WordPress database error: [Expression #1 of ORDER BY clause is not in GROUP BY clause and contains nonaggregated column 'oldsite_dcvwp.wp_posts.post_date' which is not functionally dependent on columns in GROUP BY clause; this is incompatible with sql_mode=only_full_group_by]
SELECT YEAR(post_date) AS `year`, MONTH(post_date) AS `month`, count(ID) as posts FROM wp_posts WHERE post_type = 'post' AND post_status = 'publish' GROUP BY YEAR(post_date), MONTH(post_date) ORDER BY post_date DESC

 
|

Một nền kinh tế đang trên đà hán hóa?

 

Trong bài viết trước, tác giả đã trình bày về âm mưu “Hán hoá” ngành điện lực Việt Nam của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải trước sự bất lực, nếu không muốn nói là sự dung túng và tiếp tay, của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Qua bài viết này, tác giả muốn vạch trần mưu đồ thâm hiểm của ngài PTT gốc Tàu Hoàng Trung Hải trên bình diện quốc gia, tức là toàn bộ nền kinh tế nước nhà, kèm theo những hệ luỵ khôn lường về an ninh – quốc phòng đối với đất nước.

Một trong những “thành tựu” lớn nhất của Chính phủ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là tình trạng lệ thuộc kinh tế ngày càng tăng vào Trung Quốc. Dấu hiệu rõ ràng nhất của thực trạng đó chính là mức độ nhập siêu không ngừng tăng lên với tốc độ chóng mặt trong những năm gần đây:

Nhập siêu từ Trung Quốc so với tổng nhập siêu của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012 (đơn vị: tỷ USD) (*) Tính đến hết tháng 7/2012. Nguồn: VnExpress 13/8/2012

Biểu đồ trên cho thấy năm 2007 – năm đầu tiên ông Hoàng Trung Hải được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tin tưởng giao phó chiếc ghế quan trọng thứ 2 trong Chính phủ – là năm chứng kiến sự gia tăng đột biến về giá trị nhập siêu với Trung Quốc, từ 4,1 tỷ USD năm 2006 vọt lên 9 tỷ USD. Liên tiếp những năm sau đó, nhập siêu với Trung Quốc vẫn không ngừng gia tăng ở mức độ đáng báo động. Thậm chí, 7 tháng đầu năm 2012, trong khi nền kinh tế xuất siêu 100 triệu USD thì nhập siêu với Trung Quốc vẫn đạt tới con số 8,3 tỷ USD!

Mặc dù ngay từ năm 2005 đã xuất hiện những lời cảnh báo về tình trạng nhập siêu nói chung và nhập siêu với Trung Quốc nói riêng, cũng như những khuyến nghị hợp lý về giải pháp khắc phục (chẳng hạn như nhập khẩu máy móc thiết bị từ các nước phát triển thay vì từ những nước có trình độ công nghệ trung bình thấp như Trung Quốc, phát triển công nghiệp phụ trợ, v.v.), song dường như những tiếng nói đó hoàn toàn không lọt vào tai những người có trách nhiệm khi mà tình hình lại diễn ra trái ngược và ngày càng tồi tệ hơn cho nền kinh tế. Dưới đây là những gì đã và đang diễn ra trong thực tế:

