số sĩ quan từ vị trí của những người lính trở thành những nhà chính trị. Ngoài lòng tham lam quyền lực và địa vị, họ không sở hữu một vốn liếng chính trị và không có một sự chuẩn bị đầy đủ để lãnh đạo quốc gia. Tham vọng quyền lực của họ chỉ là tham vọng cá nhân, phe nhóm. Muammar Gaddafi của Lybia, Hosni Mubarak của Ai Cập nổi tiếng sắc máu nhưng gốc gác chỉ là những viên sĩ quan võ biền. Các quốc gia Miến Điện, Libya, Ai Cập, Tunisia cũng không trải qua cuộc chiến tranh ý thức hệ tàn khốc suốt mấy mươi năm và vai trò của các đế quốc cũng không mang tính quyết định như trong cuộc chiến Việt Nam.

Việt Nam thì khác. Những người lãnh đạo CSVN được đào tạo để hoạt động, tổ chức, lãnh đạo chuyên nghiệp, kiên quyết theo đuổi đến cùng các mục tiêu ngắn và dài hạn của đảng CS. Chính Lê Duẩn trong tác phẩm quan trọng Dưới Lá Cờ Vẻ Vang Của Đảng, đã xác định tham vọng nhuộm đỏ Việt Nam và “đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Từ khi thành lập vào năm 1930 cho đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều tên gọi (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng Đảng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục tiêu.

Nạn sùng bái cá nhân dưới các chế độ độc tài không Cộng Sản có nhưng không tác hại trầm trọng đến nhận thức của người dân. Mobutu Sese Seko của Congo là một ví dụ. Nhà độc tài khát máu của Congo này sau các chuyến viếng thăm Bắc Hàn, Trung Quốc, Rumani về đã bắt chước xây dựng một bộ máy tuyên truyền giống hệt như Cộng Sản bằng cách ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và tháng 10 năm 1971 thay cả tên nước. Nhưng ngay cả khi Mobutu còn sống dân Congo chẳng những không mấy quan tâm đến những thay đổi đó mà còn một cách châm biếm gọi tên y là Mobutu Sesesescu chỉ vì Mobutu là bạn thân của tên độc tài Rumani Nicholas Ceauşescu.

Việt Nam thì khác. Giống như “cha già dân tộc” Kim Nhật Thành của Bắc Hàn, hình ảnh một “cha già dân tộc” Hồ Chí Minh đã đóng một lớp băng dày trong nhận thức của nhiều người và ngay cả được thờ chung một bàn thờ với đức Phật Thích Ca, không một phát hiện, một chứng cớ, một tài liệu khoa học nào có thể làm lay chuyển niềm tin mù quáng vào Hồ Chí Minh trong lòng những người Việt cuồng tín. Ý thức nô lệ tồn tại dưới hình thức tà đạo đó không phải chỉ trong hàng ngũ đảng viên mà cả ngay trong những người đấu tranh chống lại các sai lầm của lãnh đạo đảng.

Về mặt lý luận, việc so sánh với hệ lý luận Cộng Sản với những lý thuyết biện minh cho sự tồn tại của các chế độ độc tài như “Sách Xanh” (Green Book) của Muammar Gaddafi hay Đường Miến Điện Dẫn Tới Chủ Nghĩa Xã Hội (The Burmese Way to Socialism) chẳng khác gì đem giáo trình đại học so với sách tập đọc lớp vỡ lòng. Tầng lớp cán bộ làm công tác tuyên truyền ở Miến Điện và Lybia chỉ là một phường nịnh hót gió chiều nào theo chiều đó. Tại Lybia trước tháng Hai 2011, với đại đa số dân chúng Sách Xanh mang tính cách giải trí nhiều hơn là lý luận. Giáo sư Vandewalle của đại học Dartmouth và tác giả của Lịch Sử Libya Hiện Đại (A History of Modern Libya) nhận xét Sách Xanh là một chuỗi những câu cách ngôn chứ không phải là một hệ lý luận thông suốt và chẳng thuyết phục được ai. Sau cách mạng dân chủ, dân chúng đốt hàng ngàn Sách Xanh không phải vì sợ “tư tưởng Muammar Gaddafi” có cơ hội hồi sinh nhưng chỉ vì đó là biểu tượng của chế độ độc tài.

Việt Nam thì khác. Giới lãnh đạo đảng CSVN có cả kho lý luận, một bộ máy tuyên truyền tinh vi và những câu trả lời thích hợp cho từng lứa tuổi, từng ngành nghề, từng giới, từng trình độ học vấn. Nền giáo dục một chiều và phản khoa học như cây đinh đóng sâu vào ý thức của con người từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Không ít người Việt, nhất là những người luôn bắt đầu bằng câu rào đón “đừng nói là tôi bị tẩy não đấy nhé” đã bị tẩy não mà không chịu thừa nhận hay không biết mình bị tẩy não. Với họ, sự có mặt của Đảng Cộng sản trong đời sống chính trị và sinh hoạt xã hội Việt Nam tự nhiên chẳng khác gì bốn mùa xuân hạ thu đông. Họ còn tin rằng chỉ có đảng CSVN với tư cách một đảng cầm quyền, mới có khả năng dẫn dắt dân tộc Việt Nam trên con đường đi đến một tương lai tươi sáng. Họ viện dẫn trong quá khứ đảng có vài chính sách bị cấp dưới thực thi quá tả hay quá hữu nhưng về căn bản con đường đảng chọn vẫn là con đường đúng, và tham nhũng là một hiện tượng xấu của mọi xã hội đang từng bước đi lên vả lại ngay cả Anh, Mỹ, Pháp đều đầy dẫy đâu chỉ riêng tại Việt Nam.

Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam cũng không giống như chế độ độc tài Cộng Sản tại các quốc gia Đông Âu. Mặc dù đảng Cộng Sản tại các nước Đông Âu ra đời trước thế chiến thứ hai nhưng nếu không có sự chiếm đóng của Hồng Quân Liên Xô và sự thỏa thuận của các cường quốc Anh, Mỹ, Liên Xô, sẽ không có một nhóm quốc gia Cộng Sản được gọi là Cộng Sản Đông Âu. Bản thân của định nghĩa “Cộng Sản Đông Âu” đối nghịch với khối các quốc gia dân chủ Tây Âu, vốn đã mang nặng ý nghĩa chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh nhiều hơn các ý nghĩa về văn hóa hay địa lý.

Việt Nam thì khác. Như tôi có dịp trình bày, trong lúc các đảng Cộng Sản Đông Âu thực chất chỉ là những dây chùm gởi sống nhờ vào sức mạnh của đồng Ruble, xe tăng và hỏa tiễn Liên Xô, khi cây đại thụ Liên Xô thối ruột thì dây chùm gởi cũng khô héo theo, đảng CSVN bám sâu vào cây đại thụ Việt Nam, sinh sôi nẩy nở bằng nhựa nguyên và nhựa luyện Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của đảng CSVN là một quá trình đầy ngộ nhận lịch sử và họ tồn tại đến ngày nay, một phần lớn cũng nhờ vào những ngộ nhận đó. Cuộc chiến thắng của đảng CSVN ngày 30-4-1975 là kết quả của cuộc lừa gạt lớn nhất trong lịch sử Việt Nam.

Không ít người Việt cho rằng sở dĩ Việt Nam không được quốc tế quan tâm đúng mức như Miến Điện, Ai Cập chỉ vì chưa có những Giải Nobel Hòa Bình như Aung San Suu Kyi của Miến Điện hay Mohamed ElBaradei của Ai Cập, nơi những tiếng nói của họ đã được chính phủ khắp thế giới lắng nghe.

Thật ra, tại Ai Cập quê hương của Mohamed ElBaradei và Miến Điện quê hương của Aung San Suu Kyi, dù cai trị bằng bạo lực sắc máu, quyền con người trong các quốc gia độc tài quân sự không hoàn toàn bị xóa bỏ. Chế độ thông tin, kiểm duyệt còn nhiều kẻ hở. Qua các phương tiện truyền thông quốc tế, những gì xảy trong các quốc gia này đều được thế giới biết được khá rõ. Các tổ chức đối lập, chống chính phủ, công đoàn tuy bị trấn áp nhưng vẫn có cơ hội hoạt động. Đảng đối lập Liên Đoàn Toàn Quốc Vì Dân chủ (National League for Democracy, viết tắt là NLD) của bà Aung San Suukyi có cơ sở hạ tầng vững chắc và đã thắng 396 trong tổng số 485 ghế Quốc Hội trong cuộc bầu cử dân chủ công khai được quốc tế công nhận năm 1990 trước khi bị đám quân phiệt đàn áp. Các cơ sở từ trung ương đến địa phương, kể cả đại diện của chính phủ NLD cạnh các chính phủ quốc tế bên ngoài Miến Điện cũng đã duy trì các hoạt động trong suốt thời gian bà Aung San Suu Kyi bị giam giữ tại nhà.

Thế giới đang ca ngợi bà, ngoài đức tính can đảm và kiên trì với lý tưởng tự do còn vì thái độ ôn hòa, chấp nhận đối thoại để giải quyết các vấn đề của đất nước. Tuy nhiên không phải bao giờ thái độ ôn hòa, hợp tác cũng đem lại kết quả tốt. Như có lần tôi đã viết, hòa giải hòa hợp là con đường hai chiều, không ai có thể đứng bên này sông bắt người khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình. Trong điều kiện Miến Điện hay Việt Nam, hòa giải tùy thuộc trước hết vào chính sách và thái độ của giới cầm quyền.

Không giống như giới lãnh đạo Miến Điện cuối cùng đã thức tỉnh, tại Việt Nam, lời kêu thương thống thiết của tầng lớp nhân dân bị áp bức suốt 37 năm qua chỉ là những viên sỏi nhỏ rơi vào biển cả, không tạo nên gợn sóng, tiếng vang nào. Với tất cả sự kính trọng dành cho bà Aung San Suu Kyi, nếu bà phải đối phó với cơ chế lãnh đạo độc tài ngoan cố như Việt Nam, có thể bà phải chọn giải pháp của đức Giám Mục Giáo Hội Anglian Desmond Tutu, Giải Nobel Hòa Bình 1984.

