Điếu văn tiễn đưa thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ
LTS: Lễ tưởng niệm cựu phó Tổng thống VNCH, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ được tổ chức vào lúc 9 giờ sáng Chủ Nhật, 7/8/2011, tại nhà nguyện Sky Rose Chaper thuộc nghĩa trang Rose Hill Memorial Park, California với hàng trăm người tham dự.
Tro cốt của thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ được quàn tạm tại Rose Hill. Trước khi qua đời, ông Nguyễn Cao Kỳ có nguyện vọng được yên nghỉ tại quê ông, Sơn Tây, Hà Nội, nhưng gia đình sẽ đợi thêm một thời gian nữa, tới “một thời điểm thuận lợi hơn” mới đưa ông trở về Việt Nam. Chưa rõ thời điểm đó là khi nào, có thể là khi Việt Nam có dân chủ chăng?
Tướng Kỳ là nhân vật gây tranh cãi với luồng dư luận khen, chê trái ngưọc nhau. Nhưng ông là nhân vật lịch sử, là nhân vật cao cấp cuối cùng của VNCH, nên muốn hay không, thích hay không, thì việc qua đời của ông cũng là một sự kiện.
Tham dự đám tang tướng Kỳ có ông Bằng Phong Đặng Văn Âu, một người bạn, người em, người thuộc cấp cũ. Bài điếu văn của ông Đặng Văn Âu – đương nhiên – thể hiện tình cảm của cá nhân ông đối với người quá cố.
———————————————-
Kính thưa Hương linh Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Tổ tiên ta dạy rằng “Nghĩa tử là nghĩa tận” để con cháu đời sau biết phép tắc tôn trọng vong linh người về nơi chín suối. Một phần nghi lễ truyền thống của nòi giống ta trong buổi tiễn đưa là người còn sống nói lên công đức của người vừa mới lìa trần đã làm được những gì cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước trên dương thế.
Nhân danh là một người em tình nghĩa của Thiếu tướng trong đại gia đình Quân Đội, tôi xin phép được nói đôi lời trân trọng để tiễn đưa hương linh Thiếu tướng về Niết bàn.
Chợt được tin Thiếu tướng ra đi, tôi bỗng òa lên khóc như một đứa trẻ. Tôi khóc là bởi vì từ nay bản thân tôi bị mất đi một người anh mà tôi vô cùng yêu quý và kính trọng. Tôi khóc là bởi vì đất nước Việt Nam từ nay bị mất đi một nhà ái quốc có đủ tư thế của một nhà lãnh đạo trải nghiệm, đủ dũng cảm, để thẳng thắn nói lên khát vọng của nhân dân trước mặt nhà cầm quyền. Hôm nay tôi cố nén cảm xúc để nói rõ từng lời con người thật của Thiếu tướng như tôi biết.
Nền Văn Hiến nước ta được dựng xây từ tư tưởng của ba tôn giáo lớn. Đó là Phật Giáo, Nho Giáo, Lão Giáo làm cho dân ta sống hài hòa với nhau mà chúng ta thường nghe nói đến cụm từ tam giáo đồng nguyên hay tam giáo nhất thể. Tuy là ba nguồn, nhưng mà là một. Vua Trần Thái Tông nêu lên chỗ tương đồng của Tam giáo về mặt hành thiện: “Sách Nho dạy làm điều nhân đức, kinh Lão dạy thương yêu người và vật, Phật chủ trương hãy giữ gìn giới cấm sát sinh…”.
Nhờ có cơ duyên, người em này được dịp gần gũi ông nên nhận thấy ông là người được hun đúc bởi ba dòng tư tưởng Phật, Lão, Nho. Tất cả hành động của ông đều dựa trên ba nền đạo lý đó mà ông đặt cái TÂM và cái Đức lên hàng đầu.
Ông thường kể với anh em về chuyện bà Cụ thân sinh của Ông đi Chùa Hương cầu Phật mà sinh ra ông nên ông tin tưởng mình là Con Phật. Ông không thường xuyên đi chùa, không thường xuyên đọc kinh Phật, nhưng ông là người sống với ba điều căn bản Phật dạy. Đó là: BI, TRÍ, DŨNG. Nên tôi tin ông đúng là con Phật.
1/ Về Bi: Ông là người có lòng nhân đức, thương người, không bao giờ ông mưu mô hại một người nào. Nếu ông xử bắn Tạ Vinh thì cũng chỉ vì mục đích bài trừ nạn đầu cơ tích trữ lúa gạo để giúp đồng bào khỏi bị đói. Dù giết một người để cứu muôn người, nhưng ông đã thao thức trắng đêm chỉ vì cái quyết định lấy đi một mạng người.
2/ Về Trí: Nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo Đất Nước khi mới 34 tuổi trong một thời điểm cực kỳ nhiễu nhương, đảo chính, chỉnh lý liên miên từ khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa bị giật sập, mà không ai nghĩ ông có thể đứng vững quá ba bảy hăm mốt ngày. Nếu không phải là người cơ trí lỗi lạc thì làm sao ông có thể dẹp yên cuộc rối loạn Miền Trung mà không đổ máu, trong khi ba vị Tướng Lục quân được gửi ra trước đó đều bị bó tay? Người đời chê ông ít học vì họ không có hiểu biết lịch sử. Đinh Bộ Lĩnh xuất thân là một cậu bé chăn trâu, học hành gì mà dẹp được loạn 12 sứ quân? Hoàng Đế Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ là người theo hai đi thâu thuế chợ ở Bình Định, bằng cấp gì mà đại phá quân Thanh trong chớp mắt?
3/ Về Dũng: Ông từng chinh Nam phạt Bắc từ khi còn là sĩ quan cấp nhỏ cho đến khi làm Thủ tướng. Ông coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Ông dám chống chủ trương của chế độ đưa chính trị vào Quân Đội sẽ phát sinh ra nạn bè phái, chia rẽ, cậy thần cậy thế.
Ông không phải là người lui tới cửa Khổng sân Trình, nhưng nhờ thấm nhuần nền Nho học của tổ tiên, suốt đời ông đã hành xử như một bậc chính nhân quân tử “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu không ham, nghèo không hèn và vũ lực không sợ.
Chưa bao giờ ông là học trò của Lão tử, nhưng cuộc đời ông phản ảnh đúng với câu: “Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh”. Đạo mà ta có thể nói đến được, thì không còn là Đạo nữa. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự”. Ông xem công danh sự nghiệp như phù vân, gió thổi. Công danh hay sự nghiệp mà ông có là do hoàn cảnh lịch sử, tình thế nước nhà mang đến cho ông; chứ ông không mưu cầu. Ông giống như nhân vật Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung không hề khổ công đi tìm bí kíp võ lâm, mà cửu âm chân kinh, cửu dương chân kinh, càn khôn đại nả di cứ tự nhiên rơi vào tay rất tình cờ; trong khi các môn phái chém giết nhau để đoạt cho bằng được. Vì lẽ đó mà con người nào suốt đời lận đận với nợ áo cơm, đuổi theo công danh sự nghiệp thì không bao giờ có thể hiểu CÁI TÂM của ông được. Bởi vậy khi tôi nói cho ông nghe người nào đó nặng lời mạt sát ông thì ông đều khuyên tôi rằng đừng nên trách họ vì họ chưa thể hiểu việc ông làm.
Trong bài Tọa thiền luận, vua Trần thái Tông so sánh pháp môn tu luyện của Tam giáo và nêu lên sự tương đồng: “Đức Thích-Ca vào núi Tuyết sơn Himalayas, ngồi ngay ngắn trong sáu năm, chim thước, chim khách làm tổ trên đầu, cỏ mọc xuyên qua bắp vế mà thân tâm vẫn bình thản. Tử Cơ Đạo gia, tức Nam Quách Tử Cơ trong Nam hoa kinh của Trang tử ngồi tựa ghế, thân như cây khô, lòng như tro nguội. Nhan Hồi, người học trò Đức Khổng phu tử ngồi quên, chân tay rời rã, thông minh dẹp bỏ, lìa xa cả trí cả ngu để hòa chung với Đạo lớn. Ba bậc Thánh hiền của Tam giáo đời xưa đó đều nhờ ngồi định mà có thành tựu.”. Ông không tìm nơi thanh vắng để tu thiền. Ông là người đi tu giữa chợ, giữ vững cái đức liêm chính, bao dung của mình.
Phải chăng ba vị Thánh Hiền tĩnh tọa đã phái ông xuống trần để cứu giúp nước Việt Nam? Bởi vì nơi con người ông là một sự kết hợp tam giáo đồng nguyên hay tam giáo nhất thể. Bước xuống đời vào thời buổi tao loạn, ông không tự nguyện vào cuộc chiến chinh, người ta bắt ông vào lính, nhưng khi đã dấn thân thì ông sống hết mình, ông trở thành Người Lính đích thực, sống trọn vẹn với ý nghĩa của cái motto “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”.
Bất cứ việc gì ông làm, ông đều vì quyền lợi Tổ Quốc mà làm. Ra trường, ông phục vụ ở Bộ Binh một thời gian trước khi sang Không Quân. Mặc dầu cấp chỉ huy là người Pháp, ông dám quyết định thả những người dân bị bắt oan. Là một vị Chỉ huy trưởng Liên Phi Đoàn Vận tải, một đơn vị thường xuyên xuất ngoại, phi hành đoàn được phép mua một ít hàng hóa mang về bán kiếm lời, ai nấy đều làm, nhưng độc nhất chỉ có ông không bao giờ buôn một thứ gì, ngoại trừ một lần duy nhất mua cái radio transitor biếu Bà Cụ thân sinh. Ông cho thuộc cấp sang bay cho hãng Air Vietnam mà ông không hề đòi họ biếu một quả táo, một quả nho. Cả đời ông không hề lợi dụng quyền hạn của mình để ăn cắp tài sản quốc gia đút vào tư túi mình. Cho đến khi lìa trần, ông chẳng hề có một tài sản nào, nên ông rời trần thế với tấm thân rất nhẹ, không bị đau đớn thể chất lẫn tinh thần. Cái đức tính thanh liêm của ông không một ai có thể nghi ngờ.