Góp phần lớn nhất vào tình hình (nhập siêu) này là hàng loạt gói thầu mà các công ty Trung Quốc giành được với rất nhiều hợp đồng EPC (Engineering, procurement and construction – Thiết kế, mua sắm và xây dựng). Loại hợp đồng nói trên thường được thực hiện trong lĩnh vực xây dựng các nhà máy điện (của Tập đoàn Điện lực VN), mỏ (như bauxit Tân Rai, Nhân Cơ, đồng của Tập đoàn Than Khoáng sản VN-TKV), hóa chất (phân đạm Hà Bắc), giao thông (như xây dựng, cải tạo đường sá ở TP. Hồ Chí Minh, đường sắt trên cao ở Hà Nội)… qua đó các công ty Trung Quốc nhập từ máy móc, thiết bị, vật liệu, đến sắt thép và thậm chí cả nhân công vào VN. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2010 Việt Nam nhập từ Trung Quốc 20,02 tỉ USD hàng hóa, trong đó các mặt hàng chính gồm: máy móc thiết bị, phụ tùng (22,37%); bông, vải, sợi, nguyên phụ liệu dệt may, da giày (15,64%); sắt thép, sản phẩm từ sắt thép, kim loại (11,39%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (8,41%); xăng dầu, khí hóa lỏng, sản phẩm từ dầu mỏ (6,97%); hóa chất, sản phẩm hóa chất (4,56%); chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm (2,9%); phân bón, thuốc trừ sâu (2,25%).

…Trong khi các nhà thầu nước ngoài khác không đáp ứng được những tiêu chí do chủ đầu tư đề ra, thì các nhà thầu Trung Quốc lại coi đó là “thế mạnh” với hàng loạt các dự án trúng thầu, đặc biệt là các dự án về hạ tầng, về điện, xi măng… Hệ quả từ việc “chấp thuận hết” ấy là hàng loạt dự án trong các năm gần đây bị chậm tiến độ, thậm chí phá sản, gây thiệt hại không thể kiểm đếm. Sự chậm trễ của các dự án kéo theo những thiệt hại khôn lường về đất đai, nhân lực, gây ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển kinh tế của nhiều ngành nghề, địa phương. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Kế hoạch – Đầu tư, trong vòng 10 năm trở lại đây các nhà thầu Trung Quốc luôn thắng thế ở các dự án điện, nhiệt điện, xây lắp, phân bón, hóa chất… Cụ thể, nhà thầu Trung Quốc đã trúng thầu 13 dự án nhiệt điện than (dưới dạng EPC – chìa khóa trao tay), chiếm gần 30% công suất toàn ngành điện. Lĩnh vực xi măng, nhà thầu Trung Quốc trúng tới 49 dự án trên tổng số 62 dự án dây chuyền. Ngành hóa chất, có 6 dự án phân đạm u rê, thì 5 dự án đã thuộc về tổng thầu Trung Quốc. Trong các gói thầu xây lắp, các nhà thầu Trung Quốc thắng thế tới 50% giá trị gói thầu. Ngoài ra là dự án chế biến khoáng sản tại Lâm Đồng, dự án Alumin tại Đắc Nông và hàng trăm dự án vừa và nhỏ ở nhiều lĩnh vực khác nhau trên toàn quốc, đều do các nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm.

…“Chúng ta chọn nhà thầu Trung Quốc vì giá rẻ, nhưng thực ra không hề rẻ mà quá đắt” (ông Nguyễn Trọng Oánh, Chủ tịch HĐQT Công ty Đa Nhim – Hàm Thuận – Đa Mi).

…Phân tích của bà Phạm Chi Lan cũng như báo cáo của VEPR (Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách – Đại học Quốc gia Hà Nội) cho thấy, lý do quan trọng khiến nhập siêu gia tăng trong những năm gần đây là sự thắng thế liên tục của các nhà thầu Trung Quốc trong các dự án tại Việt Nam. Riêng giai đoạn 2007 – 2010, các doanh nghiệp nước này đã thắng thầu trong ít nhất 5 dự án có tổng vốn đầu tư từ 450 triệu USD trở lên (trong đó có 2 trường hợp vốn trên 2 tỷ USD). Các dự án “ưa thích” của nhà thầu Trung Quốc chủ yếu nằm trong các lĩnh vực công nghiệp thượng nguồn như điện (90% các công trình điện ở Việt Nam hiện nay), khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất, công trình giao thông… Đây chính là lý do khiến máy móc – thiết bị kỹ thuật luôn là một trong những mặt hàng được nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc vào Việt Nam. “Điều này bất lợi hơn nhiều so với nhập nguyên phụ liệu, bởi đa phần máy móc nhập từ Trung Quốc không phải công nghệ nguồn, hoặc đã lạc hậu. Các dự án xây dựng cũng hay chậm tiến độ, có hoàn thành thì chất lượng cũng không cao. Rồi chính người Việt lại phải sử dụng những sản phẩm, công nghệ đó”, bà Lan phân tích.