Chủ trương của đức Giám Mục Giáo Hội Anglian Desmond Tutu là một bài học giá trị để đối phó chính sách ngoan cố của chế độ độc tài. Giám Mục Desmond Tutu trong cuộc đấu tranh chống Phân Biệt Chủng Tộc Nam Phi vào thời điểm khốc liệt 1976, thay vì thỏa hiệp, đàm phán, đã kêu gọi thế giới gia tăng cấm vận, tẩy chay hàng hóa Nam Phi, cô lập chính phủ Nam Phi, trừng phạt kinh tế Nam Phi càng mạnh càng tốt mặc dù điều đó có ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động phần lớn là da đen. Giám Mục Tutu chống cả sáng kiến thương lượng với chính quyền da trắng Nam Phi của Tổng Thống Reagan. Khi được hỏi cấm vận và trừng phạt kinh tế chỉ làm cho dân da đen bị đói trước, ông thẳng thắn tuyên bố nhân dân Nam Phi chịu đói nhưng đói “có mục đích”. Rất nhiều quốc gia như Anh, Mỹ và công ty quốc tế hưởng ứng lời kêu gọi của đức Giám Mục. Nền kinh tế Nam Phi bị khủng hoảng. Đồng Rand của Nam Phi mất giá đến 35 phần trăm trong một thời gian ngắn. Để cứu vãn nền kinh tế, thực chất là cứu vãn gia tài, lãnh đạo chính quyền da trắng đành phải nhượng bộ. Giám Mục Desmond Tutu được trao giải Nobel Hòa Bình 1984, giải Nhân Đạo Albert Schweitzer 1986, giải Sydney Peace 1999, giải Gandhi Hòa Bình 2005, Huân Chương Tự Do Tổng Thống Hoa Kỳ 2009 và được thế giới ca ngợi nhờ vào vai trò của ông như nhân vật hàng đầu trong nỗ lực giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc tại Nam Phi.

Việt Nam không thiếu những nhà đấu tranh có nhiều năm thử thách trong lao tù, có đạo đức, có lý luận, có tâm huyết nhưng chỉ vì chưa có điều kiện khách quan và chủ quan để những ánh đuốc tự do được tỏa sáng xa hơn. Các nhóm hoạt động vì dân chủ, các nhóm đối kháng với đảng CSVN gần như không có một phương tiện nào. Ngoại trừ một số ít người hoạt động dân chủ tên tuổi đang bị tù và được các cơ quan nhân quyền quốc tế được ghi nhận, hàng trăm, hàng ngàn người đang bị đe dọa thường trực, trấn áp, tù đày trong các làng xã, quận huyện xa xôi hay đang trốn tránh tại nhiều nơi trong vùng Đông Nam Á, không ai biết được, không một tổ chức nào tổng kết hết được. Sự chịu đựng trong âm thầm câm nín của các tầng lớp nhân dân Việt Nam so với nhân dân Miến Điện và các nước Bắc Phi đau đớn hơn nhiều. Những bản án dài hạn chụp lên đầu những người yêu nước khi họ chỉ vừa cất lên tiếng nói trước những bất công xã hội. Người ít và thế cô. Giãi giang sơn Việt Nam hình chữ S thực chất là một nhà tù được bao bọc bằng một bức tường bưng bít thông tin dày và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào.

So sánh và phân tích một số điểm khác nhau tiêu biểu giữa Việt Nam và các quốc gia khác để thấy cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ Việt Nam khó khăn và phức tạp hơn cuộc chuyển hóa dân chủ Miến và cách mạng hoa lài Bắc Phi nhiều lần.

Đấu tranh chống lại một hệ thống cai trị tinh vi như CSVN như thế mà chúng ta chỉ chen lấn nhau trong những chỗ đứng chật hẹp, co cụm trong những mẫu số chung có tính địa phương, tôn giáo, bám víu vào những phạm trù, lý luận lỗi thời, sẽ không giải phóng được dân tộc ra khỏi chế độ Cộng Sản.

Đảng CSVN còn thống trị nhân dân Việt Nam được, vì ngoài nhà tù sân bắn, còn nhờ vào việc gieo rắc các mầm mống phân hóa, khai thác các bất đồng không cơ bản, đào sâu thêm hố hoài nghi chia rẽ trong cộng đồng dân tộc. Nếu các thành phần dân tộc vẫn tiếp tục chống đối nhau, tiếp tục khai thác những bất đồng nhỏ nhặt, tiếp tục kéo dài những cuộc tranh luận mà cả hai bên đều biết sẽ không đi đến đâu, rồi tất cả chỉ rơi vào chiếc bẫy của đảng CS.