Khi chính phủ dân sự của Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát vì bất hòa, trao quyền lại cho Quân Đội. Trong Đại hội, ông đề nghị Trung tướng Thiệu đứng ra thành lập Chính phủ, Hội trường vỗ tay hoan hô tán thưởng. Nhưng Tướng Thiệu nhất định không nhận. Người thứ hai ông đề nghị là Tướng Nguyễn Chánh Thi, cũng như Tướng Thiệu, Tướng Thi nhất định không nhận lời. Đại Hội tưởng chừng như bế tắc, vì không ai chịu gách vác trọng trách. Tướng Thiệu, Tướng Thi không dám nhận vì họ thấy tình hình quá khó khăn, chứ không phải hai ông chê chức Thủ tướng. Cuối cùng Quân Lực đề cử ông thì vì tinh thần trách nhiệm nên ông phải nhận lời, tuy ông cũng thừa biết có nhiều khó khăn trở ngại trước mặt. Lúc bấy giờ không một ai nghĩ Chính phủ của ông có thể tồn tại được một tháng. Thế mà ông đã đứng vững, người dân bắt đầu tin tưởng ông, ảnh hưởng của ông đã có tiếng vang trên trường quốc tế. Báo chí thuộc phe phản chiến, thân cộng sản cũng phải thán phục ông. Bằng cớ là ký giả người Ý Oriana Fallaci sau khi phỏng vấn ông, đã kết luận: “Nguyễn Cao Kỳ đáng… là lãnh tụ của một vùng đất thiếu lãnh tụ một cách đau đớn. Qúy vị sẽ nhận thấy điều đó khi ngỡ ngàng lắng nghe ông ta khoảng hơn 10 phút. Tướng Kỳ không phải là một anh chàng ngố, ông ấy có điều muốn nói, và ông nói huỵch toẹt mà không sợ vạ miệng.”
Tuy được sự viện trợ của Hoa Kỳ để chống lại Miền Bắc, nhưng ông tỏ ra là người có tinh thần độc lập, tự tin, chứ không phải là bù nhìn như người ta tưởng. Ở Hội nghị thượng đỉnh Honolulu, Tổng thống Lyndon Johnson khen ông nói tiếng Anh giỏi như chú Mỹ con; ông phản bác ngay: “Không! Tôi là người Việt Nam”. Trong vụ dẹp loạn ở Miền Trung, Tướng Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Lewis Walt hạch xách ông tại sao mang quân ra Vùng I mà không thông báo trước, ông cũng đã dạy Tướng Walt một bài học về lãnh đạo chỉ huy. Sau cuộc kinh lý Úc Châu, ông đã làm cho phong trào phản chiến Úc xẹp xuống, vì ông chứng minh cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam là có chính nghĩa. Từ đó, các lãnh đạo thế giới bắt đầu nhìn ông bằng thái độ trọng vọng. Các lãnh tụ trong vùng như Tưởng Giới Thạch, Marcos, Phác Chính Hy, Quốc vương Thái lan rất lấy làm hài lòng về cung cách ứng xử của ông đối với Hoa Kỳ, cường quốc số 1 lãnh đạo Thế giới Tự do. Đặc biệt Thủ tướng Tungku Abdul Rahman đã đề nghị Hoàng gia Mã Lai phong cho ông tước vị TUN vào năm 1965 mà tới năm 2008 họ lục trong hồ sơ mới tìm thấy quên tấn phong ông. Hoàng gia Mã Lai không nhớ, ông cũng chẳng cần nhắc để được tấn phong thì đủ biết con người không màng danh vọng, chức tước.
Dẹp xong biến loạn Miền Trung, ông tổ chức bầu cử Quốc hội Lập Hiến, viết Hiến Pháp mới để khai sinh nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Năm sau ông tổ chức bầu Tổng thống, Thượng Hạ Viện. Các Tướng Tư lệnh Vùng và Tư lệnh Quân Binh Chủng đã quyết định chọn ông là người đại diện Quân Đội để tranh cử. Nhưng vì muốn thắt chặt tình đoàn kết, ông đã nhường địa vị đó cho Tướng Thiệu và tỏ ý muốn trở về với anh em Không Quân là đơn vị mà ông gắn bó và yêu thương nhất. Nếu không có sự kiện Tướng Hoàng Xuân Lãm khẩn thiết yêu cầu bằng câu nói chí tình giữa Đại hội: “Hoan hô tinh thần hy sinh của anh Kỳ. Nếu anh Kỳ đã thương Quân Đội thì xin hãy thương cho trót. Xin anh vui lòng đứng phó cho anh Thiệu thì liên danh Quân đội mới mong thắng cử. Nếu anh Kỳ không nhận lời thì tôi xin trả cặp lon Tướng này lại và xin ra khỏi Quân Đội”. Tướng Trần văn Minh, quyền Tư lệnh Không Quân lúc bấy giờ, hưởng ứng lời đề nghị của Tướng Hoàng Xuân Lãm, yêu cầu Đại hội cho một tràn pháo tay để ca ngợi tinh thần “Esprit de Corps” của ông. Cả Hội trường vỗ tay và ông đã chấp thuận. Người ta bảo ông nhường cho Trung tướng Thiệu là do áp lực của Hoa Kỳ là không đúng. Bằng cớ là Trưởng nhiệm sở Tình báo CIA là Williams Colby đã vào Tân Sơn Nhất yêu cầu ông hủy bỏ quyết định ấy, vì Hoa Kỳ đã chuẩn bị ủng hộ ông. Để chứng tỏ tính độc lập, ông cho rằng lời yêu cầu của Colby là xen vào nội bộ nước nhà, nên ông đã từ chối. Ông không vì tiếc cái chức Tổng thống mà trở thành người không giữ lời hứa.
Thưa ông Tướng,
Trong lịch sử Việt Nam, chưa có một vị nào được đình thần phong cho chức vua mà lại khước từ. Tôi chỉ biết có vị vua nhường ngôi cho con để lên làm Thái Thượng Hoàng mà thôi. Trong vụ Tết Mậu thân, nếu ông là người say mê quyền lực thì việc lật Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không phải là điều khó khăn. Trong giờ phút lâm chung của Đất Nước, lần đầu tiên tôi mới nghe ông mở lời xin Cụ Trần văn Hương bổ nhiệm cho ông chức vụ Tổng Tham Mưu trưởng để ông có quyền điều động binh lính. Tuy bị Cụ Hương khước từ, ông vẫn dùng trực thăng riêng để hướng dẫn cho khu trục oanh kích các ổ trọng pháo của địch. Khi thế cùng lực kiệt thì ông mới quyết định bay ra Hạm đội 7; chứ không phải lẩn trốn trách nhiệm của người làm Tướng như kẻ ác ý cáo buộc. Người ta buộc tội ông hèn nhát, không chịu chết để giữ tròn danh tiết; nhưng Tướng Ngô Quang Trưởng được ông cứu khỏi bị tù đày thì được người ta ca tụng là vị Tướng anh hùng! Ông không thèm lên tiếng bào chữa, phân trần. Thế mới biết ông là người đại lượng, chỉ âm thầm nói một mình: “Chí ta, ta biết; lòng ta, ta hay!”
Khi Tướng Nguyễn Ngọc Loan bị bọn phản chiến tố cáo về tội sát nhân và đòi đưa ra tòa án trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Không một Tướng lãnh nào đứng ra bênh vực, bào chữa cho Tướng Loan. Chỉ có một mình ông ký một affidavit nhận trách nhiệm là người chỉ thị có cấp chỉ huy ở chiến trường có quyền xử bắn tại chỗ bất cứ tên khủng bố nào. Nhờ lời biện luận của ông trước tòa rằng Tướng Loan bắn một tên khủng bố; chứ không bắn người lính mặc quân phục nên Tướng Loan không vi phạm quy ước Genève. Tòa bèn phán quyết tha bổng Tướng Loan.
Câu nói chí tình của ông với Tướng Loan làm tôi ghi nhớ mãi cho tới chết: “Nếu Mỹ trục xuất anh, dù tới ở bất cứ một nước lạc hậu nào, tôi cũng đi với anh”. Cái tình huynh đệ chi binh, cái tinh thần “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè” của ông thật là tuyệt vời. Trái lại, khi ông dấn thân đi làm chuyện đất nước, thì có người anh em từng bay hợp đoàn với ông đã bỏ ông. Trong đám tang Tướng Loan, nhiếp ảnh gia chụp tấm hình Tướng Loan bắn tên khủng bố đã đến xin lỗi vong hồn Tướng Loan và viết một bài ai điếu bày tỏ sự hối tiếc đăng trên tờ tuần báo Newsweek rất cảm động. Giờ phút này, thử hỏi có người Việt Nam nào đã nhẫn tâm vu cho một người yêu nước như ông là phản quốc, là chạy theo cộng sản, dám bày tỏ sự hối tiếc như nhiếp ảnh gia kia không?
Từ thế kỷ trước, ông đã nhìn thấy tham vọng bành trướng của Trung Cộng. Ông đã ra sức vận động Hoa Kỳ xóa bỏ thù hận chiến tranh để quay lại giúp Việt Nam. Vài ông Nghị sĩ, Dân biểu Chống Cộng không nhìn ra nguy cơ bị Hán hóa, đã nặng lời với ông bằng những ngôn từ vô văn hóa. Họ quên rằng họ có cái chức danh Nghị sĩ, Dân biểu là nhờ ông dẹp yên loạn Miền Trung, nên mới có Quốc hội. Năm 2004, ông về nước để cảnh báo cho nhà cầm quyền cái mối họa Phương Bắc, thì một ông Tiến Sĩ đầu têu ra tuyên cáo miệt thị ông là người không có căn bản học vấn. Từ đó, một làn sóng dư luận a dua theo phụ họa. Ông vẫn thản nhiên tiến bước, mặc kệ những hò hét ồn ào, đoàn lữ hành cứ đi.
Phải là một con người có tấm lòng yêu nước vô cùng to lớn như ông mới có thể an nhiên tự tại giữa cơn gió tanh mưa máu. Tôi nhắc lại lời Chúa Jésus phán hơn hai ngàn năm trước rằng “ai cảm thấy mình vô tội thì cứ việc ném đá vào người đàn bà ấy đi”, nhưng vẫn có những con người đầy rẫy tội lỗi tiếp tục ném những hòn đá bẩn thỉu vào ông để chứng tỏ kiên định lập trường. Tuy ông là con của Phật, nhưng ông đã biết đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục như Đức Chúa Jésus.