…Hàng tỷ USD doanh thu từ việc cung cấp thiết bị, máy móc, linh kiện phụ trợ trong các dự án công nghiệp sẽ vẫn rơi vào tay các nhà thầu Trung Quốc. Còn DN Việt Nam vừa thiếu sự liên kết, vừa gặp bất lợi từ cơ chế đấu thầu… Ông  Phan Đăng Phong, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí, chua xót nói: “Chúng ta đầu tư làm nhà máy điện nhưng rốt cục, lại tạo công ăn việc làm cho người lao động Trung Quốc, tạo lợi nhuận cho ngành sản xuất cơ khí của Trung Quốc”.

Mặc dù vậy, công nghiệp hỗ trợ vẫn đang còn là khâu yếu của công nghiệp Việt Nam. “Trong lĩnh vực này (công nghiệp hỗ trợ), chúng ta nói khá nhiều nhưng làm được rất ít”. Để minh họa cho thách thức mà công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam gặp phải, ông Vũ Tiến Lộc (Chủ tịch VCCI) dẫn ví dụ: Năm 2010, nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc là 12,7 tỷ USD, nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất chiếm 55-60%, nhóm máy móc thiết bị chiếm 22-25%. Ngành dệt may là một ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì theo Hiệp hội dệt may, trong khi kim ngạch xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm nay đạt được con số khá ấn tượng là 6,16 tỷ USD nhưng đã phải nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu, do đó, giá trị gia tăng tạo được chưa đầy 500 triệu USD.
Suốt những năm qua, báo chí đã lên tiếng phản ánh rất nhiều nhưng tình hình không những không thay đổi mà thậm chí còn diễn ra ngày một trắng trợn hơn. Đương nhiên, trên “cương vị” Bộ trưởng Công nghiệp (2002–2007) rồi “Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế ngành” (từ năm 2007 đến nay), ông Hoàng Trung Hải là người phải chịu trách nhiệm cao nhất trước Chính phủ về thực trạng nói trên, còn Thủ tướng là người phải chịu trách nhiệm cao nhất trước Quốc hội và nhân dân.
Trong khi Việt Nam vẫn tiếp tục nhắm mắt chui đầu ngày càng sâu vào vòng thòng lọng của Trung Quốc thì ở chiều ngược lại, phía “bạn” lại rất “có ý thức” trong việc hạn chế nhập khẩu từ Việt Nam, hạn chế đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, gia tăng xuất siêu sang Việt Nam, đồng thời đề phòng viễn cảnh tồi tệ nhất trong mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng “môi hở răng lạnh” này:

Một thực tế khác là các doanh nghiệp Trung Quốc hầu như chỉ thực hiện chiến lược “nhà thầu” chứ rất ngại mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Năm 2011, vốn FDI từ Trung Quốc chỉ đạt hơn 800 triệu USD, đứng thứ 14 trong số các quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư (số vốn trong 4 năm trước đó cũng chỉ dao động trong khoảng 360 – 570 triệu USD). Số vốn này khó có thể khỏa lấp thâm hụt thương mại nhiều tỷ USD của Việt Nam trên cán cân thanh toán tổng thể với Trung Quốc.