Một khái niệm quen thuộc gần như nghe mỗi ngày là chính nghĩa quốc gia. Trước năm 1975, khi nghe nói đến chính nghĩa quốc gia chúng ta tự động nghĩ đến các thành phần dân tộc đang chiến đấu chống Cộng Sản và về mặt địa lý, phải sống bên bờ phía nam của sông Bến Hải. Ngày nay, nhận thức đó không còn đúng và biên giới đó không còn tồn tại nữa. Khái niệm quốc gia dân tộc hôm nay mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Đó là chỗ dựa không phải chỉ dành cho những người Việt hải ngoại mà cả đồng bào trong nước đang chịu đựng trong xích xiềng Cộng Sản, không phải chỉ những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà tất cả những ai quan tâm và dấn thân vì một Việt Nam tự do dân chủ và thịnh vượng.

Nội lực dân tộc phải bắt đầu từ mỗi con người Việt Nam trước khi chảy chung vào dòng thác dân tộc. Cuộc biểu tình ngày 1 tháng 7 vừa qua với sự hiện diện của rất nhiều thành phần, từ thanh niên sinh viên học sinh, nông dân, công nhân đến các bậc bô lão và văn nghệ sĩ. Đó là những dấu hiệu tích cực. Họ có quá khứ khác nhau nhưng cùng được thôi thúc bằng tinh thần yêu nước, truyền thống tự chủ giống nhau. Tổng cộng số người tham dự các cuộc biểu tình từ Hà Nội đến Sài Gòn vào khoảng vài trăm nhưng có một giá trị tinh thần rất lớn. Bước chân của họ là khởi điểm cho một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để đang diễn ra tại Việt Nam. Quyền tự chủ dân tộc trong thời đại ngày nay gắn liền với dân chủ. Nói cụ thể hơn, Việt Nam không bao giờ giành lại được Hoàng Sa, Trường Sa từ tay bá quyền Trung Cộng bằng cơ chế chính trị độc tài mất lòng dân và không được quốc tế ủng hộ như chế độ CSVN hiện nay.

Cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ làm thay đổi khuôn mặt thế giới suốt mấy trăm năm nay cũng chỉ bắt đầu bằng một nhóm nhỏ khoảng từ 30 đến 130 người đã can đảm ném các thùng trà của Anh xuống vịnh Boston năm 1773. Tương tự, biến cố Phá Ngục Bastille sáng ngày 14 tháng Bảy 1789 được chọn làm ngày quốc khánh Cộng Hòa Pháp không phải để giải phóng nhiều trăm hay nhiều ngàn tù nhân chính trị nhưng chỉ là hành động mang tính biểu tượng vì ngày đó nhà tù Bastille chỉ giam giữ 7 tù nhân. Các biến cố ném trà xuống biển, phá ngục Bastille hay cuộc biểu tình 1 tháng 7 vừa qua tại Việt Nam đều không phải là biến cố lớn về hình thức nhưng chuyên chở những nội dung lịch sử. Ba sự kiện có một đặc điểm giống nhau rằng cách mạng là một tiến trình không thể nào đảo ngược. Chọn lựa hôm nay, vì thế, không còn là chọn lựa của nhân dân Việt Nam mà là của giới cầm quyền. Bài học Tunisia, Ai Cập, Libya và Miến Điện cho thấy thuận với lòng dân thì sống mà nghịch với lòng dân sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát.

Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh có chính nghĩa và chính nghĩa luôn thắng trận cuối cùng. Từng giọt nước đã và đang được rót vào ly. Không ai biết giọt nước làm tràn ly sẽ rót xuống khi nào nhưng chắc chắn mọi người đều biết, sẽ rót xuống từ lòng dân tộc Việt Nam và thời gian không còn xa xôi nữa. Cả hơn 700 tờ báo đảng, dĩ nhiên không cùng hô đả đảo Trung Quốc xâm lăng trên trang nhất nhưng cũng không dám chỉ trích, không xám xúc phạm bởi vì đảng biết những bước chân trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội hôm kia là những bước chân từ khát vọng thiêng liêng và trong sáng.

Ước mơ của hai người lính, hai nhà văn miền Bắc và miền Nam mong được thấy các thế hệ Việt Nam tương lai được sống trong hòa bình, ổn định sẽ thành sự thật. Tổ tiên chúng ta đã làm được, ông bà chúng ta đã làm được và rồi chúng ta, con cháu của các ngài, cũng sẽ làm được. Con tàu rộng thênh thang và mỗi ngày được nối thêm nhiều toa mới, đủ chỗ cho mọi người có tâm huyết hướng về cùng điểm hẹn tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng cho Việt Nam mãi mãi về sau.

 

Nguồn: http://www.trantrungdao.com/?p=1761

11 Phản hồi cho “Cách mạng dân chủ tại Việt Nam, khoảng cách và hy vọng”

  1. Dế mèn says:

    Đúng như anh nhận định: “Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh có chính nghĩa và chính nghĩa luôn thắng trận cuối cùng. Từng giọt nước đã và đang được rót vào ly. Không ai biết giọt nước làm tràn ly sẽ rót xuống khi nào nhưng chắc chắn mọi người đều biết, sẽ rót xuống từ lòng dân tộc Việt Nam và thời gian không còn xa xôi nữa.”