Nay ông đã khuất, vâng ông đã khuất; chứ ông không chết, bởi vì ông vẫn thường nhắc câu nói bất hủ của danh tướng MacAthur: “Người lính già không bao giờ chết, họ chỉ khuất đi mà thôi!”. (Old soldiers never died, they just fade away). Đúng thế! Người lính trước gục ngã, người lính sau tiến lên. Sau khi ông khuất đi, tôi tin rằng còn có những người lính dũng cảm tiếp nối giấc mơ của ông.
Giấc mơ của ông là đoàn kết dân tộc để có sức mạnh chống lại sự xâm lăng của ngoại bang. Ông nhận thức rằng Đất Nước mình không may rơi vào cuộc tương tranh giữa Tư Bản – Cộng Sản. Chúng ta được hai thế lực đó phong cho một bên là người lính tiền phong và một bên là người lính tiền đồn để được phát khí giới, tiền bạc nhằm thanh toán lẫn nhau. Thực chất chúng ta chỉ là những tên lính đánh thuê, khi một bên bị hết nguồn cung cấp thì đành thua trận. Vậy thì kẻ chiến thắng có gì là vinh quang, kẻ chiến bại có gì là nhục nhã? Tại sao anh em một nhà, cùng máu huyết mà lại không thể làm hòa với nhau khi nhận ra thân phận lính đánh thuê của mình?
Vợ chồng hòa thuận còn tát cạn Biển Đông. Huống hồ tám mươi triệu người hòa thuận thì sợ gì ngoại bang xâm lăng? Chính vì sợ nước mất vào tay giặc mà ông về nước để thúc đẩy người cầm quyền phải hòa giải với dân tộc. Ông nói rất rõ: “Khi ngọn cờ cộng sản đang phất phới trên đỉnh cao, ông là người Chống Cộng số 1. Bây giờ ngọn cờ ấy đã rơi xuống bùn thì việc gì ông lại chạy theo cộng sản?”. Ông nói lời nói đó không phải để tự thanh minh. Đó là lời ông nhắn với người đang cầm quyền lá cờ cộng sản đã rơi xuống bùn rồi, hãy bỏ Điều 4 Hiến Pháp đi!
Về nước hô hào Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc, ông đã làm cho người cầm quyền bối rối, bởi vì ông vẫn nhắc đi nhắc lại với họ rằng một dân tộc cứ xung đột nhau, cứ chém giết lẫn nhau, nếu nước không mất thì dân nước đó cũng sẽ đi làm đầy tớ, làm nô lệ mà thôi. Thử hỏi nhân dân Việt Nam có chấp nhận làm đầy tớ ngoại bang hay không? Cho nên phương án “hòa giải hòa hợp” của ông không phải là một sự đầu hàng, mà là một chiến lược buộc người cầm quyền phải tiến tới để quốc gia sống còn. Ông chứng minh sở dĩ Hoa Kỳ đứng đầu nhân loại là nhờ mọi người dân tuy không cùng một chủng tộc nhưng biết đoàn kết bảo vệ giá trị Nhân Văn để cho người đương quyền Việt Nam nhìn thấy mà noi theo nhằm xây dựng một Nhà Nước Pháp Quyền, chứ không phải đi theo Hoa Kỳ là trở thành nô lệ của Hoa Kỳ. Chỉ có ông Tướng là người đủ tư thế nói điều đó, vì trong quá khứ ông đã chứng tỏ con người độc lập làm cho Hoa Kỳ phải nể trọng.
Bản thân ông là biểu tượng của sự hòa giải hòa hợp. Chắc hẳn mọi người còn nhớ đến vụ Phong trào Fulro ở Tây Nguyên nổi dậy đòi quyền tự trị, ông không dùng vũ lực để đàn áp. Ông bay lên tận nơi, trực tiếp nói chuyện với lãnh tụ phong trào. Ông không chấp nhận quyền tự trị, nhưng ông sẵn sàng giúp đỡ phương tiện sinh sống cho người thiểu số để Kinh Thượng chung sống đề huề. Do đó, Nội các của ông là Nội các đầu tiên có Bộ Sắc Tộc do ông Paul Nur làm Bộ trưởng. Dẹp xong Biến Động Miền Trung, ông không đưa những người cầm đầu phản loạn ra Tòa án Quân sự xử tử hình theo quân pháp. Ông lấy lượng khoan hồng mà đãi kẻ bại, vì thế ông đã đoàn kết được quân đội.
Ông có một người bạn cùng quê Sơn Tây, chơi với nhau từ thuở thơ ấu, vẫn thủy chung với bạn dù khi ông đạt đỉnh cao trên chiếc ghế quyền lực. Mỗi cuối tuần, người bạn ấy vẫn thường vào trong căn cứ Tân Sơn Nhất uống rượu cùng ông. Ở Hoa Kỳ, người bạn ấy qua đời trước, đích thân ông đưa vai khiêng quan tài của bạn. Người bạn ấy là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Nay ông qua đời, hương linh người bạn Phạm Đình Chương rất thấu hiểu tâm nguyện của ông khi còn trên trần thế, đã nhờ hai người lính thuộc hai chiến tuyến khác nhau mang dòng họ Phạm Đình để khẳng định ông là một Nhà Ái Quốc chân chính. Tuần trước Trung tá Nhẩy Dù Việt Nam Cộng Hòa Phạm Đình Cung ngồi giữa Thủ Đô Người Việt Tỵ Nạn nổi tiếng Chống Cộng nói với quần chúng khắp bốn phương rằng Tướng Nguyễn Cao Kỳ là người yêu nước. Hôm kia, tôi nhận được một bức thư của người lính cộng sản từng tham dự chiến trường Tây Nguyên trước năm 1975 nay đã xé thẻ đảng, nhờ tôi đọc trong buổi lễ này để xác nhận với đồng bào rằng Tướng Nguyễn Cao Kỳ là người yêu nước. Đây là bức thư của người cựu chiến binh cộng sản Phạm Đình Trọng, tôi xin phép đọc cho ông và mọi người cùng nghe:
“ Kính gửi Anh Đặng Văn Âu
Với những trọng trách trước lịch sử, trước thời cuộc mà ông gánh vác, Nguyễn Cao Kỳ là nhân vật lịch sử đậm nét của một trang sử Việt Nam thời nghiệt ngã, đau thương. Với những cá tính mạnh mẽ, rất đàn ông, Nguyễn Cao Kỳ là một nhân vật tiểu thuyết điển hình của bộ tiểu thuyết lịch sử hấp dẫn. Hơn tất cả những điều đó, với ứng xử của ông sau 1975, Nguyễn Cao Kỳ là một người yêu nước thiết thực, tỉnh táo và cao cả. Trong khi những người cùng hoàn cảnh với ông vẫn mãi chìm nghỉm, lún sâu trong hận thù ý thức hệ, trong hằn học thất thế để càng chia rẽ dân tộc thì Nguyễn Cao Kỳ coi Tổ quốc Việt Nam là trên hết, coi làm lành vết thương trong trái tim người Mẹ Việt Nam là khẩn thiết nhất, Nguyễn Cao Kỳ là người đi trước và cho đến nay vẫn là người Việt Nam duy nhất vượt lên trên ý thức hệ, vượt lên trên hận thù, mặc cảm cá nhân của người thất thế, là người đầu tiên có việc làm thiết thực xoa dịu trái tim đau chia rẽ, li tán dân tộc của người Mẹ Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ về Việt Nam không phải về với những người cộng sản mà là về với người Mẹ Việt Nam đau khổ, về hàn gắn vết thương trong trái tim người Mẹ Việt Nam.
Ở trong nước, tôi đã thấy những người lãnh đạo đảng cộng sản mồm nói hòa giải, hòa hợp dân tộc nhưng trong thực tế họ vẫn âm thầm khoét sâu thêm hố ngăn cách, li tán dân tộc. Sang Mĩ, tôi lại thấy những người Việt xa nước cũng đang cuồng nhiệt, hăng hái, kích động bài xích hòa hợp dân tộc, đào bới sâu thêm hố chia rẽ, li tán dân tộc. Tôi càng thấy tầm cao chính trị và tình cảm dân tộc rộng lớn bao dung, vị tha của ông Nguyễn Cao Kỳ. Đây là thể hiện rõ nhất lòng yêu nước, là đóng góp lớn nhất, quí nhất của con người lịch sử Nguyễn Cao Kỳ.
Tôi nhờ Anh Đặng Văn Âu chuyển hộ tôi lời chia buồn sâu sắc, muộn màng nhưng chân thực của tôi tới gia đình Tướng Nguyễn Cao Kỳ và đặc biệt cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Tôi mong có dịp được gặp cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên để tôi được biết thêm về những nét đời thường của nhân vật lịch sử độc đáo nhất trong lịch sử Việt Nam mà từ lâu tôi đã rất quan tâm và bây giờ là sự yêu mến, kính trọng.
Cảm ơn Anh Đặng Văn Âu.
Kính.
Phạm Đình Trọng. Nhà văn”
Thưa Thiếu tướng,
Tôi nghĩ người bạn cố tri Phạm Đình Chương của ông tế nhị lắm. Hương linh nhạc sĩ phải tìm cho được hai người lính từ hai phía, không những mang cùng họ Phạm Đình với mình, mà còn mang hai cái tên cũng vô cùng ý nghĩa. Một là Cung tức là Cung Kính và một là Trọng tức là Trọng Vọng. Hai người lính đó từng chĩa súng bắn vào nhau, nay hai người lính đó cùng bày tỏ Cung Kính và Trọng Vọng ông thì không phải là sự tình cờ! Cuộc chiến đã tàn, hai người lính tiêu biểu của hai phía đã nhận ra con đường ông đi là đúng; chứ không còn là con đường “bi đát” nữa!
Tôi nhớ mãi lời của Thiếu tướng dặn dò: “Một người có lý tưởng mà dám thực hiện lý tưởng thì không có gì phải sợ hãi”. Tôi từng làm Chủ nhiệm tờ Lý Tưởng tục bản ở Houston do Thiếu tướng sáng lập khi mới lên làm Tư lệnh Không Quân. Tôi dùng câu “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè” làm châm ngôn. Khi tôi đăng một bài báo có tính nhạy cảm đối với một đoàn thể, một chiến hữu cộng sự của tôi và tôi bị chụp mũ cộng sản. Bạn tôi oan ức nhảy cầu xa lộ tự tử để phản đối kẻ xúc phạm thanh danh mình. Tôi bị dọa bắn, dọa giết. Tôi đã không sợ hãi, thực hiện ngay một tờ báo mang tên Thần Phong, là danh xưng Biệt Đội thả biệt kích ra Bắc của Thiếu tướng, để tố giác, hài tội đoàn thể đó!