…Theo thông tin từ các nhà xuất nhập khẩu, gần đây có tình trạng Trung Quốc đóng cửa biên giới với một số mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam gây ra rất nhiều khó khăn trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp này. Tình trạng này không phải mới xuất hiện mà đã manh nha từ đầu năm 2011 đối với một số mặt hàng như cao su, nông sản, khoáng sản… mới đây nhất là thuỷ sản. Tuy nhiên, nếu như trước đây tình trạng này biểu hiện không rõ ràng thì gần đây, phía Trung Quốc đã bộc lộ rõ ý định hạn chế nhập khẩu hàng hóa, nguyên vật liệu có nguồn gốc Việt Nam, thay thế bằng nguồn nhập khẩu từ các quốc gia khác… Khoản thâm hụt (thương mại với TQ) này rất khó giảm được do các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc là máy móc thiết bị, linh kiện, phụ tùng và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Ngược lại, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lại chủ yếu là hàng sơ chế như nông sản, thuỷ sản, ngũ cốc, cao su… Như vậy với tốc độ nhập khẩu tăng nhanh, trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc ngày càng bị hạn chế, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam, thâm hụt thương mại song phương với Trung Quốc sẽ ngày càng lớn. Trước mắt, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu với Trung Quốc sẽ là những doanh nghiệp trực tiếp gặp khó khăn trong kinh doanh. Trong tương lai, gia tăng thâm hụt thương mại với Trung Quốc có thể gây ra bất ổn về tỷ giá, mất ổn định vĩ mô.

 

Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy là Việt Nam đang ngày càng đánh mất độc lập, tự chủ về kinh tế đối với Trung Quốc, hay chính xác hơn ngày càng lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc. “Bệnh tòng khẩu nhập”, với kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tới gần ¼ tổng kim ngạch nhập khẩu mỗi năm (trong đó phần lớn lại có vấn đề về chất lượng), đây chính là một trong những tác nhân chủ yếu gây ra nhiều căn bệnh trầm kha cho nền kinh tế Việt Nam suốt bao năm qua. Trong khi đó, Trung Quốc đã phòng bị cho kịch bản xấu nhất của mối quan hệ giữa hai nước. Một khi chiến tranh nổ ra (do tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông), chưa xét tới thành bại về mặt quân sự mà chỉ riêng về mặt kinh tế Việt Nam đã phải “lãnh đủ”: xuất khẩu sụt giảm nghiêm trọng do thiếu nguồn cung nguyên vật liệu đầu vào từ Trung Quốc, cũng như do mất một thị trường xuất khẩu quan trọng cho các mặt hàng sơ chế; các nhà máy, công trình hạ tầng với máy móc, thiết bị của Trung Quốc và phụ thuộc vào phụ tùng thay thế của Trung Quốc có thể dừng hoạt động vô thời hạn vào bất cứ lúc nào; các công trình hạ tầng, đặc biệt là các nhà máy thuỷ điện, do Trung Quốc trúng thầu thi công ở Việt Nam thực sự là những quả bom nổ chậm, không chỉ đe doạ sự ổn định kinh tế – xã hội mà còn tiềm ẩn những hệ luỵ tai hại về an ninh – quốc phòng. Ở chiều ngược lại, tác hại về mặt kinh tế từ việc ngưng giao thương với Việt Nam sẽ không đáng kể đối với Trung Quốc: họ đã chuẩn bị nguồn cung thay thế nguồn từ Việt Nam như đã nêu trên; xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam tuy vượt trội so với nhập khẩu từ Việt Nam song lại chẳng thấm vào đâu so với kim ngạch xuất khẩu khổng lồ của họ; đầu tư trực tiếp (FDI) của Trung Quốc tại Việt Nam – một hình thức “con tin” đáng giá nhằm góp phần đảm bảo cho “tình hữu nghị” của hai quốc gia – lại hết sức khiêm tốn, như đã chỉ ra ở trên. Ngoài ra, hàng ngàn “công nhân” Trung Quốc tại những địa bàn nhạy cảm về an ninh – quốc phòng trên khắp đất nước có thể trở thành lực lượng nằm vùng vô cùng nguy hiểm.