    Cuộc cách mạng bao giờ cũng khởi đầu bằng những việc “không mấy quan trọng”, thiếu tổ chức của những nhóm người “không mấy lớn lao”. Cuộc cách mạng 1789 của Pháp khởi đầu bằng sự nổi loạn, phá ngục Bastille, của những người nông dân nghèo khổ (đa số là phụ nữ). Cuộc cách mạng Nga 1917 khởi đầu từ sự nổi loạn của đám lính vô kỷ luật, do bị bỏ đói, bị đối xử bất công ở chiến trường. Cuộc cách mạng Tân Hợi của TH bắt nguồn từ một nhóm quân nhân bất mãn, say rượu ở Vũ Xương. Cách mạng năm 45 ở VN bắt đầu từ vài tiểu đội du kích Việt Minh, lợi dụng sự trống vắng quyền lực giữa Pháp và Nhật.

    Tuy vậy, nguyên nhân sâu xa của các cuộc cách mạng đó nằm ở các “yếu tố có thể gây tan rã” của các xã hội. Ở Pháp cũng như Nga, đó là sự cách biệt giàu nghèo, sự bóc lột dân chúng của giới cầm quyền, và là sự tập trung quyền lực xã hội vào tầng lớp quí tộc phong kiến thối nát hủ lậu. Ở TH, đó là sự cai trị tàn bạo, “ác với dân, mà hèn với giặc”, sự ghét bỏ chính quyền tham lam, dốt nát, lạc hậu, vong bản của nhà Thanh. Ở VN, đó là nạn đói Ất Dậu, lòng căm thù giặc Pháp, ý thức độc lập dân tộc.

    Những hành động như các cuộc gây rối, nổi loạn, biểu tình … như đã nói ở đoạn trên chỉ là “lớp sóng trên bề mặt của một cơn địa chấn sâu bên dưới lòng đất”; là “giọt nước làm tràn ly”.

    Hoàn cảnh của nước ta khác với Miến Điện, khác với Lybia và các nước khác ở khối Ả Rập hay Trung Nam châu Phi về mặt chính trị, nhưng các nguyên nhân gây đến bất ổn chính trị thì cũng như nhau, nếu xét sâu xa về mặt bản chất. Đó là sự cách biệt giàu nghèo giữa tầng lớp thông trị và bị trị; quần chúng đói khổ và đám tham quan ô lại sống phè phởn; nhà cầm quyền “hèn với giặc, ác với dân” ; quyền lực tập trung vào một thiểu số bất tài, vô đạo, tham nhũng và sa đọa trụy lạc.

    Do hoàn cảnh bị cai trị khác nhau, điều kiện để có “giọt nước tràn ly” tất nhiên khác nhau. Hoàn cảnh của chúng ta sẽ khó hơn. Nhưng nhìn lại, chúng ta đã có nhiều nỗ lực, của nhiều thế hệ người Việt hơn, cho sự tự do, dân chủ, và nhân quyền. Điều này có nghĩa là “giọt nước tràn ly” sắp xãy ra trong tương lai không xa. Do vậy, lo cho 1 cuộc cách mạng chỉ là cái lo trước mắt; cái lo lâu dài là làm sao để đất nước không rơi vào xáo trộn, để được hưởng thành quả của cuộc cách mạng đó.

    Hãy nhìn vào các nước chung quanh, như Miến Điện, Lybia… Hãy nghĩ đến tương lai của dân tộc, của đất nước để biết chúng ta cần chuẩn bị gì, cần làm gì. Hãy nhìn lại quá khứ đấu tranh để rút ra bài học kinh nghiệm, để trở nên thực tế hơn, đoàn kết hơn trong tình dân tộc, và để thành công với hiệu quả cao nhất – chứ không phải thành công với mọi giá.

    Cám ơn anh Trần Trung Đạo, mong anh viết nhiều hơn nữa – vì lợi ích cho một ngày mai tươi sáng.

  2. Cám ơn bác Trần Trung Đạo có bài viết rất hay, rát súc tích. Nhưng thưa Bác nó hơi lang mang chút xíu, nên làm người đọc khó tập trung. Mong được đọc nhiều bài nữa của Bác.

  3. Dân ĐEN VN says:

    Không còn thời gian để phân biệt CS hay Quốc gia nữa . Việc cấp Bách hiện nay là phải lật xuống cái chính quyền nhà nước CHXHCN , để thay một chế chính quyền khác .

    Cái hiện hữu chưa giải quyết được , đã vội mơ tới tương lai , quả là ảo tưởng .

  4. THU BA says:

    1-Tác giã thuờng bén nhạy tìm ra các tình tiết chũ đạo thú vị trong mỗi biến cố. Dồn thật nhiều các tình tiết cuả các thứ này lại vào một rọ nhưng lại không hẵn đồng nhất về tính chất ,mục tiêu khiến nguời đọc khó tập trung vào trọng tâm vấn đề như anh XTT ghi nhận. Nếu tách bạch thành nhiều bài và đào sâu thì có lẽ hấp dẫn hơn.