Suốt thời gian qua, tôi đã lên tiếng để chống lại những cáo buộc hàm hồ của các người dám nhục mạ Thiếu tướng, một nhà ái quốc. Tôi cũng đã bị hăm dọa, nhưng tôi cũng không sợ, vì tôi tin ở lý tưởng của ông và của tôi. Dù chết, tôi vẫn đeo đuổi cái phương châm “Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”. Người yêu nước phải quyết làm sao thực hiện cho kỳ được dân tộc này hòa giải hòa hợp với nhau để có sức mạnh chống trả ngoại xâm. Chỉ có những người không yêu Tổ Quốc mới có chủ tâm phá hoại sự nghiệp đoàn kết dân tộc.
Tôi chắc chắn Thiếu tướng ở trên kia đang nhâm nhi ly rượu với người bạn cố tri Phạm Đình Chương đã đưa hai người lính từ hai phía đến nói lời ân tình với Thiếu tướng. Tôi mừng cho Thiếu tướng gặp lại bạn xưa. Lịch sử nước ta có nhiều vị anh hùng, nhưng chỉ có Đức Trần Hưng Đạo được đời sau phong Thánh, vì lúc sinh tiền Ngài đã không nghe theo lời cha là Trần Liễu giành lấy ngôi vua của Trần Thái Tông và Ngài đã đốt quyển sách ghi danh những tên Việt gian làm nội gián cho quân Nguyên mà người ta dâng cho Ngài. Ông Tướng thì tự động nhường ngôi vua (tức là chức Tổng thống) cho Trung tướng Nguyễn văn Thiệu và tha chết cho những Tướng Tư lệnh Vùng I và Tướng Tư lệnh Sư đoàn I làm loạn chống chính phủ. Nếu Việt Nam không bị Hán hóa vì nhà cầm quyền biết nghe lời Thiếu tướng để thực tâm thi hành chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc thì người đời sau sẽ lập đền thờ tưởng nhớ đến công đức của ông. Xin vong hồn ông linh thiêng phù hộ độ trì cho dân tộc này chấm dứt xung đột, hận thù để Non Sông Việt Nam không bị biến thành châu quận của Bắc Phương.
Kính lạy vong hồn ông.
Bằng Phong Đặng văn Âu, đứa em tình nghĩa của Thiếu tướng.
© Đàn Chim Việt
PHÊ PHÁN VỀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ
Người ta nhận xét, nhận định về một nhân vật hoạt động chính trị,
hay văn hoá, hay kinh tế…khi người đó còn sinh sống. Nhưng
sau khi người đó đã qua đời, thì một số nhận định kia cần xem lại,
đối chiếu lại. Đó là phêphán sự nghiệp, công trạng của nhân vật đó
đã mang lại cho đời sống, cho xã hội. Trường hợp này cũng áp
dụng vô đời sống hoạt động của ông Nguyễn Cao Kỳ.
Ông Cao Kỳ có cá tính rất mạnh mẽ, cương trực, thanh liêm; những
cá tính này rất thích hợp cho một lãnh tụ trẻ cầm quyền khi một xã
hội đang chia rẽ, nhiễu nhương cùng cực như tình trạng Miền Nam VN
sau khi TT Ngô Đình Diệm bị thảm sát , kéo theo sự tan hàng của
nền Đệ nhứt Cộng Hòa.
Không ai phủ nhận công lao của Tướng Cao Kỳ đã lãnh đạo việc
bình định cuộc phiến loạn Miền Trung, đã lãnhđạo cuôc phản công
đại thắng qua chính biến Mậu Thân. Và ông Cao Kỳ tiếp theo Cố
TT Ngô Đình Diệm, đã tái lập huy hoàng nền Đệ Nhị Cộng Hòa.
Không một ai lại vin vào mấy cá tính của ông Cao Kỳ để chối bỏ
bao đóng góp hàng đầu của ông Cao Kỳ cho Miền Nam V N.
Về việc ông đi về Việt Nam, chắc chắn là theo hướng Diễn tiến hòa
bình do Hoa Kỳ chủ trương, không những áp dụng cho VN, mà còn
với Trung Hoa Cộng Sản. Khi ông về VN, CS trải thảm đỏ chào
đón ông; nhưng khi ông quá vãng, tất cả một đảng CS, một xã hội
VNCS đều giữ im lặng. Điều này cho hay, chẳng phải CSVN thiếu
lòng kính trọng đối với Tướng Nguyễn Cao Kỳ, mà vì có những sự
kiện lịchsử đang tiến hành mà họ không thể tiết lộ sớm ra được.
Xét theo sự nghiệp và công trạng đóng góp cho Việt Nam Cộng Hòa,
ông Nguyễn Cao Kỳ thật xứng đáng là một nhân vật lịch sữ hàng
đầu của Việt Nam nói chung, chỉ đứng sau cố TT. Ngô Đình Diệm.
( Ý-Yên Phạm Hà Châu)
Về việc ông đi về Việt Nam chắc chắn là theo hướng diễn tiến hòa bình do Hoa Kỳ chủ trương ? Sao ông lại chắc chắn thế nhỉ.theo tôi thì ông ta về VN dù bán rẽ lương tâm cũng vì muốn làm cò mồi kiếm chút cơm cháo .
Thưa,
Cổ kim cũng có rất nhiều anh…
Bình thường thì shows off rất…ngon lành, bảnh tỏn, đóng kịch tuyệt vời. Thiên hạ ai cũng bái là anh hùng, quân tử. Nhưng khi đụng chuyện, thập tử nhất sinh, hay cùng đường ngỏ hẹp. mới…té ngửa ra rằng các anh ấy nà….nguỵ quân tử, giả anh hùng…
Sử sách từ đông sang tây, từ nam đến bắc, quá xá nà…ví dụ (cụ thể)…
Nhưng, những gì từ 2004 về trước, mềnh còn có thể…thông cãm, không ní tới…
Còn kể từ 2004, thân tại giang hồ mà lòng tại…mánh, vì mánh mà ra thân…nịnh, vì nịnh mà ra thân…cò mồi, quá….ẹ!…
Thôi, nuôi dưỡng hận thù mà chi nữa, hãy về đây mà…bái sư, nhận tổ, ấy mới nà…yêu nước…
(có hình ảnh tười cười tít tót, chứng minh đường hoàng, thiên hạ ai cũng rành)
Các nạn nhân tị nạn cs, ai ai cũng ngở ngàng, ngẫn tò te…
Y như cái hồi 30 tháng tư, 1975, nghe tiếng nhạc sĩ Trịnh công Sơn lên đài hát nịnh Cộng…
Quá xá bịnh!
Còn dựa vào Mỹ, hát hoà giãi, hoà hợp với Cộng, để chạy tội, thì…thấy thương quá. Nô xí gạt được…
Mỹ nó có còn credit chăng khi đã…mê Tàu mà bỏ bạn? Chơi vậy sao bền? chỉ có…trâu tin nó chứ ai mà còn tin nữa?
Mỹ khôn, nhưng Cộng Á châu nó…láu cá.
Cộng quốc tế đi đứt đã gần 30 năm, Cộng tàu, Cộng Việt, Cộng Bắc Hàn, Cộng Cu ba, vẫn còn…
Thằng con nít Bạn đời Tiên Ngu
từng mang danh là “con Cá Tra”
bên DCV.Net…
Sao mi dám kết luận về một
sự kiện, một chương trình khi
còn đang tiến hành? Việc chưa
tới mà mi đã chửi rồi, là sao?
Mi là cái thứ con liệt sĩ MTGP
MN vô đây, quyết đánh phá con
người VNCH xưa hay sao?
Mỗi lần bị vạch mặt….nịnh, là Ý điên lên, Ý…chửi búa xua, Ý…chụp ếch. Thấy thương quá…
Từ từ, bình tỉnh nói chuyện nó mới ra ngô ra khoai Ý ơi.
Tương lai của…cả thế giới, đều năm trong bàn tay của…con nít đấy nghe Ý. Khi dể…con nít để…tự nâng mình lên à? Good luck, man.
Có cái gì mà Tiên Ngu này…vẽ thêm, bơm…ngược, nói không đúng sự thật về hành vi Nguyễn cao Kỳ sau 2004, Ý chỉ ra nghe chơi coi?
Còn…chửi khơi khơi…
Xin lỗi bạn nghe, bạn chửi thua hai anh cò Tâm Địa Bất Nhân nhiều.
Thương bạn nắm mới…nhỏ nhẹ khuyên đó nghe…
Tôi nghĩ là ông Ý-Yên Phạm Hà Châu cần phải thận trọng trong lời nói, nếu không thì ông cũng vướng vào cái vòng luẩn quần và sai lầm giống như ông Đăng Văn Âu. Bôi son trét phấn nhiều quá sẽ làm cho bộ mặt ông Kỳ bị loè loẹt và méo mó và hoá ra hại ông ấy!
Nếu thật sự ông Kỳ về Việt Nam trong ý tưởng thúc đẩy CSVN tạo sự Hoà Giải Hoà hợp và đoàn kết dân tộc với sự hỗ trợ và giúp đỡ của Mỹ thì còn có thể chấp nhận được. Còn nói là “chắc chắn là theo hướng Diễn tiến hòa bình do Hoa Kỳ chủ trương, không những áp dụng cho VN, mà còn với Trung Hoa Cộng Sản” thì ông Ý-Yên đã biến ông Kỳ thành một con rối, ông Kỳ “không” vì lòng yêu nước hay vì dân tộc VN mà chỉ là công cụ của Mỹ?
My Unicode is being fixed. I would use English
to express my thanks to Mr. Nghich Nhi.