Về phía người đứng đầu Chính phủ, như để cổ vũ cho cánh tay phải của mình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã công khai phát biểu: “Không nhờ Trung Quốc có máy móc thiết bị rẻ thì Việt Nam chết ấy chứ! Thử xem có anh nào giá rẻ mà chất lượng cũng chấp nhận được bằng anh Trung Quốc không?” (!?).

÷

Mấy ngày gần đây, dư luận trong và ngoài nước lại sôi sục trước thông tin người ta sẽ cắm cọc xuống Hồ Tây để triển khai dự án đường sắt đô thị tuyến số 5, băng qua Hồ Tây và đè lên Phủ Tây Hồ, một địa danh nổi tiếng của Thăng Long:

Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Văn Khôi vừa có văn bản giao cho các Sở Quy hoạch kiến trúc, Giao thông vận tải, Xây dựng và Cục Đường sắt Việt Nam kiểm tra, đề xuất và báo cáo với lãnh đạo thành phố phương án xây dựng công trình “Đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Nam Hồ Tây – Ngọc Khánh – Láng – Hòa Lạc – Ba Vì” trước ngày 12/8… Trước đó, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải giao Bộ Giao thông và UBND thành phố Hà Nội nghiên cứu dự án đường sắt đô thị Hà Nội (tuyến số 5) từ Hồ Tây – Ngọc Khánh – Láng – Hòa Lạc – Ba Vì. Phó Thủ tướng yêu cầu các đơn vị trên xác định hình thức đầu tư hiệu quả và nguồn vốn thực hiện để trình Thủ tướng xem xét quyết định.

Bản đồ Quy hoạch Hà Nội trưng bày trong cuộc triển lãm khai mạc ngày 20/4/2010 tại Trung tâm Triển lãm Vân Hồ – Hà Nội – phần quy hoạch vạch tuyến đường sắt đô thị số 5 xuyên qua không gian Hồ Tây và Phủ Tây Hồ. (Ảnh: Phạm Viết Đào)
Nếu dự án này được thực hiện thì nó không chỉ phá vỡ cảnh quan của Hồ Tây nói chung, Phủ Tây Hồ nói riêng mà, theo các nhà phong thuỷ, còn phá vỡ cả linh huyệt Hồ Tây và Phủ Tây Hồ, nơi mà mọi người vẫn gọi một cách thành kính là huyệt đạo quốc gia. Thiết tưởng cũng cần phải lưu ý rằng tuyến đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông được khởi công ngày 10/10/2011, với tổng mức đầu tư 533 triệu USD, trong đó nguồn vốn vay của Trung Quốc là 419 triệu USD, tổng thầu EPC là Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc, nhà thầu tư vấn giám sát thi công và lắp đặt thiết bị là Công ty TNHH Giám sát Xây dựng Viện Nghiên cứu Thiết kế Công trình Đường sắt Bắc Kinh. Đúng là (nhà thầu) Trung Quốc “vừa đá bóng, vừa thổi còi” trên một sân chơi đầy nhạy cảm ngay giữa lòng Thủ đô Việt Nam, trước con mắt xoe tròn và bất lực của 14 vị Uỷ viên Bộ Chính trị, của 175 vị Uỷ viên BCHTW Đảng, của 500 vị Đại biểu Quốc hội… và của cả hàng chục triệu người Việt Nam!? Thậm chí, nhà thầu EPC này lại còn được người ta chỉ định thầu, chứ chẳng thèm phải tham gia “đấu thầu” làm gì cho phiền phức! Xem ra chỉ có hậu duệ của Tào Tháo thì mới tài đến vậy!