    2-Xin góp ý chĩ trong một góc cạnh : Không biết” hai nhà văn miền Bắc và Nam” nói nhau lúc nào ? Truớc LS và sau LS sụp đỗ Bắc có thể khác và Nam có thễ nguôi ngoa.
    Nhưng một điều có thề khẵng đinh là tất cã Nam Bắc nếu không thuộc tầng lớp thống trị Nam , Bắc thì tất cã nuớc đểu là nạn nhân kể cã hai nhà văn này . Có thấy , có giác ngộ , có dám nhận cùng mình là “nạn nhân “cuả giai đoạn lịch sử đó thì mới cùng có mẫu số chung để tiếp cận nhau mà không đổ vỡ.

  5. lequan says:

    Duong thu Huong ” nhung nguoi hung trong chien tranh chi con la nhung ke hen nhat trong hoa binh ”
    nhung nguoi linh ca 2 mien nam bac , nhung nguoi hung trong chien tranh nay chi con la nhung ke hen
    nhat trong hoa binh . Voi tat ca nhung toi te tu mieng an den dao duc xay ra tai Vietnam , ho nhung nguoi linh chi biet im lang . Hoi nhung nguoi linh co con xung dang voi danh hieu quan nhan khong .

  6. NGÀN KHƠI says:

    TỪ KHẲNG ĐỊNH TỚI PHỦ ĐỊNH

    Mác tự khẳng định học thuyết của mình là chân lý tuyệt đối (bởi tin một chiều và thái quá vào nguyên lý biện chứng của Hegel một cách máy móc, mù quáng), nên đã phủ định mọi ý nghĩa của xã hội dân chủ tự do xây dựng trên nền tảng tư hữu, mà ông ta cho là xã hội tư sản hay tư bản bóc lột, để nhằm xây dựng một xã hội mới theo ông hiểu có tính lý tưởng, mà chính bản thân ông ta chưa từng hề nghĩ thực chất chỉ là có tính không tưởng. Lênin khẳng định học thuyết Mác, phủ nhận thực chất nước Nga truyền thống để xây dựng nhà nước Liên xô trên nền tảng vô sản Bolchevik hay cũng được gọi là chủ nghĩa mác xít lêninnít. Cuối cùng Gocbachov bắt đầu phủ định những cái đó, và đến Yeltsin thì khẳng định một nước Nga mới, sau khi nhà nước Liên Xô cũ bị phủ định và sụp đổ. Ông Hồ Chí Minh và các đồng chí chiến đấu của mình, ngay từ đầu vốn khẳng định chủ nghĩa mác xít lêninít là chân lý tuyệt đối, do đó cũng đi đến phủ nhận mọi thực thể gì vốn có trước đó của đất nước VN. Điều đó đã mở ra một cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, chống miền Nam VN, và chống can thiệp Mỹ một cách kiên trì, trường kỳ, không ngại mọi hi sinh tốn kém về tất cả mọi mặt. Cuối cùng, cũng khẳng định được một nước VN thống nhất theo chế độ kinh tế bao cấp, với nền kinh tế tập thể theo kiểu nhà nước hóa. Nhưng kết quả, cuối cùng cũng gặp quá nhiều khó khăn và thất bại về kinh tế xã hội trong thực tế. Từ đó, lại quay về với nền kinh tế thị trường, khi sự đổi mới được khẳng định, và sự hòa nhập với thế giới cũng được khẳng định. Tức đồng thời cũng ngầm ẩn đối với việc phủ nhận tính cách của “đế quốc” Mỹ vốn từng được đưa lên hàng đầu trong việc chống đối và trong tuyên truyền chiến tranh ngày trước một cách quy mô, rầm rộ và liên tục không dứt. Song song với điều đó, công hàm của ông cố thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, cũng lại đã vô hình chung khẳng định, hay chấp nhận quan niệm lãnh hải sai trái đã được đưa ra khi ấy của nhà nước Trung Quốc, đã vô tình phủ định tính cách Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có hoàn toàn thuộc về chủ quyền VN. Kết quả, đến cuối năm 1975 TQ đã bắt đầu phủ định HS, TS là của VN, và bắt tay đánh chiếm Hoàng Sa cũng như một phần Trường Sa của VN, để rồi ngày nay đã ngược ngạo hô biến nhằm thành cái gọi là thành phố Tam Sa vừa mới được họ đơn phương cùng ngang ngược thành lập một cách sai trái, ngay trên chính lãnh thổ hai hải đảo quan trọng nhất này của VN. Ngày nay, mặc dầu thế VN và TQ vẫn còn cứ tiếp tục khẳng định tình hữu hảo, tính cách đồng chí, mặc dầu từ lâu VN đã tìm cách phủ định tham vọng lãnh thổ của phía TQ đối với thềm lục địa và hải đảo VN, nhưng cũng trên lý thuyết, chưa hề có kết quả thực tế nào. Tuy nhiên, TQ cứ càng ngày càng ngang ngược lấn tới, đẩy mạnh sự khẳng định chủ quyền của mình trên chính các hải đảo đó của VN, và mới nhất còn ngang nhiên khẳng định mạnh hơn sự tồn tại cái đường lưỡi bò phịa đặt của họ, để kêu gọi thầu quốc tế thăm dò khai thác cả chín lô dầu khí vốn hoàn toàn thuộc về lãnh hải VN. Tất nhiên VN thì phủ định điều này, nhưng quả thật sự giằng co hiện tại giữa hai bên về sự khẳng định trong tham vọng xâm lăng của TQ đối với một phần nào đó của lãnh thổ hay lãnh hải VN, và sự phủ định mới chỉ bằng văn bản của chính quyền VN và sự biểu tình của người dân VN đối với những tham vọng bá quyền này của TQ, quả thật cũng chưa biết sẽ đi đến đâu, và kết quả sẽ như thế nào. Âu đó cũng là ý nghĩa của sự khẳng định và phủ định trong học thuyết mác xít đã đưa ra từ lâu, và cũng từ lâu rồi người ta đã hăng hái và tích cực đưa vào trong nền giáo dục toàn diện về ý thức hệ CNM ở khắp nơi tại VN, từ các trường đại học nói chung, cho đến mọi ngóc ngách về truyền thông xã hội đại chúng, mà tất cả mọi người cũng đã đều biết.