Sincerely, Pham Ha Chau
Mot Con nguoi chi la mot Con nguoi .Khi song Nguoi ta lam ca viec Xau lan viec Tot .Tai sao lai khong the danh gia mot Con nguoi sau khi Nguoi do Chet voi ca mat Xau lan mat Tot.Ke ca la Than thanh thi nguoi ta van co quyen danh gia la Xau hay Tot, noi chi la mot Con nguoi
Bài viết này đầy những luận điệu quanh co, ngụy biện. Nói chung là kém giá trị vì nó không phản ảnh được sự thực lịch sử. Trong cuộc đấu tranh chính trị giành quyền lực giữa Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, cuối cùng ông Kỳ bị loại ra ngoài vòng quyền lực vì ông Thiệu dần dần bố trí người vào các chức vụ then chốt, khiến cho ông Kỳ dần dần bị loại ra ngoài. Bước đi của ông Thiệu giống như bước đi của Vladimir Putin, từng bước bố trí người trung thành với mình để thu tóm quyền lực. Mà cũng là cách nhiều chính trị gia khác làm để củng cố quyền lực. Có người thời đó nói ông Kỳ bị mất quyền vì Mỹ chọn ông Thiệu. Có người lại bàn ông Thiệu là người Nam nên nói người Nam nghe dễ hiểu còn ông Kỳ là người Bắc nên nói dân miền Nam nghe không hiểu, do đó Mỹ chọn ông Thiệu. Những chuyện kể về sau này cho thấy chính ông Thiệu đã loại ông Kỳ ra chứ không phải là Mỹ chọn ông Thiệu bỏ ông Kỳ. Chính ông Thiệu cũng sợ bị Mỹ làm đảo chánh lật mình thì đâu phải là Mỹ chọn ông Thiệu. Mỹ thật ra chẳng chọn ông nào cả mà họ chọn chế độ chính trị với sinh hoạt đa đảng, tự do báo chí, tự do bầu cử. Ai lên được theo thể thức dân chủ thì Mỹ làm việc với người đó. Theo hiến pháp Đệ Nhị Cộng Hòa thì ông Thiệu làm 2 nhiệm kỳ thì phải xuống. Đến 1974, thấy sắp hết nhiệm kỳ 2, ông Thiệu định sửa hiến pháp để mình làm tổng thống mãi. Đó là do ý muốn của ông Thiệu chứ chẳng phải do người Mỹ. Chế độ nước Mỹ cũng chẳng ủng hộ đảng Cộng Hòa hay đảng Dân Chủ của họ mà ủng hộ đảng nào được dân bầu lên.
Tôi không nghĩ như vậy. TT Diệm cũng được Mỹ ủng hộ, đưa về VN để thay thế bảo đại, nhưng cuối cùng Mỹ cũng dùng đủ mọi kế dơ bẩn nhất để lật đổ TT Diệm. Chuyện ông Thiệu sợ Mỹ đảo chánh thì đúng rồi, vì ông ta cũng lâm vào tình thế gần giống TT Diệm trước đó.
TT Diệm bị lật đổ là vì có chính sách đi ngược lại với tham vọng quân sự toàn cầu của Mỹ ở VN nói riêng và Á Châu nói chung. Ông Thiệu cũng sợ Mỹ là vì sau khi Mỹ ký hiệp định Paris thì ông Thiệu không thay đổi lập trường chống cộng, cản trở tiến trình (nói đúng hơn là nước cờ) của Mỹ ở Á Châu, nghĩa là nhường VN cho khối CS để đổi lấy Trung Đông. Mỹ muốn nhường cho Trung Cộng bành trướng ở Á Châu để hoà hoãn với Tàu hầu rảnh tay đối đầu với Nga ở Trung Đông.
Mỹ làm gì thì làm, nhưng ép ông Thiệu ký hiệp định Paris là một điều không chấp nhận được, trước đó TT Nixon còn ép ông Thiệu hành quân qua Lào để lãnh nhận thất bại trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 đó. Nước cờ đó là “Việt Nam Hoá Chiến Tranh” mà TT Nixon muốn trình bày với dư luận Mỹ. Hối thúc VNCH đi nước cờ đó một cách vội vã, thiếu tổ chức và kém tính toán, với lời hứa là Mỹ sẽ yểm trợ không quân tối đa… Ông Thiệu cảm thấy khó thắng nổi trận đó, nhưng ông ta phải thực hiện là vì áp lực của Mỹ. Và chính trận đánh đó làm thay đổi cục diện chính trị và quân sự của chiến tranh VN, nó là một khúc quẹo dẫn VNCH đến bại trận năm 1975.
Ông Thiệu, cũng như ông Diệm, được Mỹ ủng hộ ra ứng cử tổng thống, nhưng ít năm sau thì vì không thể phản bội đất nước để đi theo chính sách thay đổi của Mỹ, nên cả 2 đều bị Mỹ ghét. Nguyễn Tiến Hưng đã kể lại như sau, về hiệp định hoà bình Paris:
“Ngày 26-11-1972, Bunker chuyển một lá thơ của Nixon, cho biết nếu VNCH cưỡng lại Hoa Kỳ thì VIỆN TRỢ sẽ bị cúp ngay và tánh mạng tổng thống Thiệu nếu muốn giữ, phải KÝ KẾT.Ðể tấn tuồng kết thúc trọn vẹn, bất ngờ ngày 18-12-1972, Nixon ra lệnh oanh tạc THẬT Hà Nội-Hải Phòng và các căn cứ quân sự tại Bắc Việt một cách sấm sét dã man, bất chấp Dân Chủ và phản chiến kêu gào la ó. Ðến lúc này, thì TT Thiệu không tin cũng phải tin là Hoa Kỳ qua lời hứa của Nixon trong mấy chục bức thơ riêng, sẽ dội B52 và can thiệp ngay bằng quân sự nếu Hà Nội phản thùng, tấn công VNCH…”
Lúc đầu ông Thiệu làm TT thì phải có sự ủng hộ của Mỹ chứ: “Năm 1967, dưới sự hậu thuẫn từ phía Mỹ và lực lượng đảng Dân chủ do chính ông thành lập, Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm tổng thống, tuyên bố thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam, với 38% số phiếu.” http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Thi%E1%BB%87u
Trích: TT Diệm bị lật đổ là vì có chính sách đi ngược lại với tham vọng quân sự toàn cầu của Mỹ ở VN nói riêng và Á Châu nói chung
Sự mâu thuẫn giữa Mỹ và anh em ông Diệm là do quan niệm lãnh đạo khác nhau và do việc chế độ ông Diệm không ngăn cản được CS ngày càng hoạt động mạnh. Nói là ông Diệm đi ngược với tham vọng quân sự toàn cầu của Mỹ là sai. Lúc đó, Mỹ chỉ muốn chế độ ông Diệm đủ sức ngăn chận CS để cho Mỹ rút cố vấn về, giảm bớt chi tiêu về quân sự tại miền Nam, nghĩa là bớt can thiệp vào miền Nam. Mỹ ủng hộ các tướng lật ông Diệm là vì cho rằng các tướng lãnh sẽ chống cộng có hiệu quả hơn là đường lối của ông Diệm. Mỹ muốn chế độ ông Diệm cho các phe các tham gia chính trị trong khi chế độ ông Diệm chỉ muốn người phe mình nắm hết. Mỹ cho rằng vì chế độ ông Diệm không cho các phe khác tham gia chính trị nên miền Nam mất ổn định.
Mỹ không có ý định rút cố vấn về nước mà ngược lại muốn đổ nhiều quân vào VN. Ông Diệm thẳng thắn chối từ, vì lo sợ CS-Bắc Việt sẽ có cớ “chống Mỹ” để mở rộng chiến tranh, vì vậy Mỹ đã làm nhiều áp lực chống ông Diệm, một mặt Mỹ muốn chặt bớt tay chân của ông Diệm, đòi loại trừ ông Nhu, cúp viện trợ, không trả lương cho liên đoàn phòng vệ phủ Tổng thống, mặt khác Mỹ giúp Thích Trí Quang khuấy động tôn giáo, khuyến khích đảo chánh. Ông Diệm đã lên đài phát thanh nói rõ về chuyện này. (rất tiếc tôi không nhớ ngày, tháng)
Báo chí lúc ấy đã đặt câu hỏi với ông Diệm về việc này, ông Diệm đã nói thẳng; chúng ta đang xây dựng ngôi nhà, nếu có bạn bè giúp đỡ thì mau chóng thành công, còn không thì chúng ta phải cố gắng thêm nhiều, dĩ nhiên sẽ vất vả và thời gian sẽ lâu hơn (tôi nhớ đại khái như vậy). Sau khi ông Diệm bị giết, Mỹ đã tạo cho hậu trường VN bất ổn với đảo chánh, chỉnh lý liên tục để có cớ đổ quân ào ạt vào VN, còn Dương Văn Minh thì cho phá bỏ chương trình ấp chiến lược mà ông Nhu đã thực hiện, giải tán cơ quan phản gián của đệ I Cộng Hoà, cho thả những người CS nằm vùng đang bị giam tù.
Tôi đồng ý với góp ý của ông Le Kha Phieu Bat ở trên.
Thưa qúi vị,
Tôi vừa đọc bàn điểm sách HỒI KÝ VÕ LONG TRIỀU của ông Nguyễn Thanh Liêm. Nhân thấy đoạn cuối có liên quan nhiều đến những lời khuyên và chê trách ở đây dành cho những ai không chịu tuân theo truyền thống dân tộc “NGHIÃ TỬ LÀ NGHIÃ TẬN” !
Thực tình như tôi đã thưa rõ ràng vài lần nơi đây:
- một, ông Kỳ là “public figure”. Có những khoảng tối Việt sử hiện đại cần được soi sáng qua dịp này
Vả chăng từ khi sống đến khi chết ông là đề tài cho bá tánh khen chê loạn cả lên. Nhất là những năm cuối đời, ông bị kết tội là đón gió trở cờ, khi một mình ông làm gương hòa giải hòa hợp vô điều kiện với CS. Và rất ngộ nghĩnh đến chua xót là, chả có quan chức CS nào chia buồn hay đến viếng linh cửu ông.
- hai, “cây muốn lặng, gió chẳng ngừng”. Cô con gái rượu Nguyễn Cao Kỳ Duyên làm cho người ta bức xúc khị nhận được bài điều văn ca tụng cái nghiã khí hơn người của ông bố, nhất là cô lại nhấn mạnh đển điểm ông thản nhiên đạp lên dư luận rất thoải mái (chả khác gì cô ta và mẹ ruột).