Một “thành tích” quan trọng nữa PTT Hoàng Trung Hải là đã nhắm mắt trước tình trạng tài nguyên, khoáng sản (lĩnh vực do ông ta phụ trách) bị cấp phép và khai thác bừa bãi, gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí tài nguyên (chủ yếu là xuất thô sang Trung Quốc) và nạn ô nhiễm môi trường đến mức báo động trên khắp đất nước suốt mấy năm qua. Rồi thực trạng èo uột của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, sự vận hành cà giựt của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, hiện tượng bùng nổ gây lãng phí nguồn lực, ô nhiễm môi trường và thất thoát tràn lan của hàng loạt khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu, hải cảng, sân bay trên khắp cả nước, v.v., thảy đều cho thấy “dấu ấn” rõ nét của “thợ vẽ kỳ khôi” Hoàng Trung Hải trên bức tranh kinh tế nham nhở của Việt Nam hiện nay.

TT Nguyễn Tấn Dũng tiếp UV Quốc Vụ Viện TQ Đới Bỉnh Quốc ngày 7/9/2011.
Với những gì mà tác giả trình bày trên đây, người ta hẳn sẽ không mấy ngạc nhiên nếu biết ông Hoàng Trung Hải thực chất là người Hán trá hình. Điều khiến người ta ngạc nhiên là tại sao Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại đặt cược cả sự nghiệp chính trị của mình và hơn thế, cả sự tồn vong của dân tộc, vào một tay người Hán có lý lịch mờ ám như vậy, nhất là khi mà trước thời điểm Quốc hội khoá XII bầu Chính phủ mới, một số cán bộ, đảng viên thuộc Ban Tổ chức Trung ương, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ đã gửi một bức Tâm Huyết Thư tới Bộ Chính trị, Ban Bí thư cùng các vị Bí thư Tỉnh/Thành uỷ, Bí thư Ban Cán sự Đảng các Bộ để tố cáo lý lịch man trá của ông ta? Câu hỏi cần đặt ra ở đây là phải chăng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bị khống chế và dắt mũi?

Lê Anh Hùng

Tác giả gửi đăng

 

 

Tags: ,

5 Phản hồi cho “Một nền kinh tế đang trên đà hán hóa?”

  1. Minh Đức says:

    Hán hóa trong bài này chỉ nói về việc có nhiều hoạt động kinh tế liên quan đến Trung Quốc và bị ràng buộc nhiều về kinh tế với Trung Quốc. Việc cho nhà thầu Trung Quốc thầu nhiều công trình được bào chữa bằng lý do nhà thầu Trung Quốc làm rẻ mà chất lượng cũng chấp nhận được. Nhưng theo Tân Hoa Xã thì tại Trung Quốc từ tháng 7 năm ngoái cho đến nay, trong vòng 12 tháng có 6 vụ cầu sập nghiêm trọng xảy ra. Điều này cho thấy chất lượng của nhà thầu Trung Quốc có vấn đề. Thầu rẻ nhưng chất lượng kém. Ngay chính tại nước họ, họ đang bị nạn nhà thầu thi công chất lượng kém. Đó là vấn đề của nước họ. Người của họ làm dối trá thì dân họ phải chịu. Còn Việt Nam thì có quyền chọn lựa nhà thầu của các nước. Đã có quyền chọn lựa mà lựa nhà thầu chất lượng kém chỉ vì giá rẻ. Xem ra không được khôn ngoan cho lắm. Nhưng tại Việt Nam, có những người cho kinh tế nước mình bị lạm phát, để cho các công ty quốc doanh mang nợ, phá sản, nay lại mong chờ những người đó biết khôn ngoan tránh dùng nhà thầu Trung Quốc xem ra sự mong chờ đó khó mà thực hiện được.

  2. Minh Đức says:

    Trích: “Thử xem có anh nào giá rẻ mà chất lượng cũng chấp nhận được bằng anh Trung Quốc không?”