    NON NGÀN
    (05/7/12)

    • Lâm Vũ says:

      1.
      Vấn đề nguyên thủy vẫn là ông Hồ Chí Minh muốn đưa Việt Nam vào quỹ đạo của phong trào cộng sản quốc tế, không những thế đi tiên phong trong làn sóng nhuộm đỏ thế giới. Đây không phải chỉ là những lời tuyên truyền “chống cộng của “bè lũ phản động”, mà chính ông Hồ đã viết như trong một câu thơ: “… Tôi dẫn năm châu đến đại đồng…”.

      2.
      Để thực hiện giấc mơ vĩ đại đó, ông Hồ đã sẵn sàng hi sinh nhiều thế hệ thanh niên Việt. Ông ta đã nhiều lần tuyên bố là “ta sẽ đánh Mỹ tới người Việt cuối cùng” (!) và trong thực tế đã có trên 3 triệu người Việt cả hai miền (10 phần trăm tổng số dân) đã bỏ mình trong 10 năm chiến tranh “chống Mỹ cứu nước”, chưa kể hàng triệu người trở thành phế nhân, trẻ em mất cha mất mẹ…

      3.
      Ông Hồ cũng dùng cả lãnh thổ non sông gấm vóc của tiền nhân để lại làm tiền thế chân cho Tầu, để nhận vũ khí, đạn dược, lương thực từ Tầu chỉ để có thể thực hiện giấc mơ “dẫn năm châu đến đại đồng” của ông ta. Một bằng cớ chính là lá thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho “đồng chí” Chu Ân Lai, xác nhận chủ quyền lãnh hải của TQ ở biển Đông. Có điều “chủ quyền lãnh hải của TQ” không phải chỉ là lãnh hải của “TQ lục địa” như nhà cầm quyền VN giải thích (che dâu sự thật để chạy tội) mà là tuyên bố đơn phương của chính quyền Bắc Kinh hai tuần trước đó, khẳng đinh là toàn bộ quân đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc về Trung Quốc.

      4.
      Thủ tướng PVĐ củng không thể nào viết là thư đó mà không có lịnh của chủ tịch Hồ Chí Minh. Do đó, không thể nói là đây là chuyện “vô tình” để mất biển, mất nước.

      Diễn tiến của HS – TS bị “rồng” TQ ngốn là kịch bản của Bắc Kinh – chính xác là Mao – tài tử chính là HCM alias Nguyễn Ái Quốc (đích thị là… người yêu nước… Tàu)… CT, PVĐ, VNG thủ những vai thằng ở, con sen…

      • vietnam says:

        Ông lâm Vũ không nghiên cứu sâu về Hồ chí Minh rồi. Hồ Chí Minh đã tự nhận là mình ngây thơ theo QTCS III của Lê Nin đơn giản là vì trong cương lĩnh có vấn đề giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa (lúc đó cương lĩnh của QTCSII không có vấn đề này). Trong qua trình hoạt động Hồ Chí Minh đã nhiều lần không tuân theo chỉ đạo của QTCS và bị coi là người của dân tộc chủ nghĩa. Chuyện có thật như sau;
        Hồ Chí Minh đã từng bị QTCS thi hành kỷ luật vì có tưởng dân tộc, không chấp hành chỉ đao của QTCS bằng quyết định của QTCS hẳn hoi do chính Trần Phú mang từ LX về thi hành. Chính vì thế Trần Phú mới là Tổng Bí Thư đầu tiên của CSVN thay vì HCM.