Rồi thêm ông Bằng Phong Đặng Văn Âu tiếp tay “đổ dàu vào lửa” liên tục.
Vì thế không nên trách cứ một chiều, sao không thông cảm để ông Kỳ ra đi thanh thoát!
Trở lại bài phê bình của ông Nguyễn Thanh Liêm, tôi xin mạn phép repost lại những chỗ có liên quan mật thiết đến góp ý của tôi:
“Viết cho đúng sự thật thì không tránh được việc ít nhiều “vạch lá tìm sâu” hay lật tấm thảm lên để xem những rác rến đã nằm kín ở dưới đó, hay có thể khơi lại những vết thương mà thời gian đã làm lành. Có ai nhớ lại chuyện xưa mà không tìm thấy ít nhiều những cái dỡ, cái xấu, cái sai lầm trong đó. Những cái dỡ, cái xấu, cái sai lầm của người khác, cũng như của chính mình nều mình ngay thật (honest). Và người khác đây không phải chỉ những kẻ thù hay những người xa lạ nào mà có thể là những người bạn, những bà con thân thuộc, những cọng sự viên, những người cùng chiến tuyến với mình. Viết hồi ký đúng không tránh khỏi việc vi phạm (violate) tính cách riêng tư (privacy) của người khác và của chính mình nữa. Tật xấu của ông cha, lỗi lầm của bà chị, sự ngu dốt của người em, tính lưu manh của thằng bạn, tội lỗi của một cọng sự viên, sai lầm của một người đồng hành, cái dỡ của người lãnh tụ, cái hèn của kẻ ngồi cao kể cả người ơn của mình, v v và v v . . . tất cả những cái xấu đó đều có thể là sự thật (trong đầu óc của người viết) và phải được phơi bày trong một hồi ký nếu người viết muốn thật sự làm đúng vai trò viết hồi ký.
(…)
Câu hỏi là tội gì phải làm như vậy, tôi gì phải viết, phải nói, để ít nhiều mua lấy sự giận hờn, thù ghét của người khác? Tại sao không để yên dưới tấm thảm, tại sao phải giở tấm thảm lên để nhìn những rác rến người ta đã dấu nhiều năm ở dưới đó? Tại sao phải khơi lại những vết thương mà thời gian đã giúp làm cho lành rồi? ê Câu trả lời ở đây có thể là khi viết hồi ký người viết xem họ là chứng nhân của thời đại, và với tư cách đó họ muốn làm chứng trước một tòa án lịch sử tưởng tượng (imagined) những gì họ thấy để tòa án phân xử. Trong sâu kín của tâm hồn họ cũng muốn nhân đó giúp cho hậu thế nhìn thấy những sai lầm để tránh hay để sửa chửa. Muốn tốt đẹp hơn phải sửa đổi những cái dỡ, cái xấu, cái sai. Muốn thấy cái sai, cái dỡ, phải nhìn sự thật dấu kín dưới tấm thảm. Nói như Anne Roiphe thì “without the record (record according to our truthful efforts), we will not change. Without hope of change our human condition would be unbearable.” Không có hồ sơ (hồ sơ theo những cố gắng thật đúng của chúng ta) thì chúng ta không thay đổi. Không có hy vọng thay đổi thì điều kiện làm người không thể chịu được. Vậy nên Anne Roiphe bảo: “With truth comes guilt; we have, each of us, an obligation to lift up rugs”. (Roiphe, Anne; Pitfall of Memoir Writing, Forward Newspaper, March 30, 2001). Với sự thật, tội lỗi phải lòi ra, và chúng ta, mỗi người phải có bổn phận giở tấm thảm lên nhìn vào những rác rến dấu ở dưới đó. (…)
Kính cáo,
Lại Mạnh Cường
Toubib Lại Mạnh Cường là ý sĩ…trưng tập, bị đi lính,
nên ghét mấy ông Thiệu Kỳ ghê nơi!
Toubib Cường dùng kim chích…thuốc độc cho các
ông Thiệu Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa.
Vậy Toubib Cường cùng ta hô hai khẩu hiệu, nè :
Vive la France ! Tous nos efforts pour Thông Lụm !
Thỏa chí chưa, …ác mẫu Cường ?
Niên trưởng Phạm Hà Châu ơi,
Đầu óc nhỏ hep, bảo thủ và nhiều thành kiến,
nên cái nhìn không đi quá khỏi …. mũi giầy trận lấm bùn.
LMC
Mỗi khi tranh cãi, lý luận không lại với Bác Cường thì lại mang cái nghề nghiệp của Bác ấy ra chế diễu, tôi thấy hơi chướng tai gai mắt. Tại sao gọi Bác Cường là ác mẫu, chỉ vì bác ấy chống CS hay chống ông Thiệu, ông Kỳ? cái này thì dính dáng gì đến nghề nghiệp của Bác ấy. Tôi thấy bạn giống như 1 đứa trẻ, nhục mạ, làm reo, giẫy nẩy hơn là 1 người lớn tranh cãi thẳng vào vấn đề.
Mọi người vào đây vạch lá tìm sâu ,à không phải,mà là bầy quạ kê mổi khi có xác chết.bầ kênh kênh hưởng ứng nhào theo…ăn có,chía phần. Cái gì củng SAI hết. Bởi vì trong mắt chỉ thấy toàn là PHÂN không. Có người nói là hạ ông này xuống ,nâng ông kia lên ,hoặc ngược lại.Người nghe người đọc cứ tưởng là “người nói,người viết,người góp ý là người QG chân chính. ” Thì nó ca ngợi người QG,các Ông Tướng QG như tướng …… ,tướng … đó thôi. Nhưng nó đả chưởi hay sẻ chưởi hết rồi.,nghỉa là anh này nâng ông tướng này,”chê” ông Tướng kia,anh khác thì làm ngược lại .Cuối cùng thì Ông nào củng không ra gì .Cố nhiên là nó không ca ngợi VC,HCMvì như vậy,nó tự lột mặt nạ CS của nó ra và người TNCS chân chính,nhửng người còn chút liêm sỉ,còn cái học nhân bản ,thấm nhuần cái giáo dục rất nhân từ ,đạo đức,rất người của thời trước sẻ tẩy chay nó,sẻ cách ly nó,sẻ chỉ vào mặt nó : “đồ CS” .Vì chỉ có cái học “bác Hồ hơn MẸ hơn CHA” ,cái học “giết giết nửa bàn tay không ngừng nghỉ” cái học đấu cha tố mẹ,giết anh em,tròng váy lên đầu Ông nội ..
mà tên HCM gọi là trồng người,mói có nhửng tên “lucifer.satan” nhửng tên không là con người (phi nhân tính) như hôm nay…Bây giờ mới 2/3 của 100 năm nhưng coi bộ đả thành công lớn. Nó ảnh hưởng tới con cái ,và lớp người(hạn chế) VNCH sau ngày 30/4/75.Học hay thì khó,học chưởi cha mắng mẹ ,làm thịt anh em,bạn bè (ăn cả thịt ngườisông.người chết)thì dể, thì nhanh.
Có cần phải “CẠN TÀU, RÁO MÁNG ‘ như vậy không?
Ấy a, thì có thằng con liệt sĩ MTGPMN đó,
Tện nó là Bê Đê, Thiến Cu…đó, ai ơi.
Bà con mình thử theo dõi nó ê a đểu giả
trên này, mà xem ! Chỉ con liệt sĩ MTGPMN
mới có cái giọng điệu hạ cấp như rứa!
Laị dở trò chụp nón cối lên đầu người khác
Ychang VC Chúng nó củng dở chiêu CHỤP….
ĐCV là của Việt Tân .Cù Vù phản động.Bôxít NHChi chống phá nhà nước.
Ấy a,thì có thằng con liệt sỉ CSVN đó!
Tên nó thì nhiều lắm.Theo gương Bác,có cả 100 tên lặng.
Chỉ có con của liật sỉ CS mới có cái giọng điệu hạ cấp như rứa !
Thì ra củng một NÒi mà ra !
CÒN RƯỢU , CÒN CHÈ – CÒN ĐỆ TỬ.
HẾT CƠM , HẾT RƯỢU – HẾT ÔNG TÔI.
Tướng NCK chết rồi , vậy mà trong đám loạn quân bại trận ở hải ngoại này vẫn không hết mấy kẻ xấu miệng rỉa rói ông .
Nghĩa tử là nghĩa tận . Những Người Việt chân chính – ai cũng thế -chẳng nỡ nào .
Sao mấy kẻ lạc loài mạ̣o danh có học ,mà cư xử như loài Quạ trong bãi tha ma ?…
Ôi . Đàn Chim Việt .Mấy con Quạ có cùng Loài Hạc bay về Tổ không ?…
Nghĩa tử là nghĩa tận: TT Kỳ đã viếng thăm quan tài của TT Võ văn Kiệt, một người từng là kẻ thù khác chiến tuyến , nhằm hòa giải hận thù dân tộc.
Nghĩa tử là nghĩa tận: TT Kỳ muốn khi chết chim bay về tổ, muốn được về với mảnh đất Sơn Tây với Xứ Đoài mây trắng lắm , với rừng núi Bất bạt Ba Vì, nhưng đành phải để nắm tro tàn nơi đất khách quê người.
Sao không thấy ông trách những người đã không cho tro xác của TT Kỳ được vể với quê cha đất tổ?
Nghĩa tử là nghĩa tận, bài học cho người sống, CS không bao giờ thỏa hiệp hay hòa giải, khi chết rồi thì quá trễ để học bài học này . Bài học này chúng tôi đã được dạy dưới mái trường XHCN sau 75. Chỉ những người ra đi ngay sau ngày sụp đỗ miền Nam mới không biết mà thôi.
Nghỉa tử là nghỉa tân.nếu Tương Kỳ tới thăm quan tài của vỏ văn kiệt thì ông đả làm đúng cái điều mà một người có học,thấm nhuần lể nghỉa nho giáo ,phật giáo đả dạy.Tới thăm quan tài của một tên cs không còn chức quyền chỉ là để tỏ thiện chí người vn không phải là kẻ thù của người vn.