    Chất lượng cũng chấp nhận được của Trung Quốc giống như là cây cầu tại thành phố Harbin tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc mới khánh thành tháng 11 năm ngoái, chưa đầy một năm nay đã bị sập hoàn toàn một nhịp. Đó là chất lượng chấp nhận được của cây cầu có thời hạn sử dụng là 9 tháng. Chất lượng chấp nhận được như hệ thống xe hỏa cao tốc có xe bị chết máy nằm giữa đường mà hệ thống báo động không báo động cho các xe khác ngừng lại để xảy ra tai nạn làm chết bao nhiêu người. Chất lượng chấp nhận được của hệ thống xe hỏa cao tốc là xe chạy được, chở khách được, chỉ thỉnh thoảng xảy ra tai nạn làm chết vài trăm người. Có khá nhiều món hàng Made in China chất lượng chấp nhận được với thời hạn sử dụng rất ngắn.

  3. dad says:

    Trách ông Dũng là hoàn toàn không đúng. Những hiệp ước dâng VN cho Tầu đã được ký vào những năm 1990 sau khi đàn anh CS Nga, CS Đông Âu sụp….bọn chóp bu CSVN trở cờ sang quỳ gối kẻ thù của VN là TC và vui sướng khi BK chịu “bảo kê” cho họ.
    Mọi người đều biết ông Dũng là người thân Mỹ, ông ta cố đưa VN lại gần Mỹ hơn để cân bằng vị trí nhưng nếu bọn tay chân của TC gài vô bộ máy chính quyền VN quá mạnh thì có 10 ông Dũng cũng không thay đổi được. Trong chính quyền VN còn bao nhiêu tay sai TC sẵn sàng đưa VN nhập vào Tàu????

  4. LeBinh says:

    Vụ bầu Kiên bị bắt, một lần nữa chứng minh rằng tự do, dân chủ là con đường đúng đắn nhất để xây dựng một chính phủ trong sạch, phục vụ cho quyền lợi đất nước. Đường lối dùng người của đảng cs là sai lầm nên đã dẩn đến những thiệt hại cho đất nước. Chúng không xài người giỏi, chúng chỉ xài loại người ngu và ác. Ngu để chỉ biết vâng lệnh, ác để đàn áp dã man những ai không đồng quan điểm với chúng. Nguyển tấn Dũng không xứng đáng làm TT, dù cho hắn là con rơi của Nguyển chí Thanh.
    Nguyển tấn Dũng đã làm được gì cho kinh tế VN ? không có, hắn chỉ giỏi dùng bộ máy công an để đàn áp dã man những người tranh đấu cho dân chủ, dân oan đòi đất. Hắn dùng tên Hán tặc Hoàng trung hải, chứng tỏ Dũng là tên bán nước.

  5. THƯỢNG NGÀN says:

    THẰNG TÀU

    Thằng Tàu nó ở sát ta
    Giống con voi lớn lơ là sao nên
    Chờ cho lúc nó điên lên
    Nó quần nó quấn tênh hênh còn gì
    Người khôn tiên liệu mọi bề
    Tới trôn mới nhảy chỉ là loài ngu
    Kẻ khôn lãnh đạo nước nhà
    Còn như kẻ dại đúng là nguy to
    Ngu nên nằm ngáy pho pho
    Bên thằng hàng xóm lò dò nhìn sang
    Nó đâu cần phải vội vàng
    Rình non thế kỷ mới toan thò vòi
    Môi răng khăng khít tốt rồi
    Nó càng ru lắm thời càng ngủ say
    Nó mưu phấn chấn đêm ngày
    Mình lo ảo tưởng dạ dạy trống không
    Tranh nhau chia chác muôn phần
    Dân tình mặc kệ non sông đoái gì
    Riêng tư quyền lợi thường khi
    Quyền dân không có còn gì nữa đâu
    Ôi thôi đất nước thật rầu
    Khác nào chú chấu đi hầu con voi
    Mong sao trời ngó lại coi
    Đất bằng dậy sóng để voi tan bành !

    BẠT NGÀN
    (25/8/12)

Leave a Reply to THƯỢNG NGÀN