        Một câu chuyện hiện chưa được kiểm chứng như sau;
        Một lần HCM sang LX gặp xitalin, Xitalin chỉ vào 2 chiếc ghế và nói: Chiếc bên phải đ/c là chiếc ghế CSCN còn chiếc bên trái là chiếc Dân tộc chủ nghĩa. Đồng chí ngồi vào chiếc nào?
        Rất ung dung, Hồ Chí Minh đã kéo sát 2 chiếc ghế lại cạnh nhau và ngồi vào giữa cả 2 chiếc???

        Lời Bình: Con người Hồ Chí Minh thực chất là người của chủ nghĩa dân tộc. Ông ta chỉ mượn cỗ xe CSCN để thực hiện Giải phong dân tộc mà thôi. Ông ta tuy được CSVN tôn vinh tột đỉnh nhưng thực ra bị CSVN đứng đầu là Trường Chinh, Phạm văn Đồng và sau này là Lê Duẩn khống chế nên kể từ giai đoạn sau khi đánh Pháp xong 1954, ông ta thực chất không còn quyền hành gì.

        Ngay như cá nhân ông không chủ trương GF Miền nam bằng vũ trang, nhưng Bộ chính trị với số đông biểu quyết nên ông là tiểu số và buộc phải chấp hành.

      • Lê Dân Việt says:

        @vietnam,

        Lão cáo Hồ quả thật đã ấu trĩ, ngây thơ khi đọc cuốn “Tư bản luận” mà khóc và reo lên: ” Hạnh phúc là đây”, nhưng rồi sau đó trở thành một tên tay sai đắc lực cho CSQT và đã từng tuyên bố: “đ/c Lenin và Mao không bao giờ sai”. Nhưng cả hai đều sai bét hết, như vậy HCM mãi mãi chỉ là một tên khờ khạo, ấu trĩ và ngây thơ, cho dù lũ đàn em sau này cứ tung hố hắn lên làm thần làm thánh.

        Đáp lại lời bình của Vietnam:

        Nếu HCM thực sự là “một người của chủ nghĩa dân tộc” thì HCM đã không bán đứng cự Phan Bội Châu cho Pháp. Hồ Chí Minh và đồng đảng VNG, PVĐ… đã không sát hại những nhà cách mạng dân tộc của Việt nam quốc dân đảng, Đại Việt quốc dân đảng… mà vụ nổi cộm nhất là vụ án Ôn như hầu ở HN. HCM đã không rước Pháp vào đô hộ VN lần thứ hai qua hoà ước 1946, để mượn bàn tay Pháp triệt hạ các đảng phái quốc gia như Việt nam quốc dân đảng, Đại Việt quốc dân đảng, Đại việt duy dân, và Dân xã đảng ( Phật giáo Hoà hảo)…

        Và nếu HCM là một người tài giỏi như CSVN tâng bốc thì dễ gì HCM lại bị Trường Chinh PVD, VNG, Lê Duẩn xỏ mũi không còn quyền hành sau 1954. Lập luận như vậy là chửi vào mặt HCM là một thằng khờ khạo, ngu si, chỉ hám danh vọng hão huyền (Chủ tịch nước, chủ tịch đảng “cướp” CSVN) mà để đàn em xỏ mũi.

        Chính HCM là kẻ đã tuyên bố: “Dù phải đốt cháy hết dẫy Trường sơn cũng phải giải phóng miền Nam” đã phản lại lời ngụy biện không bằng chứng của Vietnam là: HCM không muốn “phỏng dái” miền Nam bằng vũ lực mà tại BCT mà HCM là thiểu số phải chấp hành. Láo khoét quá!

        Hay là chỉ là một cách chạy tội cho HCM đây, hả ông Vietnam???

      • Lâm Vũ says:

        “Hồ Chí Minh đã kéo sát 2 chiếc ghế lại cạnh nhau và ngồi vào giữa cả 2 chiếc???”

        Có lẽ vì thế, sau khi cái ghế Liên Xô không còn tồn tại, đảng CS của ông Hồ mới lọt tõm xuống đất, và CS Tầu mượn thế ngồi lên đầu!?

        Thật ra chẳng có một hành động cụ thế nào chứng to HCM là người theo “chủ nghĩa” Dân tộc (Quốc gia) cả, nhưng có vô số dữ kiện cho thấy ông Hồ hành xử theo lợi ích của CS quốc tế, của CS Liên Xô hay Tầu (tùy thời điểm) và luôn luôn lợi ích cho chính mình.

        Đổ tội cho đám đàn em – Trường Chinh, Phạm văn Đồng và Lê Duẩn – là điều “không thể tha thứ”.

        Bảo rằng ông Hồ “thực chất không còn quyền hành gì” là ngược ngạo: năm 1958-59, chẳng hạn, HCM vừa là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước kiêm Tổng Bí Thư (Đệ nhất bí thư) đảng CSVN!

  7. xoathantuong says:

    Xin được nói thẳng, bỏ qua những lời rào trước đón sau, nhận định của tôi về bài này.

    Bài viết được, tuy nhiên ôm đồm nhiều chuyện nên tôi đọc bị lạc lối, không hiểu tác giả muốn nói cái gì là chính.

    Đây chỉ là nhận định của một bạn đọc. Xin miễn tranh luận.

Phản hồi