Rất nhiều người khi chết trăn trối đem về chôn tai QH.Tướng T, củng muốn tro cốt của ông đem về rải trên biển QKI mà suốt đời Ông gắn bó, Ông kỳ có gì không phải khi nguyện vọng muốn về nằm trên đấ quê hương,nơi chôn nhau cắt rốn,noi bao người thân còn sống hay đả chết.Không đem tro cốt về Sơn Tây có nhiều nguyên nhân mà chỉ có gd nguời quá cố biết..Còn để tro cốt nơi đất khách quê người,thì xin lổi,hảy vào nghỉa trang Oakhill coi có bao nhiêu người V, đả nằm xuống,bao nhiêu tro cốt đem lên chùa.Tùy hoàn cảnh,tùy tài chánh,và tùy đủ thứ…Vả lại sao gọi là đất khách quê người.Đả mất nước ,đả ở trên đất tinạn và là công dân sở tại thi “nhận nơi này làm quê hương ” có chi nắm tro,xương cốt mà gọi là “quê người “?
HHHG có gì không đúng .Làm hết sức mình,kêu gọi thẳng vơí thằng vC,với cái nguỵ quyền của nó chớđâu phải HHHG như trước năm 75,chỉ có giới trí thức maoxếnhxáng là kêu gọi chỉ một phíaVNCH không thôi.Nếu đả được dạy sau 75 thì 36 năm sau có thể thay đổi. Tình hình bây giờ khác xưa, Nhưng chúng ta tỏ thiên chí mà chúng không nghe thì đó là lổi của chúng.CùVủ củng kêu gọi như vậy mà bị tù 7 năm ,Nhưng vẩn phải nói lên tiếng nói của mình.Đừng đánh giá thấp nhửng người QG di tản trước 75 không biết gì về CS.Họđảchiến đấu kiên cường 20 năm chống cộng sản phương Bắc,không lẻ họ chống mà không biết mình chống ai và vì sao phải chống ?
Chỉ biết CS sau 75 mà tưởng mình có thể dạy người khác thếnào là CS hay sao ?
Tôi từng sống với XHCN, “được dạy dỗ dưới mái trường XHCN” , dạy về triết học Mác Lênin, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, về 3 giòng thác Cách Mạng ,về “cướp” và lợi dụng thời cơ , về chuyên chính vô sản và bạo lực Cách Mạn g, khác với TT Kỳ ông ta chưa từng sống với CS bao giờ cả , nên mới có cái vụ hòa hợp hòa giải dân tộc, điều này không hề có trong chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước . Điều này TT Kỳ không hề được biết và ngay cả khi TT Kỳ chết, ông Kỳ còn hoang tưởng sẽ được chôn nơi ông chào đời. Một điều mơ mộng xa xôi , ông Kỳ có thể đi đưa đám cựu TT Võ văn Kiệt, nhưng đừng mong điều ngược lại . Khi ông Kỳ hiểu điều này, ông ta đã ở thế giới bên kia với , điều duy nhất ông Kỳ có thể hòa giải là với Hồ ChíMinh, với Mác Lê “thế giới của người hiền”
Trước 75 tôi còn chưa qua bậc trung học thì chỉ có thể biết CS sau 75 mà thôi, và được biết họ từ chính họ, kinh nghiệm sống thực tế, không bằng mơ mộng viễn vông.
bich thuy oi !
nguyen cao ky biet vc chu ! dan Bac Ky di cu ma , nhung gia dinh nay ham tien tai dia vi danh loi , de dat duoc nhung cai do ho bat ke nhu the nao .
Thu nghi , neu dang tuyet mai khong duoc ban pho, cao ky duyen ky hop dong gi cung phai qua tay cong an , va Kim Le khong du phan an chia vao san Golf thi nguyen cao ky co yeu nuoc kieu bat tay vc nhu vay khong?
bac cao ky duyen noi khong ai dam bao bo cua bac khong yeu nuoc .Toi khang dinh la bo ky nhong cua bac ky duyen yeu tien tai dia vi danh tieng hon yeu nuoc VN
A ! Nhu vay , Bich Thuy la ke phan boi . O Nam VN , chung toi keu la ke chieu hoi .- … Do la nhung tu xau xa va khinh miet danh cho nhung ke phan boi nhu Bich Thuy – du la chay theo huong nao.
Hay ho gi ma khoe me the , ha ke phan boi – chieu hoi Bich Thuy ?
Tôi nhớ 2 câu thơ đó là của Nguyễn Khuyến hoặc Trần Tế Xương. Tuy nhiên you viết sai thơ của người ta rồi. Có thế mà còn viết sai thì you lấy gì để lên giọng giảng dạy người khác?
“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử,
Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.”
Thưa ông,
2 câu đó của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân Am Thi Tập.
Đúng! Cảm ơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm mà tôi không nhớ ra. Tôi nhớ ông Trạng Trình có nhiều bài thơ Thế Thái Nhân Tình hay lắm.
Thế gian biến cải vũng lên đồi,
mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi…
Thớt có tanh tao, ruồi đậu đến,
Gang không mật mỡ, kiến bò chi.
Ông Cao Bá Quát, cũng là Ngụy của triều Nguyễn có bài “Uống Rượu Tiêu Sầu” cũng rất hay.
Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười…
Cũng một lời nói là = xây dựng
Phát biểu lung tung hoá = phá hôi
Cá có đầu, người có tên…
Đừng nên vơ đũa cả nắm!
Nghe bài điếu văn mà…cãm động quá xá…
Y hệt như Tố Hữu bơm Hồ chí Minh.
Bơm…cạch cạch…
Không ngừng nghỉ, cho đến lúc anh ta lăn đùng ra, đi đứt…
Dân bảnh thứ thiệt như Bùi Quyền, Lê quang Lưỡng, Nguyễn khoa Nam, Ngô quang Trưỡng, Nguyễn xuân Phúc, Lê hằng Minh, Nguyễn thành Huấn (Phan?)…Vân vân. Còn sống hay đã chết, không cần em nào…khoe dùm, bơm lên; nhưng thiên hạ nghe tiếng, là bái từ xa bái tới. Tôn kính dấu trong lòng…
Sử sách còn đó, chuyện thật, quân sử ngàn người viết cũng đầy dẫy trên internet.
Cái nào hay, cái nào đúng, cái nào…bơm lên…
Người Việt tự do già trẽ lớn bé, bộ…ngu hết chắc?
Gương xưa, các đảng phái quốc gia nữa đêm bị cs cáp duồn, xuân Mậu Thân cs nhào vô xã súng, Nguyễn tường Tam…chạy vắt giò lên cổ mới khõi bị thủ tiêu. Bia tưỡng niệm nạn nhân tị nạn VC, nó đập hết trọi sau cái nghị quyết 36 kiểu.
Cộng nó gian gião khôn lường…
Giời ơi nà giời…, hát cái màn có công hoà hợp hoà giãi mà chạy được cái tội…nịnh Cộng để mần ăn, mang chúng vào chính sử. Sừ láo của VC thành chính sử VN…(Đời sau có phước…bắt ớn..)
Good luck, man!
Kính nguyện hương linh Tướng Nguyễn Cao KỲ:
Con biết có một linh hồn trong xác.
Khi xác con tàn, hồn sẽ phiêu diêu.
Không hóa kiếp! Hãy làm mây tản mác
Cùng đời đời theo nước Việt thương yêu. (Ý-Yên)
Thưa Thiếu Tướng: Rồi đây sẽ có loạn kiêu binh,
tranh dành quyền lực khắp nơi trên quê nhà.
Nhưng sau cùng, miềm hy vọng và sức bền bỉ tranh đấu
cho hy vọng đó của Thiếu Tướng sẽ thành hiện thực :
một nước Việt Nam hoà bình-công chính muôn đời!
Xin Thiếu Tướng nán lại cùng chúng tôi trong nỗi mong
cờ ngày đất nước an bình thạnh trị. (Tâm thành)
Con ôi! Ta chết, y như…sống
Bỏ xác…già, ta…bổng trẽ ra
Không đầu thai,
phải thành…ma
Mà…ma, đâu có…đá gà được, con?
Kiếp nhân sinh, chịu lòn, có số
Tại chúng…ngu, chúng…khổ, cũng là
Cái tật…nịnh Cộng mà ra
Ngày nay như…ống tà la, ai màng?
( Thôi, để ta…vọt, chớ than…)
Bà nó.
Con liệt sĩ MTGPMN
theo bám Tướng Kỳ vậy con?
Không sợ méo miệng sao con?
Vì chính sử, miệng con có…méo
Âu cũng là….trời khéo ban cho
Méo này vạch mấy mặt mo
Nỡ nịnh theo Cộng, nhỏ to dụ người
Hoà hợp mí….đười ươi, khỉ đột
Nỗi giận này, khắc cốt, sao quên?
Bơm thầy chúng nó mãi…rên
Con sao nín được?
Phải lên tiếng…
(phẹt phẹt…)
Nhân vô thập toàn.
Ông Kỳ cũng chỉ là một phàm nhân, chứ đâu phải là thánh nhân, nên cũng có máu “Tham-sân-si”. Ông BP Đặng Văn Âu có cần phải vẽ hoa tô phấn với câu: “Ông không phải là người lui tới cửa Khổng sân Trình, nhưng nhờ thấm nhuần nền Nho học của tổ tiên, suốt đời ông đã hành xử như một bậc chính nhân quân tử “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu không ham, nghèo không hèn và vũ lực không sợ“. (Phú quý bất năng dâm còn có ý nghĩa khác nữa)
Việc ông Kỳ đã làm trước 1975 thì mọi người đã thấy rõ, còn những việc ông làm từ khi về lại VN đến nay vẫn là một nghi vấn, cần phải có thời gian nghiệm chứng!
Ông ĐVA có cần phải ninh bợ tâng bốc đến nỗi “tốc váy” ông Kỳ lên như thế! nào là; “Người đời chê ông ít học vì họ không có hiểu biết lịch sử.“/ Có ai đánh đâu mà ông Âu nói năng như thế? Ông Kỳ “ít học” mà là tướng tư lệnh không quân và làm Phó Tổng thống VNCH?
Rồi “ vì muốn thắt chặt tình đoàn kết, ông đã nhường địa vị đó cho Tướng Thiệu và tỏ ý muốn trở về với anh em Không Quân là đơn vị mà ông gắn bó và yêu thương nhất.“/ Chức vị Tổng Thống chứ đâu phải cái nhà hay chiếc xe mà nhường với nhịn? Ông Tướng Hoàng Xuân Lãm có phải là kẻ dở hơi, tuyên bố tầm bây :”Nếu anh Kỳ đã thương Quân Đội thì xin hãy thương cho trót. Xin anh vui lòng đứng phó cho anh Thiệu thì liên danh Quân đội mới mong thắng cử. Nếu anh Kỳ không nhận lời thì tôi xin trả cặp lon Tướng này lại và xin ra khỏi Quân Đội” Tướng tá quân đội gì mà ăn nói kiểu này? Coi cá nhân hơn việc nước, vậy thì chiến đấu làm sao đây?
Chưa hết, ông ĐVA viết: “Các lãnh tụ trong vùng như Tưởng Giới Thạch, Marcos, Phác Chính Hy, Quốc vương Thái lan rất lấy làm hài lòng về cung cách ứng xử của ông đối với Hoa Kỳ, cường quốc số 1 lãnh đạo Thế giới Tự do. Đặc biệt Thủ tướng Tungku Abdul Rahman đã đề nghị Hoàng gia Mã Lai phong cho ông (Kỳ) tước vị TUN vào năm 1965 mà tới năm 2008 họ lục trong hồ sơ mới tìm thấy quên tấn phong ông. Hoàng gia Mã Lai không nhớ, ông cũng chẳng cần nhắc để được tấn phong thì đủ biết con người không màng danh vọng, chức tước“. Như vậy là Hoàng gia Mã Lai mới đề nghị chứ chưa phong, thế mà ông ĐVA cũng viết được…Thật là nghịch nhĩ quá! Nhưng nói cho cùng thì ông Kỳ vẫn có tư cách và đạo đức hơn ông Hồ Chí Minh nhiều!
Những câu “cái quan định luận”, “nghĩa tử là nghĩa tận” không phải là danh cho người chết đâu mà chính là cho chúng ta những người còn sống còn có thêm một dịp soi rọi lại chính mình trước cái lẽ vô thường của tạo hóa rằng dù ta là ai rồi cũng chết như người đó có điều ta còn phải kéo lê tình trạng goi là sống này sau người đó ít ra cũng vài giây vài phút cho đến vài chục năm nhưng chắc là không có vài trăm năm. Thế thì sau khi đốt vài nén nhan hay thành kính đọc một câu kinh rồi ngậm ngùi ra về ít ra mỗi người đều có một chút xít lại với mình vơi sự thật vốn luôn luôn bị quá nhiều thứ ảo tương “ như ai đem nhân ảnh nhuôm màu tà dương” che khuất mà một câu thơ cổ tài tình đầy hình ảnh của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia thiều đã nhắc nhở chúng ta. Người có học được định nghĩa như biêt dung đến sự suy nghĩ nhiều hơn là kẻ ít học , nhưng đôi khi trang bị them mớ kiến thức sách vở làm hành trang vào đời mấy ai thật sự tiêu hóa được để sống tốt hơn, đôi khi còn là một cản trở như anh GI Mỹ được trang bị tận răng vào tình thế lạ lại không bằng anh lính Cộng Hòa, anh linhs Cộng Hòa lại thua anh VC lanh như người vượn vì quen mấy thế này tư thời tiền sử rồi. Bản thân tôi nếu đầu tiên tìm đến triết hoc mà căm cổ đọc La Nausee, L’eetre et le Neant vì phong trào hiện sinh phản chiến lúc đó cùng cái mac no bel 1947 của Sartre thì sẽ sớm biến thành cụ non lãi nhải cho đời là buồn nôn rồi ca ngợi Mao đã đảo Công hòa lung tung rồi. Rất may là hể đọc một nhà tiếng tăm bên Tây thì tôi cũng rán đọc một nhà tương tự đằng Đông của mình và cố gắng tiêu hóa bằng cách cố bênh rồi cố chống và nạp vào bộ nhớ cho nó tự dung hòa và tổng hợp thành kiến văn của mình.Cũng nhờ vậy mà tôi phân biệt đươc cái yếm thế của Sartre là cô đơn vĩnh cửu từ bỏ mọi lien đới thong cảm bỏ măc cuộc đời dù sau này có chút sửa sai trong tư tưởng và hành động vô tình phản ảnh như thái độ của ông với cuộc chiến Đông Dương sau này. Còn cái “yếm thế” của đưc Phật là một sự tuyệt tri vô ưu mộtminh triết tới được bằng “ sự suy nghĩ” vượt qua cả phạm trù lí trí cố định của Tây lẫn Hồng Phạm bao la vi diệu ở phương Đông. Sự xã thân bô thí tất cả để làm giàu cái ngã đích thưc cũng là cái vô ngã vì niết bàn thì làm gì còn biên giơi nào kể cả một sợi tơ ngăn cách giữa hai ta với nhau. Hai kẻ bình dân một chữ bẻ hai không có nhưng với sự giản đơn long thanh thật và bằng một “cái pháp” rất bản năng là tình yêu thiêng liêng hồn nhiên trai gái một phút nào đó sau khi tác nước đầu đình họ vẫn cảm nhận được “ta với mình Tuy hai mà một”. Học phải với tinh thần “ hạ học nhi thượng Đạt “ trước hết thì phải cố găng đạt tới sự công băng và tìm đến sự thật như là một cứu cánh của tư duy đó là một nổ lực suốt đời và là hạnh phúc của người đươc cho là có học chư chưa dám nói đến hang trí thưc đại trí thức được người đời xưng tụng hay tự nhận như vậy. Người Việt minh vốn là những bộ tộc không lớn lắm lại bị chiến tranh triền mien nên cái học cũng phải vội vàng ít thấu đáo rồi cố vương đôi tay lấp liếm ,cũng gọi là khôn lanh,cho bằng với người ta kiểu mang dép lốp bay vào vũ trụ, còn đôi chân vì còn yếu còn ngắn mà không lo bồi đắp , nhưng nếu có ai nói tới thì sần gân cổ cải kiểu Trạng Quỳnh. Bản thân tôi không được học tới nơi tới chốn nhưng tự hoc và luôn tìm kiếmdấu vết sư thật bằng trao đổi và kiểm chứng thực tế và “ đổi thay mắt cũng thấy Hơn ba đời” và có nhận xet như thế này:
Có lẽ vì suốt lịch sư sự thay đổi nào rồi người dân đa số cũng là nạn nhân oan trái khổ đau đầy dẫy nên họ hình thành từ bao giờ cái tính cầu an lo kiếm đường sống cho mình họ rất dè dặt cung kính thưa bẩm dưới nhiều hình thưc từ lố bịch của dân đenđến “đầy văn hóa” của trí thưc khi họ còn phải sống dưới trướng của người cầm quyên(loại này nhiều quá so với mưc trung bình của các dân tôc khác (?) .Có thể nói họ dùng lời nói để che dấu sự thật chứ không phải là để nói lên sự thật như vốn có của ngôn ngữ. Nhưng nhờ lí do nào đó họ thoát ra được họ sẵn sàn chưởi bới phê phán không một chút công bằng hầu như để thỏa mãn cái dồn nén và bù trừ cho cai thua sut trước nay cũng như chỗ họ đang sống, và người bị chưỡi càng chưc vị cao nỏi tiếng thì càng đả đời hay sao ấy. Đối diện với người có quyền lưc thì họ sợ sệt nhưng ghen ti, những thành ngữ như “ chó nhảy bàn đôc” , chó ngáp phải ruồi…” luôn ở cửa miệng họ. Ông Nguyễn Cao Kỳ là một trường hơp điển hình để hứng chịu cho họ thỏa mãn cai tâm lí đó. Măc dầu ca ngơi môt con người nổi tiếng vè chình trị, một lảnh tụ bằng những phạm trù đạo đức dành cho con người tầm thừơng dĩ hòa vi quý là không cần thiết và khập khiểng như ông DVA đã viết, nhưng tôi cho rằng Ông KY là một người lãnh đạo bôc trưc thẳng thắng với dân với kẻ thù khả tín và làm được nhiều điều khá nhất trong tất những ai ở vao vị trí như ông đã từng nắm giữ
Đường về lắm nẻo ông chọn một lối riêng cho ông cũng rất cao kỳ để về nước, về cõi Phật. Cầu chúc ông đạt được ý nguyện đời người của minh và linh hồn ông sớm siêu thoat.
( Hồi đó nếu ông hi sinh như PPQ chăc chúng ta sẽ được nghe một bản nhạc độc đáo về cái tên của ông rồi)
Nếu có chữ NẾU như you nói thì còn gì phải bàn nữa. Chính phủ Mỹ nó cũng nói nếu ngày xưa nó không cố gắng đem quân sang VN thì chính trị và thể diện của nó đâu đến nỗi suy thoái trên thế giới đến như vậy. Đâu phải nó muốn đem quân sang VN là được, phải can thiệp vào nội bộ VN trước, phải đổi ông đại sứ khác mang sang VN để tổ chức đảo chánh, rồi phải mang tiền qua trả công cho mấy ông tướng VNCH chịu làm điều đó nữa; trước đó cũng còn phải dựng lên những biến cố chính trị, xúi PG biểu tình, làm đủ trò và cuối cùng thì cái chuyện đem quân sang VN chỉ để ôm đầu máu về cho cả thế giới người ta chửi.
Ông Kỳ cũng thế, NẾU ông ta chết sớm được vào giờ đó thì đỡ biết mấy, thôi để ông ta dẹp xong loạn PG rồi chết thì đỡ hơn nữa. Nhưng ông Loan cũng có nhiều điểm nổi bật giống ông Kỳ hồi đó, dân miền Nam có ai muốn ông ta chết sớm như thế đâu?
Ý kiến của you chỉ là suy nghĩ của những ông thầy tu. Người dân đối diện với chính trị thì tốt nhất là phải có phản ứng trước những sự kiện chính trị, còn nếu cứ khoanh tay thì khác nào khuyến khích cho tội ác.. Ông Kỳ làm được việc lúc còn trẻ, nhưng đâu phải vì thế mà người ta có thể thông cảm cho những hành động (tuổi già của ông) bôi nhọ chính thể VNCH, phản bội những người chiến hữu của ông đã nằm xuống và đồng thời bôi nhọ cuộc đấu tranh chống độc tài CSVN của người tị nạn VN trước công luận quốc tế như vậy!